Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng

17/10/2024

Mấy vần thơ đẹp của Sergey Aleksandrovich Yesenin

 


Sergey Aleksandrovich Yesenin (3/10/1895 – 28/12/1925) là nhà thơ trữ tình Nga nổi tiếng. Ông sáng tác thơ từ năm lên 9. Ông để lại cho đời rất nhiều những vần thơ tuyệt đẹp, đầy ám ảnh với nỗi day dứt khôn nguôi;

Trong số hơn 200 tác phẩm của ông được nhiều nhạc sỹ nổi tiếng trên thế giới phổ nhạc. Tại Việt Nam, có ít nhất một soạn phẩm đã được dịch dưới nhan đề 200 bài thơ và trường ca.

Dưới đây, tôi xin gửi tới các bạn một số vần thơ tiêu biểu của ông:

“Cỏ non như lụa đầu nghiêng xuống
Trời đất thơm lừng hương nhựa thông
Ôi, đám cây rừng, ôi bãi ruộng
Ngây ngất lòng ta say bước xuân”


(Anh đào dại hãy rắc đầy tuyết trắng)

 

Ngoài cửa sổ bầu trời đang sùi sụt
Tôi không tiếc thương mà cũng chẳng buồn
Tôi vẫn yêu cuộc đời này tha thiết
Tựa hồ như tình trong buổi đầu tiên


(Gió đã nổi lên rồi làn gió bạc)

 

 Ngọn gió sẽ làm não lòng tiếng hí
Vũ điệu đưa tang được cử hành thôi
Sắp, sắp rồi, chiếc đồng hồ bằng gỗ
Khò khè điểm giờ mười hai của tôi

 

  Đã qua rồi những hạnh phúc ấm êm
Đã qua rồi những buồn vui một thuở
Chỉ còn lại trong hồn bao lạnh giá
Những gì đã trôi qua – không trở lại bao giờ


(Những gì đã trôi qua không bao giờ trở lại)

 

 Anh là ai? Chỉ là người mơ mộng
Màu mắt xanh nhòa trong khói sương tan
Cuộc đời này anh như người ở tạm
Giữa mọi người đang sống ở trần gian


(Ta là ai? Là gì? Ta là kẻ mộng mơ)

 

Cuối cùng, đi mãi, chàng cất lên lời tiễn biệt:
Thôi chào nhé, không một lời bịn rịn
Bạn thân yêu, xin bạn đừng buồn
Trên đời này chết có gì là mới mẻ
Nhưng sống, dĩ nhiên rồi cũng thế, chẳng mới hơn


(Bạn ơi, xin tạm biệt…)

   Do sưu tm t nhiu ngun nên tôi không biết tên dch giả - dù giọng thơ hao hao Thái Bá Tân. Tht s xin li.


28/06/2024

Cái nhìn Triết Lý Phật - Đạo trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng

 st và biên tập - Không rõ tác giả.

Tiêu đề là do Tuấn Long đặt

Tranh: Tôn Ôn đời Thanh


Thời trẻ đọc "Hồng Lâu Mộng" nhưng không biết tác phẩm muốn gửi gắm điều gì. Hơn nữa lại bị các nhà nghiên cứu Hồng học (là bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về “Hồng Lâu Mộng”) qua các thế hệ dẫn đi sai đường, nên tôi cứ ngỡ đây là một tác phẩm nói về tình yêu đôi lứa, về chốn quan trường phù du, về lòng người dễ đổi, hay tiếng chửi đổng của Tiêu Đại, phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác và cuộc đấu tranh kẻ sống người chết.

Nhưng khi đến cái tuổi “bất hoặc” (tuổi 40), đọc lại "Hồng Lâu Mộng" tôi mới nhận ra đây là tác phẩm khuyên bảo con người nhìn thấu cõi hồng trần và hướng tới cảnh giới của Thần, Đạo, Tiên.

