Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

24/04/2024

Tu hành để làm chi?

 


Mọi người thấy, hiện nay nhà sư hay chùa chiền làm đủ thứ chuyện, như nuôi trẻ con, nuôi người già, làm từ thiện, bốc thuốc, v.v… Những chuyện này đều tốt cả, nhưng hỏi đó có phải là mục đích rốt ráo của tu hành hay không?

Không. Vì, nuôi dưỡng người cô quả thì giống các cô nhi viện hay trại tế bần, làm từ thiện thì từ cá nhân đến các tập đoàn lớn đều có, chữa bệnh thì bệnh viện hay nơi này nơi khác cũng làm. Ăn chay thì chả cứ phải tu, nhiều người Âu, Mỹ bây giờ cũng ăn chay vì lý do sức khỏe; phóng sinh thì các tổ chức bảo vệ động vật trên khắp thế giới còn làm tốt hơn nhiều.

Vậy đi tu là để sống cho tốt và thanh thản tâm hồn? Cái này ở nhà cũng làm được. Vả lại ở đâu mà chả phải lo sống cho tử tế; còn thanh thản thì do cái suy nghĩ của mình thôi. Đấy là nói vậy, chứ người không làm việc xấu ác thì tâm hồn tự thanh thản, đâu cần phải cạo tóc đi tu. Còn suốt ngày “hiến kế” để lùa tiền cúng dường của bách tính thì có cạo đầu ở chùa tâm vẫn bất an.

Phật nói “Nước trong bốn biển chỉ có một vị, là vị mặn; pháp của ta cũng chỉ có một vị, là vị giải thoát”. Mục đích tối cao của Phật giáo là giải thoát. Giải thoát khỏi cái gì? Cái khổ.

Phật giáo nhìn thấy bản chất của đời sống chỉ có một màu: khổ đau. Nghèo hay giàu, khỏe hay bệnh, nam hay nữ, sang hay hèn, trẻ hay già….tất cả đều khổ. Và cái khổ cuối cùng là chết. Chết không phải là hết, chết là để bắt đầu một hành trình khổ mới. Đi tu là để thoát khỏi tất cả những nỗi khổ này, mà mấu chốt là ở chỗ đoạn dứt sinh tử luân hồi.

Tất cả những việc đã kể trên chỉ là trợ duyên, là phụ họa, muốn đạt được mục đích thì phải Giới – Định – Tuệ. Không Giới thì chẳng thể Định, không Định thì Tuệ mờ tối, Tuệ đã mờ tối thì không cách chi chứng được thật tướng của tồn tại. Vì thế, dù có từ thiện, phóng sinh, ăn chay… vạn kiếp cũng chỉ là kẻ sống trong ảo ảnh do cái thức điên đảo của mình dựng lên, và cứ thế trôi lăn mà không cách gì tự nhận biết được.

Đọc lịch sử từ thời Đức Phật còn tại thế, chúng ta thấy ông cùng học trò không hề làm tất cả những việc kể trên, cùng lắm là “tùy duyên”, tiện tay thì làm, xong là thôi và liền trở lại con đường của giới định tuệ. Các nước theo truyền thống nguyên thủy bây giờ cũng vậy, chùa chiền không phải là nơi để đến ngắm cảnh, du lịch hay trại tế bần. Người tu sĩ có một công việc lớn lao phải làm, đó là dồn toàn bộ cuộc đời và sinh mạng mình vào con đường khai mở trí tuệ để đạt đến giải thoát. Và vì thế, nhiều người đã trở thành mô phạm cho thế gian về đức hạnh và sức mạnh tinh thần.

Đi tu là để thoát khổ, vì thế, tất nhiên nếu anh không thấy khổ thì chẳng việc gì phải đi tu, cứ ở đời mà sống cho sướng. Oái oăm ở chỗ không phải ai cũng biết thế nào là sướng là khổ thật sự. Để thấy Khổ (và Không, Vô thường, Vô ngã) lại cần phải có trí tuệ.

Bài này không phải phản đối việc làm từ thiện, làm được thì tốt thôi, tôi chỉ nói cái cốt lõi của tu hành để không lẫn lộn nó với các tổ chức từ thiện. Đấy là chưa kể những thứ méo mó như mượn hình tướng Phật giáo và việc từ thiện để gom tiền thiên hạ.

