Chương XIII
Thế là
tôi sống một mình trong rừng được năm tháng. Thực ra, nói sống một mình cũng
không hẳn đúng. Năm tháng qua, tôi đã có dịp quen biết với những cư dân khác của
rừng. Nếu không kể những con sóc giống nhau như được đúc ra từ một khuôn suốt
ngày thoắt ẩn thoắt hiện trên cành cây và những bầy chim chợt bay tới hót ồn ào
một lúc rồi bay đi; nếu không tính đến một nhà nai nào đó tảng sáng tinh mơ đi
ăn về ghé lại vũng suối trước nhà tôi uống nước, hoặc những con thú tình cờ
ngang qua hay các loài côn trùng sâu bọ, thì cư dân chính của khu rừng này
không nhiều lắm, nhưng quan hệ với nhau cũng rất phức tạp như vẫn thường diễn
ra trong cuộc sống.
Trước hết, phải nói đến gia đình khỉ. Nơi cư
ngụ của chúng ngay trên cây đa, nên nhà khỉ là láng giềng gần nhất. Hôm đầu thấy
tôi, lũ khỉ leo tít lên cành cao nghiêng đầu ngó xuống. Những ngày bận rộn dựng
nhà, tuy không để ý, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp một cái đầu khỉ nhô ra
sau khóm lá, giương cặp mắt tò mò nhìn kẻ lạ mặt mới tới đang làm những việc lạ
lùng mà chúng chưa từng thấy bao giờ. Thời gian sau quen dần với sự có mặt của
tôi, và có lẽ cảm thấy vị khách không mời mà tới này cũng không có gì nguy hiểm,
nên lũ khỉ tỏ ra bạo dạn hơn. Chúng leo xuống nhảy nhót ngay trên cành cây thấp
xòa trước nhà. Có hôm từ dưới suối lên, tôi còn thấy chúng nô đùa trên vạt đất
trống nơi tôi thường đốt lửa nấu nướng vào những ngày nắng.
Đến lúc đó tôi mới biết nhà khỉ có năm con, và
dần dần phân biệt được từng con một. Đứng đầu là con khỉ đực đã già dáng bộ chững
chạc, (nếu không muốn nói là đạo mạo) và có vẻ chậm chạp so với những con khác.
Hai hàng lông mày và chòm lông bên thái dương nó nhạt màu như đã chớm bạc chứ
không vàng nâu như mấy con kia. Khỉ già ít chạy nhảy. Có hôm đang chặt cành khô
làm củi, chợt ngước lên, tôi thấy nó ngồi im trên cành cây chăm chú nhìn xuống
như cố tìm hiểu xem tôi làm như thế để làm gì.
Sau khỉ già là cặp vợ chồng khỉ dáng còn trẻ,
cũng nhanh nhảu nghịch ngợm giống mọi con khỉ khác. Tôi biết chúng là vợ chồng
bởi nhiều lần thấy chúng âu yếm nhau, hoặc ngồi vạch lông bắt rận cho nhau một
cách tình tứ. Còn hai khỉ con thì khỏi phải nói! Chúng chỉ nhỉnh bằng bắp tay
tôi, bộ lông còn thưa và nâu nhạt chứ chưa nhuốm vàng như bố mẹ chúng, nhưng đã
nghịch như quỷ. Suốt ngày chúng trèo lên tuột xuống, đu từ cành này qua cành
khác, lúc lúc lại cấu véo nhau chí chóe. Ngay cả lúc rảnh rỗi cả nhà ngồi phơi
nắng, chúng cũng không mấy khi chịu ngồi yên cho "người lớn" bắt rận.
Hầu như chúng không sợ gì bố rnẹ. Nhiều khi chúng đuổi nhau leo bừa qua mình mấy
con khỉ lớn, đu cành tuột xuống rồi xô đẩy nhau ngã lăn ra bãi cỏ. Những khi
đó, chỉ có tiếng lẹc khẹ của khỉ già mới làm chúng dịu lại.
Quan sát nhà khỉ láng giềng, tôi rất ngạc
nhiên. Nghe nói loài khỉ thường sống thành bầy đàn chung chạ, và mỗi lần đẻ, khỉ
mẹ chỉ sinh được một con, vậy mà ở đây, gia đình khỉ trông có vẻ có "tôn
ti trật tự” hẳn hoi. Tôi cũng chẳng thể nào biết được hai nhóc khỉ có phải là
anh em sinh đôi hay không, nhưng trông chúng rất giống nhau. Hay một trong hai
con là con nuôi?
Một hôm đi rừng, tôi gặp bên bờ suối buồng chuối
rừng đã chín, có quả bị chim mổ ăn gần nửa. Chuối rừng quả nhỏ nhưng nếm thử thấy
ngọt và thơm, chỉ tội nhiều hạt. Tôi chặt cả buồng bỏ vào ba lô mang về.
Sáng hôm sau, tôi lấy nải chuối trên cùng đã chín
rục đem để dưới gốc cây đa, rồi nhìn lên cây làm điệu bộ như mời nhà khỉ xuống
ăn. Chẳng biết chúng có hiểu không, hay nhờ mùi chuối chín mà khi tôi lên nhà
ngồi một lúc, thấy lũ khỉ mò tới. Trái với dự đoán của tôi, không phải hai khỉ
con lanh chân chạy trước mà là khỉ già với dáng bộ thận trọng đi đến. Nó đặt một
chân trước lên nải chuối, mắt nhìn lên nhà tôi, nửa như ngẫm nghĩ, nửa như dò hỏi.
Lát sau không thấy tôi tỏ thái độ gì, nó mới bưng nải chuối quay lại gốc cây, lần
này thì nhanh nhảu như... khỉ.
Từ đó mỗi lần đi rừng gặp quả chín có dấu chim
ăn, tôi lại hái mang về cho lũ khỉ. Lâu dần thành lệ, mỗi khi thấy tôi đi đâu về
chúng thường nhìn tôi chờ đợi. Những lúc có quà hai khỉ con lại là những kẻ
nhanh chân nhất. Bố mẹ chúng cũng tỏ ra không thua kém, chỉ có khỉ già vẫn giữ
được vẻ đĩnh đạc hàng ngày. Quan hệ đôi bên dần dần trở nên tin cậy, thân thiết
hơn. Tất nhiên nhà khỉ chẳng bao giờ biếu lại tôi thứ gì, nhưng tôi không so
đo. Nhờ lũ khỉ mà tôi biết thêm nhiều loại quả dại ăn được, chúng là chuyên gia
trong lĩnh vực này. Chỉ tiếc là tôi không biết được tên từng loại quả vì lũ khỉ
không nói.
