Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

21/02/2025

Tạm luận về Luân Hồi và Sinh Tử

 Đọc rồi ngẫm

 

 

 


Có cách nào thoát khỏi luân hồi sinh tử không? Có chứ, đó là đi tu! Nghe nói tu hành sẽ giải thoát khỏi vòng luân hồi, không còn sinh tử nữa. Nhưng nếu không còn sinh tử, không còn luân hồi, sống mãi đời đời kiếp kiếp thì... nghe cũng chán phải không? Nếu mọi thứ đứng im, Trái Đất ngừng quay, không còn xuân hạ thu đông, không còn ngày đêm, không còn thay đổi, thì thật tẻ nhạt. Vì thế, luân hồi và sinh tử là cần thiết, là quy luật tự nhiên. Sinh rồi tử, tử rồi sinh, cứ thế tiếp diễn để mọi thứ cân bằng.

Trong đạo Phật, có ba cõi và sáu đường (thiên, nhân, atula, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục) để chúng sinh luân chuyển. Nhưng có lẽ còn nhiều cõi khác nữa, phù hợp với vô số chúng sinh. Tuy nhiên, sáu đường này đủ để tượng trưng cho những thói xấu như tham, sân, si, nghi, kiến, mạn của con người.

Được làm người là khó lắm! Như con rùa mù bơi giữa biển, trăm năm mới trồi đầu lên một lần, mà lại đúng lúc chui vào bọng cây trôi nổi. Thật hiếm hoi! Đó là nhờ nhân duyên, nghiệp báo từ nhiều đời. Cha mẹ, ông bà gặp nhau cũng là do duyên nghiệp. Mọi thứ đều có nguyên nhân.

 


 

Tham là gốc rễ của mọi khổ đau. Tham không đáy, như cái bao tử không bao giờ đầy. Tham khiến ta luôn thấy thiếu, luôn đói khát. Không chỉ con người, mà cả muông thú cũng tham: cá lớn nuốt cá bé, bọ hung tranh giành cục phân, thiêu thân lao vào lửa... Tham quá hóa thành ngạ quỷ, đói khát triền miên. Sân (giận) cũng từ tham mà ra. Tham không được thì sinh sân, dẫn đến địa ngục. Địa ngục không ở đâu xa, mà ngay trong tâm ta.

Gốc của tham và sân là si (ngu muội). Si khiến ta hành động như súc sinh, mù quáng, không tỉnh táo. Còn thiên, nhân, atula thì từ nghi, kiến, mạn mà ra. Nghi ngờ khiến tâm bất an, sinh ra atula - không phải thần cũng chẳng phải người, chỉ biết tranh giành. Kiến (quan điểm) sinh ra con người, với đủ thứ tà kiến, chánh kiến, lúc đúng lúc sai. Còn mạn (kiêu ngạo) khiến ta coi trời bằng vung, rồi cũng có ngày rơi xuống địa ngục.

Tóm lại, sáu đường luân hồi rộng mở, nhưng phần nhiều là tà đạo, dễ lôi kéo chúng sinh. Vì thế, ta dễ trôi nổi mãi trong vòng luân hồi, khó thoát ra.

Luân hồi sinh tử là cần thiết, như nước ra biển rồi lại về nguồn. Xuân hạ thu đông rồi lại xuân. Vô minh, hành, thức, sinh, lão tử... cứ thế tiếp nối. "Vô sinh" là hết chuyện, nhưng không dễ đạt được. Vô minh không bao giờ hết, vì "vô vô minh diệc vô vô minh tận" - không có vô minh, cũng chẳng có sự chấm dứt vô minh.

Luân hồi sinh tử, nghiệp báo đều từ tâm ta mà ra. Trong thân tứ đại, ngũ uẩn, hay trong các nguyên tố carbon, hydro, oxy... tạo nên cơ thể. Khoa học cũng chỉ ra rằng gene của người giống tinh tinh đến 99%, giống chuột đến 98%. Ai dám chắc ta không từng là tinh tinh, chuột bọ, hay cây cỏ trong kiếp trước?