30/12/2023

Kinh Vãng Sinh

Vãng sinh quyết định chân ngôn hay Vãng sinh Tịnh độ thần chú là mật ngôn được trì niệm phổ biến trong các khóa lễ Tịnh độ, cầu siêu. Thần chú này có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni. Cứ vào tên của Đà la ni (Tổng trì, thâu nhiếp vạn pháp, tạm gọi là chân ngôn hoặc thần chú) cho biết thần chú này có công năng phá trừ tất cả nghiệp chướng căn bản, để được vãng sinh về Cực lạc.
Theo kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ 7 (HT.Thích Thiền Tâm dịch), Bồ tát Phổ Hiền vì thương xót chúng sinh thời mạt pháp nên nói Đà la ni này để trợ duyên được mau vãng sinh về Tịnh độ:
Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay vì thương tưởng chúng sinh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sinh về Cực lạc, gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni. Liền nói chú rằng:
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh tịnh. Ngày đêm sáu thời (*), mỗi thời tụng 21 biến.
Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng Chánh pháp. Thường được Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu.  Hiện đời an ổn, phước lạc. Khi trút hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sinh. Trì tụng đến ba chục ngàn biến liền thấy Phật ngay trước mặt”.
Xưa nay, phần lớn những hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thường trì niệm thần chú Vãng sinh theo phiên âm tiếng Hán.
(*) Lục thời còn gọi là lục thì tức là sáu khoảng thời gian. 3 thời giờ ban ngày và 3 thời giờ vào ban đêm, hiệp thành sáu thời được phân định như sau: 
Ba thời giờ ban ngày là: 
- Sáng sớm hoặc gọi là sớm mai.
- Lúc mặt trời giữa trưa.
- Lúc mặt trời lặn.
Ba thời giờ ban đêm là: 
- Đầu hôm tức trời vừa tối.
- Nữa đêm (khoảng 12 giờ khuya trở lên).
- Cuối đêm (khoảng 3 hoặc 4 giờ sáng).


13/12/2023

Cốt yếu của Phật Pháp

 Thiền sư Ô Sào


  

Chư ác mạc tác, 

Chúng thiện phụng hành, 

Tự tịnh kỳ ý, 

Thị chư Phật giáo.


Tránh làm các điều ác

Năng làm các điều lành

Điều phục tâm ý mình

Đó là lời Phật dạy.

Đứa trẻ lên ba cũng biết nhưng ông già tám mươi chưa chắc đã làm xong…

Phật dạy chúng ta không chỉ tránh sát sinh mà còn phải cứu mạng chúng sinh, xuất phát từ tâm từ bi thương yêu muôn loài. Chúng ta không những không trộm cắp mà còn bố thí, chia sẻ yêu thương, giúp đỡ chúng sinh không phân biệt thân sơ, sang hèn.

27/11/2023

Tu Phật

 


Một người đến tu viện.

Thiền sư hỏi: “Ông muốn làm gì ở đây?”

Người đàn ông trả lời: “Tôi đến để tu Phật.”

Thiền sư trả lời: “Phật không có hỏng, không cần ông tu sửa, ông tốt hơn là tự tu sửa chính mình.”

Cảm ngộ: Tu là sửa mình, không phải sửa người.

25/11/2023

Công năng của Đại Bi Chú đối với Phật tử hành Thiền


Cửa Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, một người học Phật dù cố gắng hành trì, tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp cũng không dễ gì có thể lĩnh hội hết tất cả nội dung phong phú đó huống là chỉ một đời người.

Cho nên, tùy theo căn cơ, duyên nghiệp, một khi đã phát tâm đi vào con đường giải thoát, hành giả hoặc nhờ phúc duyên được chư Phật, chư Bồ Tát độ trì dẫn dắt, hoặc do minh sư chỉ bảo, mỗi người cần nên tự chọn cho mình một pháp môn để tu tập.

Có rất nhiều pháp môn tu học phổ biến trong đại chúng hiện nay như Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Định… Pháp môn tuy có thể khác nhau, nhưng một khi đã tự xem mình là trưởng tử của Như Lai, hạnh nguyện của mỗi hành giả đều giống nhau, đó là noi theo ánh sáng của chư Phật, quyết tâm xé bỏ bức màn vô minh, đạp qua nẻo luân hồi sinh tử để đi vào con đường giải thoát, tiến đến đạo qủa bồ đề, hầu mang lại an vui, phúc lợi không những cho riêng mình mà còn cho toàn thể chúng sinh.

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, đó là tâm nguyện chung của một người mang hạnh nguyện Bồ tát vào đời, dù khoác trên mình chiếc áo tăng sĩ hay hàng tại gia cư sĩ.

Nhưng một người dù có thiện tâm, hảo ý đến bao nhiêu mà không có khả năng thực hiện được ý nguyện của mình thì thiện tâm hảo ý cũng trở thành vô ích.