1. Thật thật giả giả, ẩn chứa thiên cơ

“Hồng Lâu Mộng” thực ra là một cuốn sách răn dạy của Phật và Đạo. Tại sao có thể khẳng định như vậy? Sau đây là một số dẫn chứng:

Trong Hồi 1, khi nhân vật đầu tiên xuất hiện trong truyện – Chân Sĩ Ẩn – nằm mơ đi vào cõi ảo mộng, ông đã nhìn thấy một câu đối trên cổng đá như sau: “Giả tác chân thời chân diệc giả, vô vi hữu xứ hữu hoàn vô”. Ý nghĩa của hai câu này là: "Khi chúng ta coi cái giả là thật, thì cái thật cũng giống như cái giả; khi chúng ta coi những cái hiện hữu là hư vô, thì thứ thực sự tồn tại ấy cũng chẳng khác gì hư vô”.

Câu đối này bao hàm cái lý của Phật gia và Đạo gia, rằng thế gian này chỉ là ảo mộng. Trong đó, vế trước hàm ý tu luyện "Chân” của Đạo gia, vế sau là chỉ cái “Không" của Phật gia. Nó cũng tương ứng với câu nói của nhà Phật rằng "phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (tất cả những gì có hình tướng thì đều là giả). Con người thế gian coi giả thành thật, coi không thành có, đáng thương thay!

Các danh tác cổ điển của Trung Quốc đều ẩn chứa cái lý của Phật gia (Tây Du Ký), hoặc Đạo gia (Thủy Hử Truyện). Nhưng “Hồng Lâu Mộng” lại sâu sắc và toàn diện hơn cả, khi bao hàm cả pháp lý của hai nhà Phật và Đạo, quả là mỹ diệu khôn xiết.

Ta bắt gặp các chi tiết thật giả lẫn lộn trong toàn bộ tác phẩm. Xuyên suốt tác phẩm là một nhà sư – một đạo sĩ, trên bề mặt thì là một kẻ què – một người điên, rách rưới bẩn thỉu, nhưng đó chính là “chân nhân bất lộ tướng” (nghĩa là chỉ những người đắc đạo không dùng thân phận chân thật của mình để hiện ra ở trước mặt người khác).

 

Chân Sĩ Ẩn nằm mơ đi vào cõi ảo mộng.

(Tranh Tôn Ôn đời Thanh)

Cái tên "Chân Sĩ Ẩn”, thực tế là “Chân Sự ẩn”, nghĩa là ẩn giấu chân tướng sự thật, hoặc là “Chân Sĩ Ẩn, nghĩa là ẩn sĩ chân chính, tức Chân nhân, một là ẩn giấu chân tướng sự thật, hai là bậc Chân nhân chính là ẩn sĩ.

Trong Hồi 1, tác giả Tào Tuyết Cần có đề một bài thơ:

Đầy trang những chuyện hoang đường

Tràn đầy nước mắt bao nhường chua cay

Đừng cho tác giả là ngây

Ai hay ý vị chất đầy bên trong

Dường như đang nói tác giả là kẻ ngốc nói mê, nhưng bốn câu thơ kết thúc tác phẩm lại là:

Nói đến nỗi chua cay

Hoang đường càng buồn thay

Xưa nay đều cảnh mộng

Chớ bảo người đời ngây

Hai bài thơ ở Hồi 1 và Hồi 120 của tác phẩm, cũng là hồi đầu và hồi cuối, đã chỉ rõ rằng, kẻ trong mê không phải là tác giả, mà chính là thế nhân.

Vậy người ta mê ở đâu? Đó là nhầm tưởng coi cõi nhân sinh như mộng, hết thảy đều thoáng qua như khói mây, là nơi trở về. “Xưa nay đều cảnh mộng” là gì? Đó là một giấc mộng Hồng Lâu, và giấc mộng của mỗi người, đều là cùng một giấc mộng.

Trong hồi 116 còn viết:

Giả đi chân đến, chân hơn giả

Không nguyên là có, có nào không.

Hai câu này cũng đã chỉ rõ rằng, khi con người nhìn thấu giả tướng thì cái hiển lộ ra mới là chân thật, hư giả trở thành chân thực, hư vô trở thành hữu thực.

Nhiều "nhà Hồng học" trong lịch sử đã nghiên cứu ra rằng "Hồng Lâu Mộng" là "giả ngữ thôn ngôn", ý chỉ chuyện thêu dệt, không có thật trong lịch sử. (Chú thích: Trong tiếng Trung, bốn chữ này đồng âm với “Giả Vũ Thôn ngôn” – Giả Vũ Thôn nói, do đó tác giả đặt tên cho nhân vật thứ hai xuất hiện trong tác phẩm là Giả Vũ Thôn). Rõ ràng họ biết là như vậy, nhưng họ không biết tại sao nó lại là như vậy. Trong hồi cuối lại có đoạn:

"Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả? Không những người làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi".

Ở trên vừa nói nhìn thấu giả tướng sẽ ra chân tướng, tới đây lại đem chân tướng ẩn đi. Toàn bộ tác phẩm là đan xen giữa “chân” và “giả”, khiến thế nhân đã mê lại càng mơ hồ.

Không có chuyện bị phê phán hay chỉ trích là ‘mê tín phong kiến’ ​​ở thời đại của Tào Tuyết Cần, vậy tại sao tác giả lại phải nói ẩn ý như vậy? Bởi vì thiên cơ không thể tiết lộ. Từ câu kệ “Giả đi chân đến, chân hơn giả; Không nguyên là có, có nào không”, xem kỹ thì không khó có thể thấy được Đại Đạo bên ngoài sự hư ảo: Chân ắt thắng Giả, Có ắt thắng Không. Là “chân” hay “giả”, cốt là ở cái ngộ của con người!

2. Chân Sĩ Ẩn ngộ Đạo, minh bạch cõi đi về

Kỳ thực, ngay từ Hồi 1 đã nói rõ điểm đến cuối cùng của con người. Và rằng cuộc sống có hoàn hảo đến đâu thì cũng có những điều không như ý. Chân Sĩ Ẩn xuất thân từ nhà danh gia vọng tộc, nhưng lại không có con cái, đây là cái không như ý thứ nhất. Khi về già mới được một mụn con gái, nhưng lại bị người ta bắt mất, ấy là cái không như ý thứ hai. Về sau nhà cửa tài sản đều bị thiêu rụi, là cái không như ý thứ ba. Thế chấp ruộng vườn hùn vốn sai người, phải ăn nhờ ở đậu nhà cha vợ, buồn bực sầu não, là cái không như ý thứ tư. Kết quả là, nghèo đói bệnh tật, ngày càng sa sút, lại ngẫm ra cảnh của thế giới bên kia.

Thế nhưng khi Chân Sĩ Ẩn nghe thấy bài hát “Hảo liễu ca” của vị Đạo sĩ điên, ông liền đột nhiên tỉnh ngộ. Lời ca có 8 câu như sau:

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng chuyện công danh lại vẫn say!

Xưa nay quan tướng nơi nào nhỉ,

Một nấm mồ hoang cỏ mọc đầy.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng hám vàng bạc lòng chẳng khuây!

Suốt ngày tích cóp lo chưa đủ,

Đến lúc đủ đầy nhắm mắt ngay.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng thích vợ đẹp lòng chẳng khuây!

Chồng sống ngày ngày ân tình kể,

Chồng chết liền bỏ theo người ngay.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Muốn đông con cháu lòng chẳng khuây!

Xưa nay cha mẹ tâm mê đắm,

Con hiền cháu thảo ai thấy đây.

Khi Chân Sĩ Ẩn nghe bài hát này, ông liền đuổi theo vị đạo sĩ điên và hỏi: “Ngài nói gì mà tôi chỉ nghe thấy ‘hảo’ ‘liễu’, ‘hảo’ ‘liễu’?.

Đạo sĩ cười đáp: “Nếu ông nghe thấy hai chữ ‘hảo’ ‘liễu’, vậy coi như ông đã minh bạch. Phải biết rằng mọi sự trên đời, ‘hảo’ chính là ‘liễu’, ‘liễu’ chính là ‘hảo’. Nếu không ‘liễu’, thì không ‘hảo’; Nếu muốn ‘hảo’, thì phải ‘liễu’ ”.

Về hai chữ ‘hảo’ và ‘liễu’, trong nguyên tác, chữ cuối trong hai vế của các câu 1, 3, 5, 7 đều lần lượt là ‘hảo’, ‘liễu’. Ngoài ra, cả 8 câu còn đều kết thúc bằng chữ ‘liễu’. ‘Hảo’ là hay, tốt; ‘liễu’ là xong, hoàn thành, kết thúc, hoặc khi đi cùng chữ ‘bất’ thì mang nghĩa không thể làm được gì.

Chân Sĩ Ẩn vốn là một người có huệ căn (chỉ cái tính sáng suốt sẵn có), vừa nghe thấy vậy ông liền triệt ngộ… Rồi nói với đạo sĩ “Chúng ta đi thôi!”. Ông đỡ tay nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, không về nhà nữa mà đi cùng vị kia.

Kỳ thực, ngay trong hồi thứ nhất, "Hồng Lâu Mộng” đã chỉ ra những đạo lý cốt yếu.

Điều này khiến tôi nhớ đến câu trong Kinh Thánh: "Người giàu bước vào thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Thử nghĩ xem, nếu Chân Sĩ Ẩn phú quý giàu sang, lại chẳng có mấy bận không như ý, liệu ông có còn nhìn thấu được hồng trần? Ngoài ra, ở đây còn đề cập đến một điều căn bản – “huệ căn”. Xem ra con người muốn ngộ Đạo thì phải có cả trí huệ và ma nạn (ý chỉ khó khăn trắc trở), thiếu một cái cũng khó mà thành. Giống như Tư Mã Thiên viết: “Tây bá (Chu Văn Vương) bị giam cầm nên diễn giải ‘Chu Dịch’; Khổng Tử gặp nạn nên viết ‘Xuân Thu’; Khuất Nguyên bị đi đày nên viết ‘Ly Tao', …”. Ngay cả Tư Mã Thiên cũng bị vướng vào một vụ án và bị thiến khi đang hoàn thành công trình đồ sộ “Sử Ký”.

 

Tranh minh họa Hồi 37 của tác phẩm "Hồng Lâu Mộng",

do họa sĩ Tôn Ôn (Sun Wen) thời nhà Thanh vẽ. (Public Domain)

3. Tu tâm mới được ngộ Đạo

Một số người muốn học hỏi chút nhân tình thế thái, hay nghiên cứu chút thăng trầm thịnh suy từ “Hồng Lâu Mộng”. Nhưng, những kiếp nạn mà Chân Sĩ Ẩn kinh qua, mối tình si của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hay cuộc đời chìm nổi của Giả Vũ Thôn, tất cả đều là cái bên ngoài ta nhìn thấy. Mỗi một con người trên thế gian đều là một bộ bách khoa toàn thư, cuộc đời ai chẳng từng nếm qua ngọt bùi cay đắng, cần gì phải tìm bên ngoài?

Giả Vũ Thôn một đời luồn cúi, lợi dụng người khác. Cuối cùng, ông ôm giữ hối tiếc suốt đời tại bến đò Giác Mê (giác ngộ ra cái mê) bên dòng Cấp Lưu (dòng nước chảy xiết, ám chỉ dòng đời). Không như Chân Ẩn Sĩ đã nhìn thấu cõi trần ngay từ đầu.

