Góp nhặt trên net.
Khảm xà cừ hay cẩn xà cừ là
một nghề thủ công của Việt
Nam đã thấy nhắc trong sử sách từ thế kỷ
thứ 3-5, thời kỳ Bắc thuộc. Sang triều
Trần thì nghề khảm vỏ ốc đã khá điêu luyện nên được triều đình trưng thu
làm cống phẩm gửi sang tặng nhà Nguyên năm 1289.
Khi người Âu Châu
sang đến Việt Nam thì trình độ hàng khảm địa phương được nhắc đến là một trong
những nghệ thuật cao, rất tinh vi, khéo léo. Điển hình là năm 1868 Thống soái
Pierre-Paul de La Grandière đã xin triều đình Huế gửi 2 người
thợ khảm giỏi vào Sài Gòn để truyền nghề. Sang năm 1877 thì hàng khảm
ốc Việt Nam được triều đình gửi sang Pháp dự Hội chợ Đấu xảo.
Chất liệu xà
cừ thông thường được lấy từ trai, ốc nên khảm xà cừ còn
được gọi là khảm trai hay khảm ốc.
Người thợ khảm trai
dùng những mảnh vỏ trai để khảm (gắn) lên các đồ vật. Các công đoạn cần phải
thực hiện khá tỉ mỉ: vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm lên tranh rồi lại
mài nhẵn và đánh bóng. Bước đầu tiên là chẻ vỏ thành mảnh rồi rọc theo thớ.
Mảnh vỏ ốc cắt xong thì đem ngâm nước rồi hơ đèn nóng để uốn phẳng vì vỏ ốc vốn
cong. Trong khi đó mặt vật dụng muốn khảm (thường là mặt gỗ) phải khoét lõm để
nhận lấy mảnh vỏ ốc. Người thợ dùng sơn ta để gắn. Gắn xong thì đem
mài. Trước mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại
đánh bằng vôi bột. Bước cuối cùng là đánh bằng lá ngái rồi
xoa bột gạo lên.
Nền các bức khảm xà cừ
thường có màu tối của lớp sơn đen, chứ không có thêm nhiều màu như
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác, do bản thân chất liệu xà cừ đã có đã tạo lên
nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí.
Ở Việt Nam ta có một số làng nghề truyền thống lâu đời
như:
· Làng nghề
Chuôn Ngọ, Chuyên Mỹ, Phú Xuyên,Hà Nội
· Làng
nghề Ninh Xá, Ý Yên, Nam Định.
· Làng
nghề Cao Xá, Ứng Hoà, Hà Nội
· Làng
nghề Địa Linh,xã Hương Vinh, H. Hương Trà, TT-Huế
Mời các bạn thưởng lãm một số cổ vật khảm xà cừ đẹp được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Các công đoạn để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh cần phải thực hiện khá tỉ mỉ: vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm lên tranh rồi lại mài nhẵn và đánh bóng. Ở bước khảm thì người nghệ nhân dùng những mảnh vỏ để khảm (gắn) lên các đồ vật.
Hộp đựng thức ăn khảm xà cừ triều Nguyễn.
Vỏ ốc để khảm được chẻ vỏ thành mảnh rồi rọc theo thớ. Mảnh vỏ ốc cắt xong thì đem ngâm nước rồi hơ đèn nóng để uốn phẳng vì vỏ ốc vốn cong. Trong khi đó mặt vật dụng muốn khảm thường là mặt gỗ phải khoét lõm để gắn mảnh vỏ ốc.
Hộp đựng thức ăn khảm xà cừ triều Nguyễn.
Người thợ dùng sơn ta để gắn vỏ ốc vào gỗ. Gắn xong thì đem mài. Trước mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại đánh bằng vôi bột. Bước cuối cùng là đánh bằng lá ngái rồi xoa bột gạo lên.
Kỷ thờ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Khảm xà cừ thường được dùng ở đồ trang sức, khuy áo, đũa, đồ gỗ như bàn, ghế, giường, sập, tủ, bình phong, tranh treo tường. Nó thường được kết hợp với đồ gỗ đánh bóng sơn mài mỹ nghệ.
Tráp đựng trầu khảm xà cừ triều Nguyễn.
Nền các bức khảm xà cừ thường có màu tối của lớp sơn đen, chứ không có thêm nhiều màu như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác, vì bản thân chất liệu xà cừ đã tạo lên nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí.
Hình chim và hoa đào trên một bức tranh khảm xà cừ triều Nguyễn.
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ, người ta có thể sử dụng máy móc trong quá trình khảm xà cừ.
Tranh gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Dù đã có máy móc thay thế nhưng một tác phẩm nghệ thuật thật sự với các chi tiết tinh xảo lại đòi hỏi bàn tay khéo léo, tài hoa, óc sáng tạo phong phú – điều chỉ có thể đạt được khi người thợ nhẫn nại làm thủ công ở tất cả các công đoạn.
Cuốn thư khảm chữ “Đan Thư” (sách hội tụ lời hay ý đẹp của cổ nhân) triều Nguyễn.
Cảnh rước rồng trên một bức tranh khảm xà cừ triều Nguyễn.
Một cảnh trên bình phong khảm xà cừ niên hiệu Thành Thái (1890).
Bề mặt tủ gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Cận cảnh một cánh cửa tủ gỗ khảm xà cừ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét