Châu Á là nơi đặc biệt nhất thế giới,
khi vừa sở hữu điểm cao nhất lẫn điểm thấp nhất trên Trái Đất.
-Điểm cao nhất châu Á: Núi Everest (Trung
Quốc – Nepal). Độ cao: 8.848 m (29.029 ft)
-Điểm thấp nhất châu Á: Biển Chết (Israel
– Jordan – Palestine). Độ cao: −428 m (−1.404 ft)
*Độ chênh lệch cao – thấp: 9.276 m (30.433 ft).
So sánh với Australasia
(châu Đại Dương – châu Úc và các đảo lân
cận)
-Núi cao nhất: Aoraki / Mount Cook (New
Zealand) – 3.724 m (12.218 ft)
-Thấp nhất: Hồ Eyre (Úc) – −15 m (−49 ft)
*
Chênh lệch: 3.739 m (12.267 ft)
Châu
Nam Cực (Antarctica)
-
Núi cao nhất: Mount Vinson – 4.892 m (16.050 ft)
-
Thấp nhất: Nam Đại Dương (mực nước biển)
*
Chênh lệch: 4.892 m (16.050 ft)
Nhìn chung, châu Á nổi bật nhất thế giới
về độ chênh địa hình, với sự đối lập cực đoan từ Everest – “nóc nhà thế giới” cho đến Biển Chết –
vùng trũng sâu nhất hành tinh.
Một khẩu hỏa mai mồi thừng thời Lê trung hưng (giám định C14 khoảng thế kỷ 17) được cho là của Chúa Nguyễn Phúc Lan với thiết kế ổ quay nhập khẩu Hà Lan thuộc dạng hiện đại nhất thời đó và được thợ Việt trang trí, chế tác phụ kiện tinh xảo.
Cách đây 48 năm - năm 1977, Cơ quan Hàng không và
Vũ trụ Hoa Kỳ NASA đã phóng lên bầu trời một con tàu vũ trụ mang tên Voyager 1.
Nó bé nhỏ thôi, nhưng gói ghém trong
mình một khát vọng vĩ đại: bay ra xa hơn bất kỳ nơi nào mà con người từng đặt
chân tới.
Vậy
“một ngày ánh sáng” nghĩa là gì?
Đó là quãng đường mà ánh sáng - thứ
nhanh nhất trong vũ trụ đi được trong 24 giờ liên tục.
- Chỉ trong 1 giây, ánh sáng đã vòng
quanh Trái Đất tới 7 lần.
- Còn trong 1 ngày, nó có thể đi gần 26
tỷ km – một khoảng cách khổng lồ vượt ngoài trí tưởng tượng.
- Hiện nay, tín hiệu từ Voyager 1 phải mất gần
22 giờ mới quay về Trái Đất.
- Đến tháng 11/2026, lần đầu tiên trong
lịch sử, một vật thể do con người chế tạo sẽ ở xa đến mức ánh sáng cũng phải
bay trọn 24 giờ mới về tới chúng ta.
Voyager 1 đã bay suốt gần nửa thế kỷ với tốc độ khoảng 17 km mỗi
giây, tức hơn 61.000 km mỗi giờ. Ở tốc độ này, Voyager 1 cần tới hơn 18 giờ mới
đi được quãng đường mà ánh sáng chỉ mất 1 giây để vượt qua.
Con tàu không dùng pin Mặt Trời, vì quá
xa, mà hoạt động nhờ nguồn điện từ sự phân rã của plutoni-238 trong máy phát
nhiệt điện hạt nhân (RTG).
Vậy mà nó mới đi được khoảng 22 giờ ánh
sáng – chỉ là một bước nhỏ so với vũ trụ.
- Để thoát hết sức hút của Mặt Trời, nó
còn cần 40.000 năm nữa, và để ra khỏi Dải Ngân Hà, Voyager sẽ phải bay hàng triệu
năm - vượt qua khoảng cách hàng trăm ngàn năm ánh sáng.