Như một người trông thấy kẻ bị nạn sắp chết đuối dưới dòng nước chảy xiết, nhảy xuống định cứu, thế nhưng bản thân mình lại không biết bơi, chẳng những đã không cứu được người, vừa thiệt thân mạng mình một cách vô ích, lại còn gây trở ngại thêm cho công tác cứu hộ.

Cho nên, muốn độ người trước hết phải độ ta, có nghĩa là phải xét xem ta có đủ khả năng, tư cách để độ người hay không? Muốn thế mỗi người phải luôn tích cực, tinh tấn tu tập không ngừng nghỉ mới có thể từng bước tiến dần đến ánh sáng giác ngộ.

Có thể nói một cách khẳng định rằng, để đạt được cứu cánh giác ngộ không có con đường tu tập nào khác hơn ngoài con đường Thiền định.

Chư Phật, chư Bồ Tát, các vị chư Tổ cũng đều đã phải trải qua con đường đó.

Chính Đức Thế Tôn đã từng nhấn mạnh đến lợi ích quan trọng của thiền định: “Thiền định là phương tiện duy nhất để thanh tịnh nội tâm, tiêu trừ phiền não.” (Samyutta, 16:13 – Tạp A Hàm), và chính Ngài cũng đã trải qua 49 ngày đêm thiền định rốt ráo trước khi chứng đạt được đạo quả bồ đề.

Chúng ta, những người học Phật, dĩ nhiên cũng không có một lựa chọn nào khác hơn.

Tuy nhiên, một vấn nạn lớn đặt ra cho những người mới tập tễnh bước chân vào cửa Thiền, là làm sao tìm ra cho mình một phương pháp thích ứng để con đường tu chứng của mình mau đạt được kết quả mà không bị lạc lối trong rừng Thiền mênh mông, chẳng những đã không đạt được cứu cánh giác ngộ mà đôi khi lại còn có thể bị rơi vào con đường ma đạo.

Muốn học đạo phải tìm thầy. Có rất nhiều minh sư ở khắp mọi nơi để Phật tử có thể tìm đến tham cầu, nhưng nếu vì một lý do nào đó mà hành giả không có cơ duyên hay phương tiện để gặp gỡ họ, thì xin hướng dẫn qúy vị đến gặp một vị Đại minh sư, một “Người” rất quen, luôn luôn gần gũi bên cạnh chúng ta, luôn luôn lắng nghe những lời khẩn cầu của chúng ta với tất cả sự quan tâm và tấm lòng thương yêu rộng lớn để sẵn sàng giúp đỡ mà không cần đòi hỏi một điều kiện thù đáp nào.

Vị minh sư đó không ai khác hơn là Đức Bồ Tát Quán Thế Âm và với phương tiện thiện xão của Ngài, thần chú “Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni” (Đại Bi Chú), sẽ giúp đỡ cho bất cứ ai khi trì tụng Thần chú này đúng phương pháp chắc chắn sẽ mau chóng bước chân vào cõi Thiền, cũng như đạt được mọi điều sở nguyện.

Như người cùng tử, suốt một đời rong ruổi ngược xuôi, đến khi mang chiếc thân tàn trở về lại ngôi nhà cũ của Cha mình mới khám phá ra viên ngọc vô giá trong chiếc áo rách nát tả tơi theo năm tháng mà ngày xưa người cha vì lòng yêu thương đã khâu vào trước khi đứa con bỏ nhà đi hoang.

Thần chú Đại Bi, chính là viên ngọc vô giá đó và hôm nay, như người cùng tử năm xưa, chúng ta bất ngờ khám phá lại kho tàng không những sẽ làm giàu có, phong phú cho tâm hồn đang khô kiệt của chúng ta, mà còn là chiếc chìa khóa mở cho ta vào cánh cửa thênh thang của đạo quả giác ngộ, vô thượng bồ đề.

 



18/09/2023

Lời dạy cuối cùng của đức Phật trước khi nhập Niết bàn

   “Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.



1. Phật báo tin sắp nhập Niết bàn

   Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:

   -“A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.

    Tin đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.

   Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo.

 Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.

   Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta La (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.

   Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.

2. Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc

  Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp.

Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:

a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.

b) Các đệ tử phải lấy Giới luật làm Thầy.

c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: “Như thị ngã văn”.

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:

Một phần cho Thiên cung,

Một phần cho Long cung,

Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Độ

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng.

Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.

Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.

   Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng Hai Âm lịch (theo giáo sử Trung hoa).

   Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.

   Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).

   Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành Xá lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia Xá lợi đều được ổn thỏa.

(Trích trong cun Pht hc Ph thông ca Hòa thượng Thích Thin Hoa)

 

05/08/2023

Ăn Chay trong Phật giáo là kị ăn Tanh

 


Vốn ban đầu, nhà Phật kị ăn Tanh. Cái “tanh” này ấy, không phải cái tanh của thịt cá thế tục đâu, mà cái gọi là “tanh” này chính là để chỉ những gia vị làm dậy mùi như hành, tỏi, rau thơm vân vân…nhằm tránh cho tăng sỹ ham luyến tục vật do ham ăn các thức ăn chế biến cầu kỳ. Còn thịt, cá, động vật... chỉ cần là “ba sạch”: 

- Một là ta không nhìn thấy người giết, 

- Hai là không phải ta giết, 

- Ba là không phải vì ta mà giết 

thì có thể ăn, nhằm tránh phạm giới "sát sinh".

Người xuất gia, đều dựa vào bố thí của các tín đồ. Tín đồ bố thí cái gì thì họ liền ăn cái đó, nào dám bắt bẻ điều gì. Cho đến thời Lương Vũ Đế (Hoàng đế triều Lương 464 – 549CN bên TQ), mới đề xuất bắt tu sỹ Phật giáo không được ăn thịt. Hoàng đế đã mở kim khẩu, đương nhiên ai dám chống lại, vậy là từ đó, các tăng nhân Phật giáo Bắc tông mới bắt đầu phải ăn chay.

Còn Phật giáo Nam Tông hay còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ, cho đến nay vừa ăn chay, vừa ăn mặn nhưng chỉ ăn 1 bữa trước giờ Ngọ (12h trưa - hình như bên Thiền tông và một số tông phái khác cũng áp dụng điều này) . Tuy nhiên, việc ăn mặn của Phật giáo Nam Tông phải tuân theo giới luật rất khắt khe và ở mỗi quốc gia theo hệ phái này cũng có nhiều điểm không đồng nhất.

Ảnh trên là bữa ăn trong ngày của các tăng sỹ Nam tông ở 1 ngôi chùa vùng Tây Nam bộ - Vừa có chay, vừa có mặn, nhưng yêu cầu phải ăn hết, không có thừa. Nên ta thấy, các tăng sỹ rất béo tốt, hồng hào.

Đồ ăn này hoàn toàn do các tăng sỹ đi khuyến (khất) thực hoặc Phật tử đem đến chùa từng bữa, chứ nhà chùa hệ Nam tông, phần lớn không có bếp.

Và ta còn thấy không có ni sư ̣(nữ giới) vì Nam tông tuân thủ theo nguyên tắc từ thời Đức Phật Thích ca còn tại thế, không chấp nhận Ni đoàn.

Phật tử có thể ngồi xung quanh để chứng kiến và tiếp thêm đồ ăn nếu thiếu.

 



* Mỗi lần vào Nam, tôi đều cố gắng tới nơi chiêm ngưỡng, tìm hiểu và rất ngưỡng mộ Tín Tâm của các tăng sỹ Nam tông. Rất mong sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin tới các bạn trong các bài tới.

19/05/2023

Hành hương đất Phật chùa Hương (phần 1)

       Trước đây, hồi còn công tác, lại có sức khoẻ nên năm nào đầu Xuân, năm mới cũng hành hương về chùa Hương mồng Hai, Yên Tử mồng Ba. Từ độ covid không có điều kiện nữa, cũng buồn vì đã thực hiện được những hơn 30 năm cơ mà.

Không đến được chùa Hương, nhưng những ấn tượng trên đường hành hương đất Phật còn lưu ấn mãi, không phai.

Khi đi, cũng chả chuẩn bị nhiều. Đồ cúng 3 nơi chính là đền Trình, chùa Thiên Trù và động Hương tích thôi. Tuỳ thời tiết mà chuẩn bị đồ mặc, nhưng gọn, nhẹ để còn có sức leo núi. Thêm chút nước uống, còn đồ ăn thì hưởng lộc đồ cúng.

Lộ trình đi thăm quần thể Hương Sơn, thông thường có 3 tuyến chính mà du khách và khách hành hương đến đất Phật thường lui tới:

      -  Tuyến đường chính đưa tới chùa Hương Tích.

      -  Tuyến đường thứ hai đưa tới chùa Hinh Bồng.

      -  Tuyến đường thứ ba đưa tới chùa Tuyết Sơn.