Những con khỉ đáng yêu đã giúp tôi phần nào
vơi bớt nỗi buồn khi phải sống đơn độc giữa rừng. Mỗi khi về tới nhà gặp lúc
chúng đi kiếm ăn, tôi lại thấy cô quạnh vì thiếu vắng tiếng chí chóe quen thuộc
trên cây.
Nhưng
mối quan hệ hàng xóm láng giềng dù thân thiết đến đâu cũng không tránh khỏi có
lúc va chạm. Một buổi chiều, sau cả ngày tìm kiếm mệt nhoè mà chẳng có kết quả
gì, tôi lê bước leo từng bậc cầu thang lên nhà. Khi mở cửa, trước mắt tôi hiện
ra cảnh đổ vỡ tan tành. Thực ra trong nhà chẳng có tài sản gì nhiều, nhưng tôi
điên tiết lên khi thấy mấy bao gạo sấy tung tóe khắp nơi. Những bao gạo mà tôi
đã cố nhịn ăn dành dụm phòng khi mưa gió. Vô số những hạt gạo trắng nhờ, khô
cong vương vãi đầy trong khe gỗ sàn, lẫn cả vào tro bếp. Tôi tức giận cầm một
bao gạo bị xé rách nhảy xuống, chạy tới đứng dưới gốc cây đa nhìn lên, vung tay
múa chân chửi mắng om sòm. Tôi không còn biết lúc đó nói những gì, nhưng có lẽ
đã sử dụng hầu hết những từ mà người ta thường dùng trong những dịp tương tự.
Trên cây lũ khỉ im thin thít, hai khỉ con leo tuốt lên trên cao.
Quát mắng một lúc để nguôi giận, tôi quay lên
nhà, âm thầm nhặt từng hạt gạo bỏ lại vào bao. May sao chúng không xé rách bao
muối hầm. Thôi thì cũng lỗi tại mình thiếu cẩn thận! Đây có lẽ là trò nghịch ngợm
của hai nhóc khỉ, chúng đã luồn qua lỗ thông gió mà tôi quên cài trước lúc đi.
Lâu lắm rồi, hôm nay tôi mới có dịp nói ra thành tiếng...
Sáng hôm
sau, tôi mang chỗ gạo bẩn ra suối đãi sạch rồi bỏ vào gô nấu chín. Tôi chỉ ăn mấy
miếng, còn lại đem đổ ra tàu lá chuối đặt dưới gốc cây đa. Chiều về thấy lũ khỉ
đã chén sạch. Chúng không để bụng chuyện đụng chạm vừa rồi nên chẳng tự ái và
cũng không khách sáo.
Một hôm khác, tôi nhóm lửa treo gô lên bếp để
nấu nước rồi ra suối câu cá. Mãi chưa câu được con nào, tôi sốt ruột định nhảy
ùm xuống tắm, bỗng nghe tiếng lũ khỉ chéo véo. Tôi vội xách súng chạy lên. Tới
nơi thấy gô nước đổ tung tóe, mấy khúc củi cháy dở vung vãi quanh bếp bốc khói
mù mịt, còn nhà khỉ đang túm tụm cuống quít bên gốc đa. Thấy tôi đến, hai khỉ bố
mẹ và một khỉ con leo vội lên cây, riêng khỉ già vẫn hốt hoảng chạy tới chạy
lui bên một con khỉ con khác nằm lăn lộn trên cỏ. Có lẽ chú ta đến bên đống lửa
bắt chước tôi đun bếp nên bị bỏng. Mấy túm lông trên vai và bụng cháy quăn thoảng
mùi khét. Vết bỏng không nặng, chỉ hơi đỏ tấy. Nó đạp chân lên mấy thanh củi và
bị lửa bén vào, chứ nếu bị dội nước sôi thì chưa biết hậu quả sẽ như thế nào. Ở
đâu cũng vậy, trẻ con thường gây ra những chuyện rắc rối làm mất lòng người lớn.
Tôi bế khỉ con lên nhà, mở nắp bi đông mật ong
đổ một ít ra chiếc lá khô rồi dùng ngón tay chấm bôi lên những chỗ da bị bỏng.
Khỉ con nằm yên trong tay tôi, thỉnh thoảng kêu khẽ mấy tiếng, đôi mắt ngây thơ
chớp chớp. Rõ ràng chú ta bị choáng vì sợ hơn là đau do vết bỏng. Tôi đem chú
xuống nhà thả bên gốc cây, cả nhà khỉ nhào xuống đến rối rít. Lát sau chúng đã
cùng nhau đu chuyền trên cành. Không biết mật ong có chữa được vết bỏng hay
không, nhưng ít ra nó cũng là thứ thuốc có tác dụng tốt đối với tâm lý khỉ.
Ngày qua ngày, lũ khỉ càng quyến luyến tôi
hơn. Những chiều tôi về muộn, thường thấy chúng quanh quẩn trước nhà chờ đợi.
Có hôm cả nhà kéo nhau theo tôi ra suối. Khỉ già ngồi nhìn tôi câu cá, còn những
con khác leo trèo nhảy nhót trên mấy tảng đá. Sau này mỗi lần ra suối, tôi thường
giao cho khỉ già xách bi đông nước. Nó tỏ ra vô cùng thích thú vì được tin cậy.
Thử hỏi cả cánh rừng này đã có con vật nào được như nó? Bắt chước tôi, nó
choàng dây bi đông qua cổ nhưng dây dài quá vướng chân không đi được, nên lại cởi
ra vừa nhảy vừa kéo lướt sướt trên cỏ. Những lúc lấy nước vào bi đông, tôi cố ý
làm chậm từng động tác cho khỉ già thấy. Chỉ sau mấy lần, nó đã biết lấy nước
vào bi đông và vặn nắp thành thạo.
Lúc tôi chặt cành khô làm củi và đem chất dưới
gầm sàn, cả nhà khỉ lại kéo xuống giúp xếp củi. Chúng tíu tít quanh đống củi chọn
những thanh nhỏ, vừa đi vừa kéo một cách vụng về. Cuối cùng những con lớn cũng
đem vào được vài thanh, chứ hai khỉ con chỉ làm cho mọi việc rối lên. Chúng
lăng xăng bận rộn, vừa lôi thanh này ra, đã lại vứt xuống lấy thanh khác. Có
khi cả hai con cùng túm lấy một thanh, giằng co nhặng xị cả lên. Đến lúc chán
chúng vứt bừa ra đấy, leo lên cây nhảy nhót vin cành bẻ lá, rồi lại tụt xuống
bãi cỏ vạch lá khô tìm trứng kiến để ăn.