Luân hồi không chỉ xảy ra qua nhiều kiếp, mà còn trong từng sát-na tâm. Sáng vui vẻ như tiên, trưa nghe tin xấu liền nổi giận, rơi xuống địa ngục. Chỉ một thoáng, ta đã trải qua muôn ngàn kiếp.

Muốn thoát khỏi luân hồi, phải hiểu rõ cơ chế của nó. Gốc rễ là cái "ta" - cái ngã. Chỉ có ta mới cứu được ta. Phải quay lại với chính mình, nhận ra "không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta". Khi ấy, ta sẽ thấy an nhiên, tự tại.

Đức Phật đã chỉ ra con đường giải thoát: Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Lục độ... Chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng giúp ta sống đúng đắn. Chính niệm, chính định giúp ta có chính kiến, chính tư duy. Giới, Định, Tuệ là chìa khóa để thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Giải thoát và giải thoát tri kiến giúp ta chấm dứt lang thang trong luân hồi.

Tóm lại, muốn giải thoát, phải tu. Phải sửa mình, dứt bỏ nghiệp duyên, sinh sự. Khi "sự sự vô ngại", ta sẽ tự do trong ba cõi sáu đường, không còn dính mắc, vì đã về đến mái nhà Như Lai.

 


23/10/2024

Nhớ Thầy

                       Chỉ một bát, ba y

                Đầu trần, chân không dép

                Và cứ thế, Thầy đi

                Phải Thầy là Bồ Tát

                Thị hiện giữa đời này 



ST

24/04/2024

Tu hành để làm chi?

 


Mọi người thấy, hiện nay nhà sư hay chùa chiền làm đủ thứ chuyện, như nuôi trẻ con, nuôi người già, làm từ thiện, bốc thuốc, v.v… Những chuyện này đều tốt cả, nhưng hỏi đó có phải là mục đích rốt ráo của tu hành hay không?

Không. Vì, nuôi dưỡng người cô quả thì giống các cô nhi viện hay trại tế bần, làm từ thiện thì từ cá nhân đến các tập đoàn lớn đều có, chữa bệnh thì bệnh viện hay nơi này nơi khác cũng làm. Ăn chay thì chả cứ phải tu, nhiều người Âu, Mỹ bây giờ cũng ăn chay vì lý do sức khỏe; phóng sinh thì các tổ chức bảo vệ động vật trên khắp thế giới còn làm tốt hơn nhiều.

Vậy đi tu là để sống cho tốt và thanh thản tâm hồn? Cái này ở nhà cũng làm được. Vả lại ở đâu mà chả phải lo sống cho tử tế; còn thanh thản thì do cái suy nghĩ của mình thôi. Đấy là nói vậy, chứ người không làm việc xấu ác thì tâm hồn tự thanh thản, đâu cần phải cạo tóc đi tu. Còn suốt ngày “hiến kế” để lùa tiền cúng dường của bách tính thì có cạo đầu ở chùa tâm vẫn bất an.

Phật nói “Nước trong bốn biển chỉ có một vị, là vị mặn; pháp của ta cũng chỉ có một vị, là vị giải thoát”. Mục đích tối cao của Phật giáo là giải thoát. Giải thoát khỏi cái gì? Cái khổ.

Phật giáo nhìn thấy bản chất của đời sống chỉ có một màu: khổ đau. Nghèo hay giàu, khỏe hay bệnh, nam hay nữ, sang hay hèn, trẻ hay già….tất cả đều khổ. Và cái khổ cuối cùng là chết. Chết không phải là hết, chết là để bắt đầu một hành trình khổ mới. Đi tu là để thoát khỏi tất cả những nỗi khổ này, mà mấu chốt là ở chỗ đoạn dứt sinh tử luân hồi.

Tất cả những việc đã kể trên chỉ là trợ duyên, là phụ họa, muốn đạt được mục đích thì phải Giới – Định – Tuệ. Không Giới thì chẳng thể Định, không Định thì Tuệ mờ tối, Tuệ đã mờ tối thì không cách chi chứng được thật tướng của tồn tại. Vì thế, dù có từ thiện, phóng sinh, ăn chay… vạn kiếp cũng chỉ là kẻ sống trong ảo ảnh do cái thức điên đảo của mình dựng lên, và cứ thế trôi lăn mà không cách gì tự nhận biết được.

Đọc lịch sử từ thời Đức Phật còn tại thế, chúng ta thấy ông cùng học trò không hề làm tất cả những việc kể trên, cùng lắm là “tùy duyên”, tiện tay thì làm, xong là thôi và liền trở lại con đường của giới định tuệ. Các nước theo truyền thống nguyên thủy bây giờ cũng vậy, chùa chiền không phải là nơi để đến ngắm cảnh, du lịch hay trại tế bần. Người tu sĩ có một công việc lớn lao phải làm, đó là dồn toàn bộ cuộc đời và sinh mạng mình vào con đường khai mở trí tuệ để đạt đến giải thoát. Và vì thế, nhiều người đã trở thành mô phạm cho thế gian về đức hạnh và sức mạnh tinh thần.

Đi tu là để thoát khổ, vì thế, tất nhiên nếu anh không thấy khổ thì chẳng việc gì phải đi tu, cứ ở đời mà sống cho sướng. Oái oăm ở chỗ không phải ai cũng biết thế nào là sướng là khổ thật sự. Để thấy Khổ (và Không, Vô thường, Vô ngã) lại cần phải có trí tuệ.

Bài này không phải phản đối việc làm từ thiện, làm được thì tốt thôi, tôi chỉ nói cái cốt lõi của tu hành để không lẫn lộn nó với các tổ chức từ thiện. Đấy là chưa kể những thứ méo mó như mượn hình tướng Phật giáo và việc từ thiện để gom tiền thiên hạ.

30/12/2023

Kinh Vãng Sinh

Vãng sinh quyết định chân ngôn hay Vãng sinh Tịnh độ thần chú là mật ngôn được trì niệm phổ biến trong các khóa lễ Tịnh độ, cầu siêu. Thần chú này có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni. Cứ vào tên của Đà la ni (Tổng trì, thâu nhiếp vạn pháp, tạm gọi là chân ngôn hoặc thần chú) cho biết thần chú này có công năng phá trừ tất cả nghiệp chướng căn bản, để được vãng sinh về Cực lạc.
Theo kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ 7 (HT.Thích Thiền Tâm dịch), Bồ tát Phổ Hiền vì thương xót chúng sinh thời mạt pháp nên nói Đà la ni này để trợ duyên được mau vãng sinh về Tịnh độ:
Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay vì thương tưởng chúng sinh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sinh về Cực lạc, gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni. Liền nói chú rằng:
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh tịnh. Ngày đêm sáu thời (*), mỗi thời tụng 21 biến.
Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng Chánh pháp. Thường được Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu.  Hiện đời an ổn, phước lạc. Khi trút hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sinh. Trì tụng đến ba chục ngàn biến liền thấy Phật ngay trước mặt”.
Xưa nay, phần lớn những hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thường trì niệm thần chú Vãng sinh theo phiên âm tiếng Hán.
(*) Lục thời còn gọi là lục thì tức là sáu khoảng thời gian. 3 thời giờ ban ngày và 3 thời giờ vào ban đêm, hiệp thành sáu thời được phân định như sau: 
Ba thời giờ ban ngày là: 
- Sáng sớm hoặc gọi là sớm mai.
- Lúc mặt trời giữa trưa.
- Lúc mặt trời lặn.
Ba thời giờ ban đêm là: 
- Đầu hôm tức trời vừa tối.
- Nữa đêm (khoảng 12 giờ khuya trở lên).
- Cuối đêm (khoảng 3 hoặc 4 giờ sáng).