Trong Hồi 118, Giả Bảo Ngọc ngâm câu “Nội điển ngữ trung vô Phật tính, Kim đan pháp ngoại hữu Tiên chu” (Câu chữ trong Nội điển không có Phật tính, bên ngoài pháp luyện Kim đan có thuyền Tiên). “Nội điển” là chỉ những kinh điển trong Phật giáo, “Kim đan” là chỉ hoàng kim và đan sa được luyện ra trong Đạo giáo nhằm đạt trường sinh. Theo cách giải thích phổ biến, ý nghĩa của câu nói trên là, không phải cứ niệm kinh là sẽ xuất Phật tính, không phải cứ kết đan là sẽ thành Tiên, mà phải dựa vào cái ngộ trong tâm.

Theo tôi thấy, câu nói này còn ẩn dụ về việc tu luyện. Để tu luyện theo những giáo lý được giảng trong Phật giáo (Nội điển) hay Đạo giáo (Kim đan) ngày nay là việc rất khó. Bởi vì hàng ngàn năm qua, hai giáo lý này đã bị người đời sau sửa đổi và diễn giải theo cá nhân, chứ không còn là lời nguyên gốc của các bậc Giác giả, nên không còn nội hàm để độ nhân.

Kỳ thực, toàn bộ tình tiết trong "Hồng Lâu Mộng" là hành trình hạ phàm của hòn đá “Bảo Ngọc”, để độc giả thấy được cái “Nhân không kiến sắc, do sắc sinh tình, truyền tình nhập sắc, tự sắc ngộ không”. Tức là, từ “Không” hiện ra “sắc”, rồi “sắc” lại sinh ra “tình”, “tình” lại biểu hiện qua “sắc”, rồi lại từ “sắc” mà ngộ được “Không”.

Con người ngày nay đều đã ở trong “Nhân không kiến sắc, do sắc sinh tình, truyền tình nhập sắc” (từ “Không” hiện ra “sắc”, rồi “sắc” lại sinh ra “tình”, “tình” lại biểu hiện qua “sắc”), chỉ còn thiếu “tự sắc ngộ không” (từ “sắc” ngộ được “Không”) mà thôi.


08/11/2023

Một đêm Hà Nội

 Văn Cao

Nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà thơ.



Xa xa xa
Đêm đông tiếng còi tàu
Hà Nội càng thêm cũ
Gió cuối năm luồn vào phố hẹp
Ruột phố Hà Nội cũ
Nhớ một cánh buồm
Xa ngoài sông Hồng thấp thoáng
Nhớ một điệu đàn
Vũng sao khuya sóng sánh.

Văn Cao minh hoạ ấn phẩm



15/02/2023

Quà Hà Nội

 Trích trong "Hà Nội băm sáu phố phường" - Thạch Lam



Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng ngon lành và lịch sự. Ở các thôn quê, chút "quà Hà Nội" là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hóa của người cho. Con cháu ngày giỗ ky đưa về dâng cha mẹ, hay các bà mẹ ra tỉnh mua về cho các con, và chồng đi làm Nhà nước ngày nghỉ mua tặng cho cô vợ mới cưới ... Bao nhiêu ý tốt tình hay gửi vào trong chút quà nơi đô hội, món quà đem đến cho khắp nơi các vị sành và trang nhã của băm sáu phố phường.

Hàng Quà Rong

Người Hà Nội, ăn thì ngày nào cũng ăn, nhưng thường không để ý. Nếu chúng ta về ở tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà ở Hà Nội ngon là chừng nào. Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi.

Trong một ngày, không lúc nào là không có hàng quà. Mỗi giờ là một thứ khác nhau; ăn quà cũng là một nghệ thuật: ăn đúng cái giờ ấy và chọn người bán ấy, mới là người sánh ăn.

Tang tảng sáng, tiếng bánh Tây đã rao, lẫn với tiếng chổi quét đường. Đó là quà của những người thợ đi làm sớm. Rồi, có từng độ, phố xá vang lên tiếng rao "bánh rán nóng, trinh một, xu đôi" của một lũ trẻ con. Cái bánh rán vừa cứng và xấu, thật làm giảm thanh thế của quà Hà Nội, do một cửa hàng nào đó muốn kiếm lời, cứ muốn bắt thiên hạ ăn bánh rán lúc còn ngái ngủ.