Một cư dân khác mà tôi muốn nói tới là con báo
hoa. Nó cư ngụ ở cây cổ thụ gần bờ suối, cách chỗ tôi ở khoảng bốn trăm mét.
Cái cây này có một nhánh to bị gãy xuống vướng vào cây bên cạnh tạo thành cái cầu
gỗ, mưa nắng lâu ngày làm nó tróc vỏ nứt nẻ và bạc trắng. Tôi gặp con báo trong
một lần đi ngang qua, lúc nó đang nằm phơi nắng trên nhánh cây gãy. Thấy nó,
tôi hơi giật mình đứng lại. Biết loài báo không vô cớ tấn công người, tôi cố gắng
không làm những cử động đột ngột. Đó là một con báo cái đang độ sung sức có bộ
lông vàng điểm những chấm đen rất đẹp. Dạo trước anh Hùng kể ở Việt Nam chỉ có
loài tiểu báo, mà phần nhiều là hắc báo, thường gọi beo đen, chứ giống báo đốm
hoa vàng này rất hiếm.
Khi tôi xuất hiện, báo hoa chỉ đưa mắt nhìn
thoáng qua rồi lại cúi xuống liếm lông, vẻ lười nhác như một con mèo sau bữa
ăn. Nó không mảy may đếm xỉa gì đến tôi, có lẽ tự cho mình là dân chính gốc của
rừng, chẳng việc gì phải săn đến với kẻ ngụ cư mới tới.
Về sau thỉnh thoảng tôi vẫn gặp nó. Dù có hơi
e dè khi phải giáp mặt với "người" láng giềng không mấy cởi mở này,
nhưng trong lòng tôi thầm thán phục mỗi khi nhìn con báo bước uyển chuyển trên
bãi cỏ với dáng vẻ đầy tự tin. Điều kỳ lạ là lũ khỉ sống cách chỗ báo hoa không
xa mà chúng chẳng có vẻ gì lo lắng. Nhiều lần vẫn thấy cả nhà khỉ đu cành đi kiếm
ăn về hướng ấy. Phải chăng rừng sâu có luật riêng của nó, thứ luật bất thành
văn mà con người chưa thể biết và hiểu hết?
Mấy lần bắn được thú rừng ăn không hết, tôi lại
đem đến treo trên gốc cây gần nơi báo hoa ở. Đấy là những tặng vật hậu hĩnh vì
có lúc tôi cho nó nguyên cả đùi lợn rừng. Tôi chỉ lấy số thịt đủ dùng trong vài
ngày do chẳng có cách gì trữ lâu được. Về mặt này, báo hoa là kẻ láng giềng may
mắn. Lũ khỉ vốn là hậu duệ chính tông của Tôn Ngộ Không nên chẳng quan tâm gì tới
món thịt rừng. Khắt khe mà nói, chúng cũng “phạm giới" khi ăn trứng kiến.
Bẵng đi một
dạo, phải đến mấy tháng trời tôi không gặp báo hoa. Thời gian này tôi mải mê với
việc tìm kiếm, thường đi sớm về muộn. Đến hôm nhìn thấy bi đông mật ong đã gần
cạn, tôi bèn nghỉ việc một ngày đi kiếm mật về trữ để dùng dần.
Sáng đó tôi men con suối ngược lên đầu nguồn,
nơi gần đi lấy mây về làm nhà có gặp tổ ong. Lúc ngang qua nơi ở của báo hoa,
tôi chợt nghe những tiếng gừ gừ là lạ, bèn nhẹ nhàng rẽ lá bước vào. Cảnh tượng
nhìn thấy trước mắt làm tôi hết sức bất ngờ và thú vị: trên đám cỏ gần gốc cây,
con báo hoa đang âu yếm thời với hai con báo con. Thấy tôi, nó chỉ hơi nghiêng
đầu nhìn rồi lại tiếp tục liếm đầu liếm cổ cho con. Hai chú báo con mới chỉ
nhinh bằng con mèo, bước đi còn chưa vững. Mỗi lần báo con loạng choạng, con
báo mẹ lại nhẹ nhàng lấy mõm và chân đỡ cho chúng khỏi ngã. Báo con trông rất dễ
thương. Chúng có bộ lông mềm mại lốm đốm vàng den giống mẹ, nhưng sắc màu còn mờ
nhạt. Đôi mắt chúng gần như trong veo và đầy vẻ ngây thơ. Tuy chưa bước vững
nhưng trên hai thân hình nhỏ bé đã thấy nét uyển chuyển duyên dáng của loài
báo. Nhìn báo mẹ, tôi không thể ngờ được là con vật hoang dã, biểu tượng uy
nghiêm của rừng già lại thể hiện tình mẫu tử đầy trìu mến và cảm động đến như vậy.
Ánh mắt, sắc mặt và từng cử động của con báo đều như toát lên lòng yêu thương
và sự mãn nguyện pha chút kiêu hãnh đối với hai đứa con thiên thần của nó.
Không muốn làm xáo động những giờ phút ấm cúng của mẹ con báo hoa, tôi lặng lẽ
rút lui.
Hôm đó, tôi may mắn gặp tổ ong ruồi to tướng
nên lấy được đầy hai bi đông mật cùng mấy tầng sáp mà tôi định dùng làm nến thắp.
Nói thực, tôi không phải là thợ lấy mật chuyên nghiệp nên chỉ áp dụng phương
pháp cổ điển nhất. Nghĩa là, khi gặp tổ ong thì bứt một bó cỏ khô buộc chung với
mấy cành tươi, đốt cho khói mù lên xua đàn ong bay đi, rồi dùng dao xẻ vội mấy
tầng sáp đầy mật, túm vào tấm nilon bưng chạy thật xa mới dám ngồi lại vắt mật
vào bi đông. Tất nhiên cách làm như vậy nhìn vào không đẹp, cứ như di ăn trộm,
còn nếu nặng lời có thể gọi là ăn cướp cũng được. Nhưng tôi chỉ lấy số mật đủ
dùng chứ không phá nát cả tổ. Bầy ong lúc quay lại sẽ thấy không bị thiệt hại
gì nhiều lắm.
Cách đó mấy ngày, vào một buổi chiều khi trở về
nhà sau ngày làm việc, tôi tình cờ bắn được con chồn hương khá to lúc nó chạy
ngang qua đường. Vốn có ý định từ mấy hôm nay nên tôi xách con chồn đi thẳng tới
chỗ con báo. Tôi đến đúng lúc báo mẹ đang tập cho con nó leo cây. Một con báo
con đang bám vào thân cây, cái đầu nhỏ nhắn cứ ngọ nguậy, hết ngước lên lại
nhìn xuống, ý chừng nó còn sợ không dáng leo cao. Nhìn bốn cái chân xinh xắn
run run, tôi cũng thấy tội nghiệp, nó đang còn bé quá. Nhưng báo mẹ biết rõ việc
mình làm. Nó lấy mõm vừa đỡ vừa ủi cho con leo dần lên, miệng gừ gừ nửa dỗ dành
nửa đe nẹt. Thấy đã chiều, tôi đặt con chồn lên nhánh cây gần đó rồi quay về.
Lát nữa báo mẹ sẽ nhận được món quà tôi dành cho nó.
Lúc ấy tôi không hề biết rằng chẳng bao giờ
mình còn gặp lại báo hoa nữa. Nhưng sự kiện tiếp theo trong mấy ngày sau đó đã
chứng tỏ ở góc rừng già êm ả này, cuộc sống vẫn diễn ra hết sức nghiệt ngã theo
đúng những quy luật có tự muôn đời.
Lúc đó là buổi sáng, chừng mươi ngày sau hôm
mang con chồn tới cho báo mẹ, tôi đang ngồi trên nhà lau súng. Chiều hôm trước
tôi gặp mưa ngoài rừng nên cả người và súng đều ướt sũng. Mặc dù hết sức sốt ruột
với việc tìm kiếm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tự dành cho mình một ngày thong
thả để nghỉ ngơi và tìm thêm thức ăn hoặc làm các việc lặt vặt khác. Sáng hôm
đó trời đẹp, cả khu rừng ngập trong ánh nắng vàng óng. Tiếng chim hót xôn xao
hòa với tiếng thác nước rào rào ngoài suối. Vạn vật say sưa trong cuộc sống
thanh bình.
Đang định lắp lại các bộ phận súng vừa lau
xong, tôi chợt nghe có tiếng kêu của lũ khỉ. Hơi ngạc nhiên vì biết hôm nay trời
đẹp, cả nhà khỉ kéo nhau đi kiếm ăn từ sáng sớm, nhưng tôi vẫn ngồi lắp cho
xong khẩu súng. Lát sau nghe tiếng chúng gần hơn, hình như lũ khỉ vừa chuyền
cành về phía nhà tôi vừa kêu hoảng hốt. Đã quá quen với những âm thanh của gia
đình láng giềng vốn lắm lời này, tôi nhận ra lũ khỉ đang giận dữ và hoảng sợ đến
tột độ. Nhất định là có chuyện gì khác thường. Bước ra cửa, thấy lũ khỉ đu từ
trên cành cây xuống đất chạy về phía tôi, dẫn đầu là khỉ già. Lúc này đã thấy
rõ nỗi hoảng sợ của chúng. Cả năm con đều kêu chộn rộn, những tiếng lẹc khẹc
líu lại với nhau đến nỗi nếu có biết tiếng khỉ, chắc tôi cũng chẳng nghe được
là chúng nói gì. Nhìn lũ khỉ nhảy loi choi chạy tới chạy lui dưới chân cầu
thang, tôi vừa buồn cười vừa thương hại. Chúng đang tự giận mình vì không biết
cách làm cho tôi hiểu điều chúng muốn nói. Con khỉ già ôm đầu bứt lông nhăn
nhó. Lát sau, nó cứ chạy về phía tôi vài bước rồi lại quay lưng chạy mấy bước về
hướng chúng vừa tới, đầu ngoái nhìn tôi, đôi mắt như van lơn điều gì đó. “Đúng
rồi...", tôi chợt hiểu. Lũ khỉ muốn tôi đi theo chúng. Chắc có việc gì khẩn
cấp đây!
Tôi nhào vào nhà xách súng, vớ thắt lưng đạn
nhảy xuống cầu thang, vừa chạy vừa cài vào người. Qua khỏi bãi cỏ lũ khỉ nhanh
nhẹn đu lên cây, chuyền ào ào trên cành dẫn tôi chạy về phía đầu con suối. Được
một quãng, tôi nhận ra mình đang chạy về hướng gia đình báo hoa. Đầu tôi nhói
lên linh cảm chẳng lành. Tới gần gốc cây nơi mẹ con báo hoa ở tôi bước chậm lại,
tuột súng cầm tay thận trọng rẽ lá quan sát Kia rồi! Trên vạt cỏ dưới gốc cây
nơi hôm trước gặp mẹ con nhà báo, nay chỉ thấy một con báo con đang bò lui bò tới
dáng ngơ ngác và hoảng hốt. Báo mẹ và một con báo con nữa đâu? Chắc có chuyện
gì khủng khiếp xây ra, chứ báo hoa không khi nào bỏ rơi con như thế! Tôi nhẹ
nhàng bước thêm mấy bước. Dù sao cũng phải cảnh giác. Nếu con báo mẹ bất ngờ trở
về và hiểu lầm thì tôi còn oan hơn cả Thị Kính.
Tôi đá
nhìn thấy những dấu vết đáng chú ý: phía bên kia gốc cây có một vạt cỏ nhàu
nát. Cả những cành lá của bụi cây gần đó cũng tơi tả. Rõ ràng ở đây vừa có cuộc
vật lộn quyết liệt. Tôi tới gần hơn và chợt nhìn thấy một vũng máu đang đen đặc
lại. Bên cạnh vũng máu, có vệt lõm kéo dài trên lớp đất mềm... Thôi chết rồi!
Con trăn mốc! Đây chính là những dấu vết của nó. Trăn mốc là cư dân thứ ba của
góc rừng này, kẻ láng giềng mà tôi đang định nói tới.
Nhưng việc gì đã xẩy ra với mẹ con báo hoa?
Tôi bồng chú báo con đang hoảng sợ lên, đăm chiêu suy nghĩ. Lũ khỉ nhấp nhổm
trên cành, nãy giờ nín lặng nhìn theo từng động tác của tôi, lúc này cùng ồ
lên, tranh nhau lẹc khẹc ầm ĩ. Con nào cũng làm ra vẻ ta đây biết nhiều chuyện
nhất. Có thể lũ khỉ biết nhiều chuyện thật, nhưng chúng chẳng cung cấp được gì
cho tôi cả. Tôi lại đi quanh tiếp tục tìm những dấu vết khác, cố hình dung sự
việc vừa xẩy ra.