Trong đó, tuyến đường chính để vào động hay chùa Hương Tích là “trung tâm điểm” thu hút nhiều nhất.

Với ba tuyến trên, ta không thể đi hết trong vòng một ngày, nhanh lắm cũng phải mất hai ngày, thong thả phải mất ba ngày mới tạm nói là ta đã đi gần hết những điểm chính của quần thể này.

 


Cách nhà Hà Nội khoảng 60 cây, qua Hà Đông, rẽ trái ở Ba La đi Vân Đình, theo đê, qua Tế Tiêu là tới Bến Đục (làng Đục Khê). Đây đã là cửa ngõ đất Phật rồi. Đi đoạn nữa là tới bến Yến (làng Yến Vỹ - đuôi chim nhạn).

Đi đã nhiều lần nên chỉ quen thuê 1 nhà đò chở cho thuận tiện. Điện nhắn trước nên chị nhà đò đã đợi sẵn tại bến đưa sang đền Trình.

Đền Trình, tên tự là “Ngũ Nhạc linh từ”, có kiến trúc bề thế như một ngôi đình làng. Trong sân, trước cửa đền có con voi đá đóng yên cương và ghế kiệu trên lưng. Một lư lớn bằng xi măng cũng được đặt ngay giữa sân để đốt vàng hương. Tuy chúng tôi đi chùa Hương sớm trước ngày mở Hội nhưng thấy du khách đã đổ về đây không phải là ít. Trong đền thờ, khói nhang nghi ngút đến nghẹt thở, có con ngựa gỗ to sơn son và trên bệ thờ có tượng tướng quân thời vua Hùng. Chung quanh chùa, vài cây si lâu đời mọc rễ chằng chịt với những hình thể uốn lượn rất đẹp, đẹp không thua gì những cây si ở phủ Tây Hồ ở Hà Nội. Ngay sau đền là tòa nhà hai tầng có tháp vươn lên khỏi hàng cây cao trông rất đẹp.



Khách hành hương thường đều đến đền Trình như một sự “trình diện” hay “cáo kiến” với các vị thánh, thần ở đây trước khi vào chùa Hương để mong khi vào chùa cầu xin, họ tin rằng những điều cầu khẩn những điều tốt lành sẽ được có kết quả hơn.

Bên đền Trình có năm ngọn núi gọi là núi Ngũ Nhạc, cho nên đền này còn được gọi là đền Trình-Ngũ Nhạc. Gọi như thế cũng để phân biệt với đền Trình-Phú Yên nằm trên tuyến đường suối Tuyết. Suối Tuyết sẽ đưa du khách đi thăm khu vực quần thể động Tuyết Sơn và chùa Bảo Đài (trên tuyến đường thứ ba đến chùa Tuyết Sơn).

Trở ra, lên thuyền để ta vào chùa trong - ấy là tôi đi tuyến chính lên động Hương tích.

 Thuyền từ từ lướt nhẹ theo dòng suối Yến. Nước vỗ vào mạn thuyền nghe thật vui tai. Cảnh vật ở đây, đúng là cảnh thiên thai, đẹp như một bức tranh sơn thủy. Trước là núi, hai bên là núi, trên cao là trời xanh, ở giữa là dòng suối lững lờ trôi một cách êm đềm, bình thản.

 Núi có cái đẹp của núi. Núi không cao nhưng trùng trùng điệp điệp, lớp trước lớp sau, lớp tỏ lớp mờ, lớp ẩn lớp hiện. Mầu sắc của núi biến đổi luôn luôn theo ánh sáng mặt trời đang lên.

Nước có cái đẹp của nước. Suối Yến không sâu nhưng mở rộng ra như thể không bờ. Nếu có bờ, cũng chỉ là bờ của những thửa ruộng đồng ngập nước. Từ lòng suối ngoi lên những mảng cỏ xanh. Thêm vào đó, những đám rong rêu lay động, lập lờ trong lòng suối như tóc tiên buông xõa cuốn nhẹ lấy mái chèo.

Trong làn nước nhẹ mọc rêu xanh,

Như gấm mơ hồ dưới thủy tinh.

Chèo khỏa, chèo lên, chèo lại khỏa,

Thuyền đi trên vạn sắc màu xinh.

          (Trích bài “Thăm Cảnh Chùa Hương” của Xuân Diệu)

Hình bóng phản chiếu trên nước của núi và mây như quyện lại với nhau một cách hài hòa và cùng trôi chẩy theo chiếc đò.