Này đây mới là quà chính tông: bánh cuốn, ăn với chả lợn béo, hay với đậu rán nóng. Nhưng là bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa. Vị bánh thơm bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn đậm vì chút mỡ hành. Người bán bánh cuốn Thanh Trì đội mẹt và rổ trên đầu, từng tụm năm, bảy người từ phía Lò Lợn đi vào trong phố, dáng điệu uyển chuyển và nhanh nhẹn.

Rồi mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ở, cái xôi vừng mỡ, nắm từng nắm con, ăn vừa gậy vừa bùi. Mà có đắt gì đâu! Ăn một, hai xu là đủ rồi. Mùa rét thì xôi nóng, hãy còn hơi bốc lên như sương mù, ăn vừa nóng người vừa chắc dạ.

Và có ai ngẫm nghĩ kỹ cái vị hành khô chưng mỡ ở trong bát ngô nếp bung non; hàng giòn và thơm phức, những hạt ngô béo rưới chút nước mỡ trong ... Ngô bung (xôi lúa) thì có nhiều hàng ngon, nhưng ngon nhất và đậm nhất là ngô bung của một bà già trên Yên Phụ. Cứ mỗi sáng, bà từ ô xuống phố, theo một đường đi nhất định, đã ngoài hai mươi năm nay, để các nhà muốn ăn cứ việc sai người ra đừng chờ. Bà đội thúng ngô, tay thủ vào cái áo cánh bông, và cất lên cái tiếng rao, tựa như không phải tiếng người, một tiếng rao đặc biệt và kỳ lạ: "Eéé ...éc", "Eé ...ééc ...".

Đối với các bà, các cô đi chợ, cô hàng vải, cô hàng rau v.v ... là những người ưa món quà gì vừa rẻ vừa ngon, lại vừa no lâu các cô khó tính, sành ăn và hay xét nét lắm đã có món quà của cô hàng cơm nắm lẳng lơ với hai quang thúng bỏ chùng. Món quà này sạch sẽ và tinh khiết, từ quà cho đến cả quang thúng, cả cô hàng, tóc vấn gọn, áo nâu mới, quần sồi thâm, cô hàng trông cũng ngon mắt như quà của cô vậy. Cơm nắm từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải màu trắng tinh để che ruồi, muỗi. Con dao cắt, sáng như nước, và lưỡi đưa ngọt như đường phèn. Cơm cắt ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gọt bỏ lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng miếng nhỏ, vuông cạnh và dài, để bày trên đĩa. Cô muốn xơi với thứ gì? Với chả mới nhé hay giò lụa mịn màng? Các cô vừa ăn vừa nhai nhè nhẹ và thong thả hỏi han thân mật cô hàng: cùng bạn làm ăn cả, một gánh nuôi chồng nuôi con, đóng góp thì nhiều. Âu cũng là cái phận chứ biết làm thế nào.

Đối với các bà ăn rở và thích của lạ miếng và độc nữa đã có bà hàng tiết canh và lòng lợn. Một mâm đầy một bát tiết canh đỏ ối, ngòng ngoèo sợi dừa trắng, điểm xanh mấy lá húng tươi. Thế mà họ ăn ngon lành, một lúc hai, ba bát. Rồi đánh thêm một đĩa lòng vừa dồi, cổ hũ với tràng giòn. Ăn xong quét miệng đứng dậy, bước đi thành chậm chạp. Sao bằng ra đầu phố ăn một bát phở bã của anh hàng phở áo cánh trắng, gilet đen, và tóc rẽ mượt? Nồi nước sôi sùng sục, tỏa mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh phở ngon cả Hà Nội không có đâu làm nhiều, thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt, và hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn thêm bát thứ hai. Và anh hàng phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất định, cũng đủ bán một ngày hai gánh như chơi. Và người hàng phố tìm dấu hiệu để gọi tên anh cho dễ nhớ: anh phở trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ Dạ, anh phở Cao ... và dặn thằng nhỏ chớ mua hàng khác về "ông không ăn mà chết đòn".

Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì ở Hà Nội mới ngon. Đó là quà tất cả suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối.

Phở bán gánh có một vị riêng, không giống như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt tên và tưởng nhớ: phố Ga, phố Hàng Cót, phố Ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc v.v ...

Bây giờ nhiều tài năng trẻ trong nghề phở mới nhóm lên và trái lại, những danh vọng cũ trên kia không chắc còn giữ được "hương vị xứng kỳ danh" nữa. Có người nào thứ chịu khó đi khảo nếm lại một lượt xem sao? Một vòng quanh Hà Nội bằng vị phở, chắc có lắm điều mặn, chát, chua, cay đấy.

Nhưng có một nơi phở rất ngon mà không có ai nghĩ đến và biết đến: ấy là gánh phở trong nhà thương. Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng cây. Cái quyền bán hàng đó là cái quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon lành, giá cả phải chăng. Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ. Mà nhân tâm tùy thích, nhà hàng đã khéo chiều: ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc, có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng.

Cứ mỗi buổi sáng, từ sáu giờ cho đến bảy giờ, chỉ trong quảng ấy thôi, vì ngoài giờ gánh phở hết, chung quanh nồi nước phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.

Cùng một thứ quà nước và mặn như phở, Hà Nội còn có hãng mì và mằn thắn. Hai món này chắc hẳn là món ăn của người Tàu, cho nên hễ người Tàu làm thì ngon hơn, cũng như họ làm ngon nhiều món khác.

Cái chí của Việt ta cũng khác: món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Cho nên bát mằn thắn của người mình thì có đủ cả rau thơm, xà xíu, đôi khi mấy miếng dồi, và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn thì làm rất to bột, nặn xuề xòa để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé, vì được một tí thịt chỗ bạc nhạc, mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo. Ấy thế mà tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải.

Thế mà không: người Hà Nội ăn quà sành, nên khó mà lấy nhiều làm hoa mắt người ta được. Có lẽ người bán nghĩ rằng quà rao là sực tắc, hai thanh tre gõ vào với nhau như tiếng guốc đi của một gái về đêm, mà sực tắc chính là hai tiếng Tàu Thực đắc mà ra. Thực đắc là ăn được, cho nên quà chỉ cốt ăn được, không cốt gì ăn ngon.

Về thức quà này, tôi lại nhớ đến một câu chuyện nhiều ý nghĩa, và có thể làm một bài học hay cho người mình. Trong lúc mọi người bán hàng Việt Nam mỏi vai lê gánh khắp phố mòn đốt tre vì tiếng gọi mà vẫn không bán được mấy, thì bỗng nhiên một hôm ở một phố ở Hà Nội nhỏ hẹp và đông đúc, nẩy ra một chú khách bán hàng rất dở người. Chú ta cũng bán mì với mằn thắn, cũng với giá năm xu, nhưng mì thì chỉ có mì không và mằn thắn chỉ có mằn thắn trần, đủ mười lăm cái. Nhưng nước rất trong và rất ngọt,mì thì đậm vị và dẻo, mằn thắn thì bột mềm và mỗi cái có nhân một con tôm. Ăn mãi vẫn ngon không thấy chán.

Bán hàng không cần gánh đi đâu, và cũng không cần gì bát. Ai muốn ăn thì đến hàng mà ăn, ai muốn mua đem bát lại mua, và người nhà mang về, chứ một bậc thang ngắn bác cũng không chịu bước lên. Bác bán hàng cửa quyền như thế, người ta tuy tức vì cái làm bộ kiêu kỳ của bác, chê vì quà của bác đắt hơn quà của các hàng thường, nhưng người ta vẫn phải mua, vì quà của bác ngon. Người mua ngày dần đông: một bác bán không đủ, phải làm hai gánh, rồi ba, rồi bốn, rồi năm sáu. Mỗi gánh bác phải thuê người bán, mỗi tháng công năm đồng. Những người này bèn cách ăn bớt: một lượng bát mì bác bán, cứ ba bó mì thì họ lại bớt một; mười lăm cái mằn thắn thì họ bán có mười hai.