Ngay từ khi mới tới đây sống được vài tháng,
tôi đã biết trong góc rừng này còn có một cư dân nữa, đó là con trăn mốc. Nơi ở
của nó là cái khe cạn gần chân núi, cách chỗ con báo chừng nửa cây số. Cái khe
này hai bên bờ cây thấp mọc um tùm, dưới lòng khe tối tăm vì ánh mặt trời không
rọi tới có những tảng đá và những hang hốc đen ngòm ẩm ướt. Lần đầu tiên tôi
nhìn thấy dấu vết của trăn mốc là hôm đi qua đám cỏ gần bên khe cạn, bắt gặp mấy
đống lổn nhổn xương của một con thú bốn chân nào đó. Những khúc xương tuy vỡ
nát nhưng còn tươi, có khúc còn thấy vệt gân bám hồng hồng. Bên cạnh có mấy bãi
lướt sướt màu đen bốc mùi tanh lợm. Vạt đất mềm gần bờ khe nhẵn thín. Tôi đoán
nơi đây có một con trăn đang sống. Trăn rắn trong rừng chẳng thiếu, nhưng con
trăn này to lắm, và nó sống ở đây đã lâu rồi.
Từ đó, mỗi lần đi qua khu vực này tôi lại hết
sức cảnh giác. Cảnh anh Hùng bị trăn quấn còn in đậm ấn tượng kinh hoàng trong
tâm trí tôi. Tuy vậy, mãi cho đến hôm nay tôi vẫn chưa giáp mặt nó lần nào. Nói
chưa giáp mặt là hoàn toàn chính xác, vì có hai lần gặp nó nhưng chỉ kịp thấy
khúc đuôi to tướng mốc thếch vút nhanh vào đám lá rậm. Đã quá biết sự nham hiểm
của loài bò sát gớm ghiếc này, lại thêm hành tung của kẻ láng giềng đầy mờ ám,
nên tôi chẳng có chút cảm tình nào với nó.
Nếu so ra thì trăn mốc hoàn toàn không xứng là
đối thủ của báo hoa cả về tính cách lẫn khả năng chiến đấu. Nó có thể cuốn nát
nhừ rồi nuốt trọn con nai nặng hàng tạ, nhưng không thể đọ nổi bộ răng và móng
vuốt sắc nhọn được phát huy đến tuyệt đỉnh bởi giác quan nhạy bén, sức dẻo dai
bền bỉ và phản xạ cực kỳ lanh lẹ của loài báo. Cùng với tài leo trèo như mèo,
chạy nhanh như cọp, dáng vẻ uyển chuyển duyên dáng và bộ lông mượt mà của con
báo đã làm cho nó xứng đáng là niềm kiêu hãnh của rừng già.
Trên đường về nhà, tôi ôm con báo nhỏ bé trong
tay vừa bước vừa suy nghĩ. Nó không ngớt ngọ ngỵây, miệng kêu những tiếng não
nuột. Bầy khỉ bỏ cả việc kiếm ăn hàng ngày, đang chuyền cành theo phía sau. Lúc
này chúng chẳng thiết gì chuyện ăn uống. Sự việc thương tâm vừa xẩy ra khiến những
cư dân của khu rừng vốn thanh bình này phải đau lòng và sửng sốt. Những dấu vết
để lại trên hiện trường chứng tỏ mẹ con báo hoa bị hại bởi trăn mốc. Chắp nối
các tình tiết, tôi hình dung sự việc diễn ra như sau:
Từ lâu, trăn mốc đã biết đến sự có mặt của con
báo trong cánh rừng này. Đối với nó, con báo mềm mại kia là một miếng mồi ngon
nhưng không thể với tới được. Nó tự biết mình không phải là đối thủ của báo
hoa, và ở đây đâu thiếu con mồi. Nhưng do bản tính nhỏ nhen của loài bò sát, nó
ganh tị với phong thái tự tin và đầy bản lĩnh của con báo. Trong khi luôn tìm
cách tránh mặt, trăn mốc vẫn rắp tâm rình mò chờ cơ hội. Nó có thuận lợi vì con
báo chẳng bao giờ xem nó là con mồi, cũng không nghĩ nó là kẻ thù.
Và rồi trong cuộc sống, có khi sự hèn hạ nhưng
nham hiểm lại chiến thắng sức mạnh và lòng kiêu hãnh. Cơ hội mà trăn mốc chờ đợi
từ lâu đã tới khi nó thấy báo hoa sinh con. Trăn mốc rình rập và ra tay, đúng
hơn là bung thân ra để cuộn mẹ con nhà báo hoa lúc đang đùa rỡn với nhau. Con
báo sau khi sinh nở, rồi trong những ngày chăm con mọn, đã có phần mỏi mệt và
thiếu nhạy bén. Hơn nữa, nó quá say mê hai thiên thần của nó nên thiếu cảnh
giác. Đúng ra khi phát hiện trăn mốc cuộn tới, báo hoa chỉ cần khẽ nhún mình là
thoát khỏi vòng nguy hiểm, nhưng nó không nỡ để lại những đứa con. Khi nó vừa kịp
cắp lấy cổ một con báo con thì trăn mốc đã siết cả hai mẹ con nó trong những
vòng thân tanh tưởi. Con báo còn lại văng ra bãi cỏ. Lũ khỉ vừa tới kịp chứng
kiến tội ác, bèn hốt hoảng chạy về báo tin cho tôi. Nếu không có chúng, tôi chẳng
bao giờ biết được điều gì đã xây ra với mẹ con báo hoa.
Những điều kể trên chủ yếu dựa vào sự liên kết
các tình tiết và có phần suy đoán, nhưng tôi nghĩ nó không xa sự thật bao
nhiêu. Điều cần tính tới lúc này là làm sao chăm sóc cho báo con, và sau nữa,
phải ổn định lại hòa bình ở góc rừng này. Nếu còn trăn mốc thì những cư dân
khác, kể cả tôi đều luôn bị nguy hiểm rình rập. Cả ở nơi hoang dã, cuộc sống
cũng cần phân biệt thù, bạn rạch ròi. Kẻ thù không thể chung cùng mảnh đất. Hơn
nữa, tôi thực sự phẫn nộ trốn sự tấn công hèn hạ của trăn mốc. Nếu hai con vật
đó đọ sức trong một cuộc đối đầu sòng phẳng thì chẳng nói làm gì! Lẽ công bằng
phải được áp dụng cho muôn loài.
Về tới
nhà, tôi lúng túng với chú báo con trong tay, chưa biết nên làm gì. Báo con đã
ăn được gì chưa hay còn bú mẹ? Có lẽ phải làm cho nó một cái chuồng, nhưng trước
hết phải cho nó ăn cái đã. Nãy giờ báo con kêu mãi, chắc vì đói.
Tôi lên nhà lấy bi đông mật ong róc một ít ra
vỏ hộp thịt. Chẳng có cái thìa nào, tôi lấy chiếc đũa nhúng vào mật cho nó liếm.
Nhưng mỗi lần đưa đầu đũa vào miệng là nó cứ nguẩy đầu né tránh, có khi còn đưa
chân trước lên ẩy ra và lại không ngớt kêu béo béo nghe não cả ruột. Cuối cùng,
tôi đành đặt nó trước mặt khỉ già rồi lấy dao đi làm chuồng. Lúc này mấy con khỉ
lớn vẫn loanh quanh trước nhà, còn hai khỉ con thì đã leo lên cây đùa nghịch.
Đúng là trẻ con bao giờ cũng vô tư.
Tôi định làm cho báo con một chiếc cũi bằng những
thanh gỗ tròn như kiểu người ta xếp gỗ làm miệng giếng. Xuống dưới gầm sàn, tôi
lôi ra được mấy thanh gỗ vừa ý, nhưng thấy chưa đủ nên xách dao vào rừng đốn
thêm.
Khi vác bó thân cây về tới nhà, thấy chú báo
đang nằm ngoan ngoãn trong lòng khỉ già. Con khỉ ngồi bệt trên cỏ, một tay ôm
báo con, một tay đưa chiếc lá khô có dính mật ong cho nó liếm. Nhìn cái lưỡi nhỏ
xíu đỏ hồng mềm mại liếm mật trên lá, tôi thầm phục khỉ già thông minh. Chắc chắn
nó sẽ là trợ thủ đắc lực của tôi trong việc nuôi nấng đứa trẻ mồ côi này. Làm
xong chiếc cũi, tôi đặt nó lên đầu sàn nhà, rải vào một ít lá khô rồi bỏ báo
con vào đó. Sau khi được khỉ già cho ăn nó đã dịu lại, không còn kêu luôn miệng
như trước. Tôi ra suối lấy nước, lúc quay lại thấy nó đã ngủ thiêm thiếp trên lớp
lá khô, xinh xắn như một chú mèo con.
Tối đó
tôi thao thức nghĩ cách trừng trị trăn mốc, mãi gần sáng mới chọn được một
phương án tạm coi là tối ưu.
Tôi xách súng đi về phía rừng le với ý định bắn
cho được một con thú lớn. Mùa này ở đó thường có lợn rừng tìm tới ăn măng. Sau
mấy giờ rình mò, tôi cũng gặp được bầy lợn khoảng bốn, năm con. Tôi chọn bắn
con nhỏ nhất, ước độ bốn chục kí. Con thú ngã vật ngay sau tiếng nổ, những con
còn lại chạy biến trong rừng le. Tôi xốc con lợn lên vai trở về nhà.
Đến chiều tôi đem con lợn ra bờ suồl dùng dao
xẻ một miếng lấy thịt ăn, rồi dùng dây buộc phần còn lại treo rút lên cành một
cái cây mọc trơ trọi bên bờ suối để phơi nắng.
Ngày hôm sau, tôi ra hốc cây đa lấy khẩu AR15
có kính ngắm mang vào nhà. Mặc dù khẩu súng trông vẫn còn mới nguyên nhờ được
lau chùi và bao bọc cẩn thận, tôi vẫn tháo ra lau kỹ từng bộ phận, tỉ mẩn kiểm
tra độ nhạy của cò súng, lắp băng đạn vào kéo khóa nòng vài lần cho trơn tru.
Khẩu này tôi đã thử, thấy rất chính xác: đặt nấc phát một bắn ba phát, cả ba
viên cùng trúng chụm vào một điểm. Tôi còn lấy dao găm đem ra suối mài thật sắc,
đút vào vỏ cài ở thắt lưng thay chỗ con dao rừng vẫn mang thường ngày. Trước mỗi
trận đánh, sự chuẩn bị chu đáo không bao giờ thừa.
Ngày sau nữa, tôi dậy sớm, choàng thắt lưng đạn
vào người, cài thêm chiếc xẻng nhỏ rồi xách khẩu AR15 ra bờ suối ở phương đông
trời mới rạng, mặt trời chưa lên khỏi ngọn cây của cánh rừng phía bên kia đồi cỏ.
Trên dòng suối vẫn còn một dải sương trắng mờ như khói. Tôi đến bên gốc cây cắt
dây hạ xác con lợn rừng xuống. Qua gần hai ngày phơi nắng nó đã hơi sình lên và
có mùi. Vác con lợn lên vai, tôi đi về hướng cái khe cạn chỗ trăn mốc trú ngụ.
Quãng đường chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng nửa giờ sau tôi mới tới vì phải
luồn rừng với con mồi trên vai.
Sau khi quan sát cẩn thận, tôi bước đến bên gốc
cây thọc giữa đám cỏ, gác con lợn lên nhánh cây cao ngang ngực, dùng dây buộc
chặt nó vào đó. Việc còn lại bây giờ là nhanh chóng chọn chỗ mai phục và kiên trì
chờ đợi. Tôi khoác súng leo lên một cây có tán lá thưa mọc tách biệt với dải rừng
xung quanh. Có khoảng trống sẽ an toàn hơn. Tôi không muốn mình trở thành con mồi
của trăn mốc trong khi ngồi rình nó. Nghe nói loài trăn gió không chỉ kiếm ăn
trên mặt đất mà còn leo cây bắt mồi rất nhẹn.
Điểm tôi chọn ở cuối hướng gió, là nơi mai phục
khá lý tưởng. Từ đây tới chỗ con mồi, và đoạn bờ khe có vết trán bò là ba điểm
tạo thành một tam giác cạnh khoảng sáu chục mét. Tôi ngồi trên nhánh cây to mọc
ngang, dựa lưng vào thân cây, co chân trái lên nhánh cây để lấy điểm tựa và
giương súng ngắm thử. Tốt rồi! Mọi việc đều ổn!
Chăm chú quan sát đoạn khe cạn, tôi thấy khó
có thể nhìn được gì dưới lòng khe tối om ấy. Hy vọng tính toán của tôi đúng, tức
là: con trăn đã muốn ăn lại nó phát hiện ra con mồi và lê mặt khỏi chỗ nấp. Khi
đó việc quyết định là găm chính xác một viên đạn vào đầu nó. Tôi đã làm tất cả
những gì có thể, còn kết quả bây giờ phụ thuộc vào việc đối thủ có chịu xuất đầu
lộ diện hay không.
Hơn một giờ trôi qua. Cái khe trước mặt vẫn im
lìm lặng lẽ. Tôi bắt đầu thấy tê mỏi vì ngồi bất động. Bao giờ cũng vậy, sự chờ
đợi càng kéo dài càng căng thẳng. Kinh nghiệm cho biết, nếu không tự chủ tốt
thì lát nữa tôi sẽ rơi vào trạng thái lơ mơ bất động như bị thôi miên bởi những
âm thanh đơn điệu đều đều của rừng vắng. Tôi buông lỏng các cơ bắp và thỉnh thoảng
nhìn ra những điểm xa gần khác nhau cho mắt khỏi bị mỏi.
Gần trưa, tôi đã thấy sốt ruột. Và chẳng hiểu
từ đâu, một nỗi lo lắng mơ hồ len vào suy nghĩ làm tôi cảm thấy hoang mang.
Không biết mình có phạm phải sai lầm nào không? Có phải con mồi lộ liễu làm
trăn mốc cảnh giác? Hay lúc này nó không có ở dưới khe? Nghe nói con trăn ăn một
bữa nhịn được cả tháng? Hay cũng như loài rắn, nó không phát hiện ra nếu con mồi
bất động hoặc không có thân nhiệt? Nếu đúng vậy thì chỉ còn trông trăn mốc
"trình độ" hơn đồng loại... Tôi chẳng mấy hiểu biết về loài trăn,
cũng chưa nghe ai kể chuyện săn trăn ngoài chuyện Thạch Sanh chém trăn tinh
trong cổ tích. Nhưng con nào chưa biết, chứ trăn mốc tham ăn là cái chắc. Mà
báo hoa thuộc giống tiểu báo không to con cho lắm, đối với trăn mốc chỉ lưng lửng
dạ..." Ngay từ đầu mình đã tính tới việc thất bại, nhưng cả trong trường hợp
đó cũng không được nản. Tất cả đang còn ở phía trước. Mình sẽ kiên trì ngồi đây
suốt ngày hôm nay và nếu cần, cả những ngày tiếp theo. Không thể chịu thua nó!
Không trừ nó trước, sẽ có lúc mình trở thành con mồi của nó trong một lần luồn
rừng nào đó..."
Nhìn đám
lá um tùm trên khe cạn, tôi nhận ra từ sáng tới giờ chưa có con chim nào đậu
lên đó, mặc dù các nơi khác trong rừng đều nghe tiếng chim hót. Cái khe lạnh lẽo
đang toát ra tử khí. Chắc chắn trăn mốc có ở dưới đó, và nó sẽ mò ra.
Lúc này nắng đã gay gắt. Những tia nắng xuyên
qua tán lá thưa chiếu tới bên vai làm lớp vải áo nóng lên, mồ hôi bắt đầu đổ giọt
trên mặt. Có tiếng động khẽ trong tán lá trên đầu làm tôi giật mình nhìn lên.
Thì ra một chú sóc bay từ cành cây gần đó liệng tới. Cánh rừng này có rất nhiều
sóc bay. Những con sóc bé nhỏ có màng mỏng nối bốn chân với thân nên chúng có
thể liệng từ cây này qua cây khác như chim. Sóc bay rất hiền lành, suốt ngày
lúc nào cũng tỏ ra tất bật bận rộn. Tôi thấy vui vui. Ít ra lúc này mình cũng
có con sóc làm bạn, chứ không như đối thủ, ngay cả một con chim cũng không dám
đến gần...
Mặt trời gần tới đỉnh đầu. Đang định đổi lại
tư thế ngồi cho đỡ mỏi, chợt cảm thấy trong lòng khe có sự chuyển động mơ hồ
nào đó nên tôi căng mắt nhìn. Một phút… hai phút... rồi ba phút. Vẫn chưa thấy
gì? Nhưng tôi tin ở cảm nhận của mình. Kia rồi! Có vài chiếc lá khẽ rung. Không
phải gió. Những chiếc lá này ở sát mặt đất. Và trong đám lá đó, một cái đầu
trăn hiện ra, rất nhẹ, rất êm! Cứ như nó đã có sẵn ở đó từ trước. Con trăn đang
nghe ngóng động tĩnh.
Thêm mấy phút nữa. Tôi ngồi im như dán vào
thân cây tay nắm hờ khẩu súng gác trên đùi, cố điều hòa hơi thở để làm dịu sự hồi
hộp. Chắc không thấy gì dáng ngờ nên con trăn trườn thêm một quãng, ra khỏi đám
lá được hơn mét. Cái đầu tam giác bè bè bắt đầu ngỏng lên, nhìn rõ cặp mắt tròn
giống hai hòn bi ve. Nó ngoác miệng, cái lưỡi gớm ghiếc thò ra thụt vào như
đánh hơi. Và có lẽ đã nhìn thấy con mồi, nó trườn nhanh về hướng đó, toàn thân
nó lên hết bờ khe hiện rõ trước mắt tôi. Lớp da có những hình lục giác tứ giác
màu đen màu xám loang lổ cuồn cuộn như dòng chảy trên đám cỏ, vài chiếc vảy chốc
lại lóe ánh mặt trời. Tôi hít một hơi dài, từ từ nâng súng lên.
Khi cái đầu con trăn hiện rõ trong kính ngắm
thì nó chợt dừng lại. Tôi ngừng thở. "Không lẽ nó phát hiện ra những cừ động
của mình..." Trăn mốc còn cách con mồi chưa tới bảy mét, đầu ngóc cao dần.
Trong kính ngắm, tôi nhìn rõ cặp mắt nó như lồi ra. Nó đang thôi miên con mồi
hay bị miếng mồi ngon thôi miên? Phần thân trăn nằm trên mặt đất co lại: chiếc
lò xo đang nén. Đã đến lúc? Tôi nhanh chóng đưa một "hòn bi ve" vào
tâm chữ thập của thước ngắm và bóp cò. Phát súng nổ đanh gọn. Cái đầu con trăn
đang ngóc cao bỗng gập xuống như bị ai phang một cú trời giáng. Cùng lúc, tấm
thân dài thượt của nó bung ra như văng khỏi mặt đất. Tôi hạ súng, sững sờ nhìn
con trăn lồng lộn giãy chết. Cảnh tượng trông thật khủng khiếp! Cả thân hình nó
lởm chởm vảy, lúc cuộn lại thành một nùi thịt khổng lồ, lúc bung ra quằn quại.