Qua mỗi khúc ngoặt hay quanh co của suối, cảnh vật lại đột ngột thay đổi. Quang cảnh thật hùng vĩ nhưng vẫn dung dị êm đềm như thơ, vẫn mang cái tinh khiết thoát tục của nơi đất Phật. Ai đặt chân đến đây cũng thấy lòng mình thanh thản, xa hẳn cõi bụi trần. Người ta đến đây, với cảnh trí này, không phải chỉ để ngắm cái cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn tự muốn bỏ đi những vướng mắc, trần trượt của bản thân mình trong đời sống hàng ngày.

Như khi ta thấy những mỏm núi chìa hẳn ra ngoài suối với hình thù ngộ nghĩnh. Hay ngay trên đỉnh của ngọn núi nhỏ nằm sát bên bờ suối có một chiếc miếu nhỏ nằm chênh vênh trên đó nhưng lại tuyệt đẹp, thanh thoát, in bóng vươn lên trên nền trời cao. Hay bất chợt, cùng bắt gặp những hang động hiện ra với những mảng dây leo buông tỏa xuống như mành. 

Khung cảnh nên thơ này không phải chỉ là cái đẹp của núi, của suối và của mây không thôi, mà nó còn được tô điểm bởi những rặng cây thẳng tắp mọc trên triền núi cùng với cái dáng vươn cao của những cây gạo. Người ta nói, những cây gạo nàyhoa sẽ đỏ rực như những đốm lửa đỏ in trên nền trời xanh vào mùa hè.

Vài con trâu hững hờ ăn cỏ trên đồng, cùng hình ảnh vài ngư phủ đang bì bõm đánh dậm trên cánh đồng chiêm, hay hình ảnh của người tiều phu đang lom khom vác củi rừng trên triền núi, tất cả đều là những nét chấm phá khá đặc biệt của vùng Hương Sơn. Những nét chấm phá ấy còn hòa trong tiếng chuông trầm buồn ngân lên từ những ngôi cổ tự hay những tiếng ríu rít của đàn chim sáo trên cành cây cổ thụ.

Thuyền càng vào sâu, cảnh vật càng đẹp và nên thơ. Có những áng mây trắng vương trên đỉnh núi. Bóng núi và mây in trên mặt nước, đôi khi làm ta cứ lầm tưởng như trên mặt suối đương phủ một lớp sương mù bay bay. Tiếng nước vỗ mạn thuyền nghe thật êm ả làm sao. 

Chẳng mấy chốc chúng tôi thấy một chiếc cầu bắc ngang qua suối Yến. Cô lái đò chỉ:

      - Đó là cầu Hội.



Cầu Hội có dáng “hình thang” thật đơn giản, cao và thông thoáng. Chỉ là chiếc cầu gỗ mảnh khảnh nên nó lại phù hợp, hài hòa với sự êm đềm lắng đọng của cảnh vật chung quanh. Vì cầu Hội cao và thông thoáng nên thuyền qua lại ngược xuôi dưới gầm cầu được dễ dàng. Dưới gầm cầu, bóng núi và mây vẫn lung linh, trôi chảy theo dòng suối mà không bị vướng mắt, hay bị cắt ngang hoặc che lấp.

Mây luồn đáy nước qua cầu

Thuyền đi tưởng núi quay đầu trông theo.

          (Trích bài “Trên Đò Suối” của Hằng Phương)

Khu cầu Hội có những cây gạo rất to và đẹpChim chóc từng đàn bay về ríu rít trên cành những cây hoa gạo này.

Từ phía chân cầu bên trái của cầu Hội có con đường dẫn đến chùa Thanh Sơn.

Từ phía chân cầu bên phải của cầu Hội có hang Sơn Thủy Hữu Tình và còn có con đường đi vào làng Hội Xá.

 Hỏi cô lái đò:

 - Hàng ngày cô lái thuyền trên suối, với cảnh đẹp như thế này chắc cô thích lắm nhỉ?

- Vâng, có những hôm mây xuống thật thấp, mây trắng là là trên sườn núi. Trên mặt suối cũng có mây. Những hôm như thế thì đẹp lắm. Em cứ tưởng như em đang ở trên trời hay trên tiên cảnh. Có hôm sương mù, mọi cảnh vật như ẩn như hiện. Tuy lúc đó trời đất âm u, ảm đạm nhưng lòng mình cứ lâng lâng thanh tịnh thoát tục. Có những hôm trăng sáng, nước và ánh trăng như quyện vào nhau. Cảnh đêm yên tĩnh, em chỉ còn nghe thấy tiếng mái chèo khua nước, thỉnh thoảng lại nghe tiếng chuông chùa thánh thót vang ra. Nhìn lên trời thì sao sáng đầy trời....