Nhưng mắc lòng, hàng bác vẫn bán chạy. Mỗi gánh ít nhất bác cũng được lãi ba đồng một ngày. Sáu gánh vị chi là mười tám, một tháng lãi năm trăm hơn. Sáu tháng sau khi bác ở Hải Phòng đặt chân lên Hà Nội, bác đã nghiễm nhiên trở nên một người giàu.

Thế mới biết nghề gì là không có lãi, mà cái nghề mà chúng ta tưởng là hèn mọn ấy lại chóng làm người ta giàu hơn chánh vạn nghề khác. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua của ngon thì người ta ăn, đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thất giản dị trong nghề buôn bán, mà tiếc thay, nhiều nhà buôn người mình không biết đến, hoặc người mình làm tồi bán rẻ hoặc họ đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.

Tôi quên nói nốt rằng chú khách bán mằn thắn trên kia, giá cứ giữ lối bán gánh như thế thì không sao. Có tiền, chú lại muốn làm ông chú hiệu chú mở hàng cao lâu to ở phía Mã Mây. Cái chí này thì không có gì đáng trách. Nhưng chú lại muốn giống các chủ khác ở chỗ đánh bạc chú đánh phán thán, rồi chú thua. Ba tháng sau, chú vỡ nợ.

Nhưng đấy là tại chú, chứ không phải là tại cái cửa hàng của chú, và cái phương pháp bán hàng của chú vẫn giữ nguyên giá trị khiến chúng ta nên theo.

Sau khi vỡ nợ, tay trắng trở về, chú lại ghé lưng xuống gánh lấy gánh hàng mằn thắn cũ tiếng vẫn rao vàng, và cái miệng vẫn tươi cười như trước Đó là một tấm gương mà chúng ta lại càng nên theo nữa.

 

13/02/2023

ĐỜI TÀN NGÕ HẸP

Vũ Hoàng Chương (1915 - 1976)

Được đề cử Nobel Văn chương 1972



Gối vải mộng phong hầu,

Vàng son mờ gác xép,

Bừng tỉnh mưa còn mau,

Chiều tàn trong ngõ hẹp.

Mưa lùa gian gác xép,

Ngày trắng theo nhau qua,

Lá rơi đầy ngõ hẹp;

Đời hiu hiu xế tà.


Ôi! ta đã làm chi đời ta?

Ai đã làm chi lòng ta?

Cho đời tàn tạ lòng băng giá

Sương mong manh quạnh chớm thu già.

Mải mê theo sự nghiệp,

Quá trớn, lỡ giàu sang;

Mưa rơi, chiều, ngõ hẹp,

Lá vàng bay ngổn ngang...

Dìu vương nhau mươi chiếc lá khô vàng,

Xuân đời chưa hưởng kịp,

Mây mùa thu đã sang.


Giấc hồ nghe phấp phới

Cờ biển nhịp mơ màng.

Đường hoa son phấn đợi,

Áo gấm về xênh xang...

Chập chờn kim ốc giai nhân...

Gió lạnh đưa vèo,

Khoa danh trên gối rụng tàn theo!

Nao nao đàn sáo phai dần...

Hạnh phúc tàn theo,

Nửa gối thê nhi lá rụng vèo!

Song hồ lơ lửng khép,

Giường chiếu ấm hơi mưa;

Chiêm bao mờ thoáng hương thừa,

Tan rồi mộng đẹp,

Ôi thời xưa!

Ta đã làm chi đời ta xưa?

Ta đã dùng chi đời ta chưa?

Thiên thu? ngờ sự nghiệp!

Chiều mưa rồi đêm mưa;

Gió lùa gian gác xép,

Đời tàn trong ngõ hẹp.