Khúc đuôi nặng nề vật vã quật liên hồi làm cả vạt cỏ rộng nát nhừ. Từng đoạn
thân nó uốn éo cong vồng, lôi theo cái đầu bết máu lê trên dết. Phải hơn mười
phút sau con trăn mới thôi vùng vẫy. Nó nằm đừ trên đám cỏ nhàu nát, những thớ
thịt trên mình vẫn còn giật giật.
Đến lúc này người tôi mới hết co cứng, các cơ
bắp chùng lại. Tôi nhắm mắt ngả đầu tựa vào thân cây, buông thòng chân xông đất.
Cảm giác mệt mỏi dễ chịu lan khắp toàn thân...
Một tiếng chim đột ngột hót vang trong vòm lá
trên đầu làm tôi choàng tỉnh. Tôi ngồi lơ mơ chưa lâu, nhưng những phút thư
giãn đó đã giúp đầu óc tỉnh táo hẳn. Tôi đóng khóa an toàn, khoác chéo súng sau
lưng ôm thân cây tuột xuống, cà nhắc mất một lúc vì chân trái tê cứng. Khát khô
cả họng. Ban sáng tôi cố ý không mang theo bi đông nước, sợ khi ngồi phục không
nhịn được lấy ra uống sẽ gây cử động dễ lộ.
Bóng cây đã tròn lại. Sau những phút vắng lặng,
giờ đây cả khu rừng lại râm ran tiếng chim, những âm thanh líu lo vang mãi lên
tầng trời xanh thẳm.
Tôi đến bên xác con trăn. Lúc này mới thấy
trăn mốc to kinh khủng. Toàn thân nó phải dài hơn chục mét, vòng bụng to như cột
nhà. Con này có gọi là "trăn tinh" cũng không ngoa? Viên đạn găm
trúng con mắt bên phải xuyên ra sau làm toác một lô còn rỉ máu trên đầu nó.
Nhìn cái xác khổng lồ của trăn mốc, tôi thở
dài. Phải chôn thôi! Nếu không cả góc rừng này sẽ thối hoắc hàng tháng trời.
Tôi rút xẻng đưa mắt nhìn quanh chọn chỗ đất liềm để đào hố.
Mất hơn một tiếng đồng hồ mới đào xong cái hố
đủ chôn xác con trăn. Mồ hôi tuôn ướt đẫm cả áo nên tôi càng khát tợn, nhưng
không thể bỏ đi tìm nước. Sáng đi vội chưa kịp cho báo con ăn, giờ chắc nó đang
gào khản cổ ở trong cũi. Tôi cắt một đoạn dây rừng buộc thành thòng lọng lừa
vào cố con trăn thít lại, gắng sức kéo xác nó tới bên miệng hố. Nặng quá, chẳng
nhúc nhích được mấy! Tôi phải chặt một nhánh cây làm nạng, hì hục đẩy từng khúc
cho nó khoanh gọn trong hố, lùa đất đầy rồi dùng chân giậm kỹ. Chẳng bao lâu nữa
cỏ sẽ mọc lên.
Tôi quay trở về rất nhanh, ra thẳng suối uống
nước rồi vội vã lên nhà. Điều nhìn thấy trước mắt làm tôi nhẹ người. Bầy khỉ
đang chơi đùa với báo con dưới chân cầu thang. Nhìn chú báo, không ai nghĩ nó bị
bỏ một mình suốt ngày nay. Báo con đang dùng chân trước vờn một trái cây chín đỏ
mà lũ khỉ hái về cho nó. Hai khỉ con nhảy nhót xung quanh, mở to đôi mắt tò mò
nhìn những động tác vụng về của người bạn bé nhỏ nhưng đã có dáng đĩnh đạc hơn
hẳn chúng. Tôi nhẩm tính, thấy báo con ít ra cũng vài tháng tuổi. Ở quê tôi,
chó con một tháng người ta đã đem về nuôi.
Hơi ngạc nhiên khi mấy con khỉ lớn nhìn tôi vẻ
khép nép và sợ sệt, nhưng vì vội nên tôi không chú ý lắm. Bước lên cầu thang,
thấy những khúc gỗ chặn trên cũi bị kéo lệch sang một bên. Chắc khỉ già nghe
báo con gào nên dỡ ra để bế nó xuống. Tôi lấy bi đông mật ong rót một ít ra vỏ
hộp thịt, đem tới bỏ trước mặt khỉ già rồi xuống suối tắm. Nó đã biết cách cho
báo con ăn như thế nào. Cởi quần áo dìm xuống nước, tôi bỗng hiểu ra là mùi của
con lợn rừng và con trăn còn vương trên người tôi làm cho lũ khỉ sợ hãi. Tôi lội
xuống đứng dưới thác. Nước chảy ào ào trên người, mát lạnh đến rùng mình.
Lúc từ dưới suối lên thì trời đã gần tối. Dưới
phân cầu thang chỉ còn mình khỉ già với báo con. Chỗ mật trong vỏ hộp hết nhẵn,
rõ ràng có sự tham gia của hai nhóc khỉ. Tôi ẵm con báo lên và xoa đầu khỉ già.
Lần này nó không né tránh nữa.
Bữa tối, tôi tự thưởng cho mình bằng cách mở hẳn
một hộp thịt nấu cháo với gạo sấy. Số gạo còn lại trong bao sáng mai sẽ nấu cơm
đãi lũ khỉ. Món cháo thịt hộp ngon vô cùng! Đã lâu rồi nay tôi mới ăn lại những
thức ăn có gia vị đậm đà mà con người thường dùng. Tôi cũng dành cho con báo ít
cháo. Nó ăn nhưng có vẻ không được ngon miệng cho lắm. Tôi đến tôi ôm con báo
vào ngủ trong nhà. Nó cứ rúc vào người tôi tìm hơi ấm, bộ lông mềm mại như một
cuộn bông.
Tôi chỉ bận rộn với báo con trong khoảng một
tuần, còn sau đó mọi việc trở nên dễ dàng hơn khi nó ăn được những miếng thịt
tươi xé nhỏ. Rồi đến hôm thấy nó leo được lên cái cây trước nhà và nằm gọn ghẽ
trên nhánh cây thì tôi hoàn toàn yên tâm. Báo con biết leo trèo sớm như vậy, có
lẽ phần do bản năng, phần nhờ những bài tập vỡ lòng của mẹ. Con báo hoa đã
không chần chừ khi dạy những điều cần thiết cho lũ con non nớt. Nó biết ở nơi
hoang dã, mọi việc đều có thể xẩy ra.