Thế cô chèo đò trên suối có thường gặp những chuyện vui buồn gì không?

Chuyện buồn thì ít thôi. Em chỉ chèo thuyền cho khách hành hương thưởng ngoạn cảnh đẹp của Hương Sơn. Với lòng người lúc đó mở rộng theo đức Phật nên cũng chẳng ai muốn làm buồn lòng ai. Chỉ có những hôm nào, em không được khoẻ người thì chèo thuyền cũng thấy uể oải lắm.

Rồi nói tiếp:

Chúng em chỉ được làm công việc chèo thuyền nhàn hạ này trong mấy tháng mùa xuân thôi. Khi hội chùa Hương chấm dứt, số đông chúng em lại trở về nghề làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm hay lên rừng kiếm củi, hái mơ. Cũng vất vả lắm. Chiều tối, có khi em phải làm thuê, nhận “kén” về, luộc, rồi “đánh kén” thành “chỉ tơ” (chỉ tơ dệt vải) tới khuya mới được đi ngủ.

Chúng tôi đi thuyền trên suối Yến, vừa được ngắm cảnh đẹp vừa được trò truyện với cô lái đò dễ mến một cách chân tình. Một kỷ niệm thật khó quên.

Chẳng bao lâu, bến đò Trò đã hiện ra với đông đảo đám thuyền chở khách, cái đi vào cái trở ra. Được biết, vào ngày hội chùa Hương nơi bến đò này đông nghẹt những thuyền và người vào ra tấp nập. Hội chùa Hương kéo dài từ mùng 6 tháng Giêng tới cuối tháng Ba âm lịch.

Thuyền ghé khua bờ đá

Chim mừng, rừng véo von

Suối đến đây dừng lại

Tiễn khách trèo lên non.

          (Trích bài Đi Chùa Hương của Phạm Hổ)

Cô lái đò tắp vào bến, tìm nơi tốt để chúng tôi có thể dễ xuống thuyền. 



Bến đò Trò hay còn gọi là bến đò Thiên Trù. Dẫy thuyền nằm san sát im lìm chờ khách ngay dưới chân núi Mâm Xôi, có cây cổ thụ. Không xa đó, dãy quán ăn và quán bán đèn nhang, với nhiều hàng bán quà kỷ niệm cho khách thập phương đi lễ chùa.

Chùa Thiên Trù, tức “chùa Ngoài” gần ngay đó. Đi hết thêm một dốc nhỏ, chúng ta tới cổng ngoài của chùa. Cổng chùa là một kiến trúc cổ thuần túy Việt Nam, rất đẹp. Cổng được xây theo kiểu năm cửa, vòm cửa uốn cong hình bán nguyệt. Cổng hai tầng và có nhiều mái. Phía trên cửa giữa có hàng đại tự “Nam Thiên Môn” (Cửa Trời Nam).

Từ ngoài xa nhìn vào chùa, ta thấy chùa được xây trên một khoảng đất rộng, phẳng, có núi vây chung quanhTrước mặt là núi, hai bên là núi, phía sau cũng là núi. Những quả núi gần chùa không cao lắm, lại cao đều nhau, không xa nhau, cũng không chen nhau nên trông rất hài hoà. Chùa có kiến trúc thông thoáng không bị gò bó bởi hình ảnh nặng nề của núi.

Hai quả núi có tên là Phụ Mã ở hai bên trái và phải của chùa, núi Sau Chùa ở phía sau của chùa. Ba quả núi này được ví như ba ông “đầu rau” của bếp Thiên Trù. Nhìn rộng ra xa thêm, những núi đứng sau hai quả núi Phụ Mã, bên phải mang tên Tiên Sơn, bên trái mang tên Thung Mang. Bên cạnh núi Sau Chùa là núi Ông Chây. Nếu ta nhìn về chùa Hinh Bồng (cô vừa nói vừa chỉ tay về phía núi Hinh Bồng xa xa) là núi Lão. Sau núi Lão là núi Cỏ Bồng.

Núi bắc “đầu rau” mấy vạn niên

Mà màn biếc thẫm đẹp thiên nhiên?

Thiên Trù một khoảng êm phơi phới,

Núi ngắm nhau xanh một sắc hiền.