- Vậy mới thấy: dù con tàu này đã đi xa
đến mức khiến ta choáng ngợp, thì trước vũ trụ mênh mông, nó vẫn chỉ như một dấu
chấm nhỏ nhoi.
Và con người, với tất cả trí tuệ, quyền
lực, công nghệ… cũng chỉ là một hạt bụi mong manh trong không gian vô tận.
Sau gần 48 năm lang thang trong vũ trụ,
Voyager 1 đã đi được hơn 25 tỷ km. Nếu quy đổi ra “ngày ánh sáng”, nó mới chỉ đạt
khoảng 0,97 ngày – tức chưa đầy một ngày ánh sáng.
Bài này tôi dùng nhiều nguồn tư liệu và được dẫn giải có đường link minh chứngđi kèm (chữ đổi màu dấu bàn tay tên công trình).
Theo Warres Smith trong cuốn sách nổi tiếng
của ông nghiên cứu về dân châu Âu ở Viễn Đông xuất bản năm 1900
“European Settlements in the Far East”, “Dân số Hà Nội vào năm 1897 là
102.700 người, trong đó có 950 người châu Âu, 100.000 người An Nam,
1.697 người Trung Hoa, và 42 người Ấn Độ”. Mô tả chi tiết về Hà Nội lúc
đó, Warres Smith viết:
“Hà Nội thủ đô của Bắc Kỳ, và nay là thủ
phủ của chính quyền Đông Dương, tọa lạc trên sông Cái, hay sông Hồng,
cách cửa sông gần 180km. Thành phố được xây dựng gần con sông, ở đây
chiều ngang sông rộng gần đến một dặm, và nhờ các hồ nước và cây cối rải
rác, nó phô bày một vẻ đẹp khá ngoạn mục. Thành cổ chiếm giữ điểm cao
nhất và được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch cao gần 3,7m và một
hào nước. Nó gồm các doanh trại dành cho binh sĩ, kho vũ khí, đạn dược,
v.v… và một ngôi chùa hoàng gia nằm bên trong tường thành. Phố cổ nằm ở
giữa tòa thành và sông, và các đường phố của nó có một dáng vẻ khác lạ
nhờ kiến trúc độc đáo của các ngôi nhà..."
Những địa danh du lịch có tiếng của Hà Nội hiện
nay như Nhà Kèn, Nhà Hát Lớn, nhà tù Hoả Lò, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên,
Nhà thờ lớn Hà Nội, Chợ Đồng Xuân… đều là những di sản có giá trị vật
thể bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể mang dấu ấn văn hóa Pháp góp phần làm nên một bản sắc một Hà Nội như hiện đại.
Không thể hiểu được bản sắc Hà Nội, nếu
không nói đến những nét văn hóa – văn minh Pháp còn đọng lại ở đời sống
đô thị vùng đất này.
Bắc bộ phủ - Nay là Nhà khách Chính phủ (12 phố Ngô Quyền, Hà Nội)
Tòa nhà được xây dựng vào năm 1918, là một công trình tiêu biểu của
phong cách kiến trúc cổ điển Pháp, với tổ hợp mặt bằng, mặt đứng rất cân
xứng cùng với những chi tiết kiến trúc thuần túy châu Âu.
Tòa nhà được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do
kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế, mang đậm nét kiến trúc Phục hưng Ý.
Tòa nhà là một trong những dinh thự lớn nhất được Pháp xây ở Đông
Dương gồm 30 phòng, mỗi phòng có một phong cách trang trí khác nhau.
Mặc dù được xây dựng vào thời Pháp thuộc
nhưng tòa nhà này lại có kiến trúc phương Đông với hệ mái ngói nhiều
lớp kiểu, đặc biệt là mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính cùng với
lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh. Do có kiến trúc độc đáo
với nhiều mái nên công trình này còn được gọi là "tòa nhà trăm mái".
Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928 theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương. Ban đầu, đây là trụ sở của Sở Tài chính Đông Dương. Ngày 3/10/1945, tòa nhà được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm trụ sở của Bộ Ngoại giao cho đến nay.
Do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể
được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một
phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá
trị kiến trúc bản địa.
Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu
đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết
thúc của tuyến phố Trần Quang Khải ngày nay, một vị trí có thể tạo ra
điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê.
Năm 1901, Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng và khánh thành năm 1911. Tuyệt tác nghệ thuật này được thiết kế theo mô hình nhà hát Opéra
Garnier ở Paris. Vì thế, Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội mang đậm dấu ấn
kiến trúc châu Âu cổ điển với sự hoàn hảo đến từng chi tiết, đem lại một
không gian nghệ thuật hàn lâm, sang trọng bậc nhất Đông Dương thời bấy
giờ.
Nhà thờ Lớn được mệnh danh là nhà thờ có thiết kế kiến trúc đẹp nhất tại
Hà Nội. Nhà thờ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là công trình tiêu
biểu cho phong cách Gothic Châu Âu, mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ Đức
Bà Paris. Chiều rộng 21m, chiều dài 65m, có 2 tháp chuông cao gần 32m và
được cố định bằng những trụ đá lớn.
Trường Đại học Đông dương - Nay là trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN (19 phố Lê Thánh Tông, Hà Nội)
Trường Đại học Đông Dương, nay là một phần của Đại học Quốc gia Hà Nội, có kiến trúc mang phong cách Đông Dương, kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông.Công
trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard, và
nổi bật với sự hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc cổ điển Pháp và các chi
tiết trang trí mang đậm nét Á Đông.
Bưu điện Hà Nội (Bờ Hồ)
Công trình này mang phong
cách kiến trúc Pháp cổ điển kết hợp với Art Deco, bao gồm nhiều tòa nhà
nằm trên các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ.
Tòa
án nhân dân tối cao (Palais des Justices) là công trình kiến trúc tiêu
biểu cho phong cách kiến trúc Pháp, do kiến trúc sư A.Henri
Vildieu thiết kế năm 1906, được xây dựng trên một khu đất rộng, giới hạn
bởi 4 tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard
Carreau (phố Lý Thường Kiệt), Boulevard Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và
hai điểm giới hạn tuyến phố Rue Jean Soler (phố Thợ Nhuộm), Rue Lambert
(phố Dã Tượng). Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: cổng, sân, đường
đi, tòa kiến trúc chính và các công trình phụ trợ.
Khách sạn Grand Métropole Hotel - Nay là KS Sofitel Legend Metropole Hanoi (15 phố Ngô Quyền, Hà Nội).
Được xây dựng năm 1901 bởi 2 nhà đầu tư người Pháp, Sofitel Legend
Metropole Hanoi là khách sạn 5 sao đầu tiên và đồng thời là khách sạn
lâu đời nhất ở Hà Nội. Khách sạn mang đậm phong cách kiến trúc Pháp thuộc địa, với thiết kế tinh tế và sang trọng
Cầu (Pont de) Paul Doumer - Nay là cầu Long Biên
Cầu được xây dựng từ
năm 1898 đến 1902, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1903. Cầu được làm
hoàn toàn bằng thép, với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao, tạo nên một tổng thể
vững chãi và hài hòa.
Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh
tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.Cầu mang phong
cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như
"Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.
Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được
lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của
Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel Do vậy, Eiffel và công ty
của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long
Biên.
Như
lời ngài GS.TS Hồ Sỹ Quý: Nói đến
bản sắc Hà Nội, do vậy, cần thiết phải nói đến sự pha trộn hài hòa, sự đan xen
khó tách biệt, sự thẩm thấu tưởng như khiên cưỡng nhưng qua thời gian lại trở
thành phù hợp… giữa những nét “kinh điển, hoa lệ” của châu Âu với những giá trị
lịch sử đã được bảo tồn qua năm tháng của con người và văn hóa Hà Nội.
Văn hóa – văn minh Pháp một thành phần
đáng kể của bản sắc Hà Nội. Thậm chí trong một chừng mực nhất định còn là hồn
cốt của một đô thị có lịch sử hơn nửa thế kỷ được xây dựng và trực tiếp “sống”
với văn hóa – văn minh Pháp.