     (Trích bài “Thăm Cảnh Chùa Hương” của Xuân Diệu)

Các cụ gọi chùa Thiên Trù này là “Bếp Trời” vì các cụ tin rằng khu đất chùa này, theo phong thủy, tương ứng với chùm sao Thiên Trù ở trên trời. Chùm sao Thiên Trù lại tượng trưng cho cái bếp, cho sự ăn uống. Bếp thì có ba ông “đầu rau” để kê nồi.



Chùa có nhiều cây hoa gạo cổ thụ và có hai hàng cây hoa đại (cây bông sứ) trước cổng vào. Uyên say sưa nhìn ngắm những cây hoa gạo vươn cao.

Nếu ta đến thăm chùa vào giữa tháng hai ta, tức giữa hội chùa Hương thì ta sẽ thấy hoa gạo đỏ rực treo lơ lửng trên cành, có người ví nó trông giống như những đốm lửa nhỏ hiện trên trời xanh. Đẹp lắm! Vào cuối tháng ba, hoa gạo rụng thì tới lượt hoa đại nở rộ.  Hoa đại nở vừa đẹp lại vừa thơm.

Qua cổng là vào tới sân cấp thứ nhất của chùa. Một không gian thoáng rộng được mở ra. Chùa được xây trên mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài rất sâu theo kiểu “ngũ môn, tam cấp” (năm cửa, ba tầng bậc). Hai bên sân chùa là những gian nhà bán hàng cơm hay hàng bán quà kỷ niệm.  

Qua sân thứ nhất là tới bậc thềm thứ nhất, có độ hơn chục bậc bước lên cao, tới sân cấp thứ hai. Hai bên sân cấp thứ hai cũng là hai dẫy nhà hàng ăn. Giữa sân có một tháp chuông, kiến trúc ba tầng, mái rất lớn và tuyệt đẹp lại uy nghi. Các người bán quà kỷ niệm rong cứ theo chân chúng tôi mời mua những xâu tràng hạt, mầu nâu có, mầu đen có hay chỉ được làm bằng những hạt cây tròn mộc mạc.

Qua sân thứ hai, chúng tôi lại tới bậc thềm thứ hai, cũng khoảng hơn mươi bậc bước, đưa lên một sân cấp thứ ba cao hơn. Đây là sân của ngôi nhà Tam Bảo, cũng là sân chính của chùa Thiên Trù.  

Chính giữa sân đứng sừng sững một đỉnh đồng cao ba thước và một đỉnh hương đúc bằng xi măng, khói nhang nghi ngút suốt ngày. Hai con sư tử được sơn vàng nằm chầu trước cửa ngôi nhà Tam Bảo.

Ngôi nhà Tam Bảo là công trình kiến trúc chính của quần thể chùa Thiên Trùmột công trình kiến trúc quy mô lớn với phong cách truyền thống. Trên cột nhà Tam Bảo được treo nhiều câu đối sơn son thếp vàng. Bên trong có nhiều tượng Phật và các vị La Hán tạc bằng đá hay gỗ tuyệt đẹp, thể hiện một trình độ nghệ thuật và mỹ thuật rất cao.

Quần thể chùa Thiên Trù liên kết với nhau theo nhiều nền tầng cấp, cao thấp khác nhau rất hài hoà tạo nên một hình dáng kiến trúc tuyệt mỹ, vừa tráng lệ lại vừa thoát tục. Đứng về góc cạnh nào cũng thấy cái vẻ đẹp dung dị mà lại sâu xa của triết lý nghệ thuật xưa và cũng sâu lắng trong sự tôn nghiêm của triết lý đạo Phật.

Ngoài sân chùa có hồ bán nguyệt với hòn non bộ. Cây cối trong chùa xanh tươi mang vẻ đẹp thanh tao, gọn gàng bởi bàn tay con người. Cái đẹp của thiên nhiên hòa trong cái đẹp của nhân tạo làm tăng thêm vẻ siêu thoát của tín ngưỡng.  

Một khu bảo tháp sau chùa được xây dựng để chứa hài cốt của những vị trụ trì chùa này. Ngôi bảo tháp lâu đời nhất là bảo tháp Hoà thượng Viên Quang, được xây vào thế kỷ thứ 17. Tháp được xây bằng gạch đỏ, trên nóc tháp có mái cong như mái chùa.  

Trong chùa Thiên Trù còn có nhiều bảo vật cổ, trong đó phải kể đến quả chuông đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh thứ hai (1793). Quả chuông trước đây được để trong động Hương Tích, sau mới đưa ra Thiên Trù.

Quả thực ai đã đi chùa Hương, hay nói chung là Hương Sơn, ta không thể không đến chiêm ngưỡng cái đẹp, cái thanh thoát của chùa Thiên Trù.