VukhiViet
ST
Cách đây 48 năm - năm 1977, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ NASA đã phóng lên bầu trời một con tàu vũ trụ mang tên Voyager 1.
Nó bé nhỏ thôi, nhưng gói ghém trong mình một khát vọng vĩ đại: bay ra xa hơn bất kỳ nơi nào mà con người từng đặt chân tới.
Vậy “một ngày ánh sáng” nghĩa là gì?
Đó là quãng đường mà ánh sáng - thứ nhanh nhất trong vũ trụ đi được trong 24 giờ liên tục.
- Chỉ trong 1 giây, ánh sáng đã vòng quanh Trái Đất tới 7 lần.
- Còn trong 1 ngày, nó có thể đi gần 26 tỷ km – một khoảng cách khổng lồ vượt ngoài trí tưởng tượng.
- Hiện nay, tín hiệu từ Voyager 1 phải mất gần 22 giờ mới quay về Trái Đất.
- Đến tháng 11/2026, lần đầu tiên trong lịch sử, một vật thể do con người chế tạo sẽ ở xa đến mức ánh sáng cũng phải bay trọn 24 giờ mới về tới chúng ta.
Voyager 1 đã bay suốt gần nửa thế kỷ với tốc độ khoảng 17 km mỗi giây, tức hơn 61.000 km mỗi giờ. Ở tốc độ này, Voyager 1 cần tới hơn 18 giờ mới đi được quãng đường mà ánh sáng chỉ mất 1 giây để vượt qua.
Con tàu không dùng pin Mặt Trời, vì quá xa, mà hoạt động nhờ nguồn điện từ sự phân rã của plutoni-238 trong máy phát nhiệt điện hạt nhân (RTG).
Vậy mà nó mới đi được khoảng 22 giờ ánh sáng – chỉ là một bước nhỏ so với vũ trụ.
- Để thoát hết sức hút của Mặt Trời, nó còn cần 40.000 năm nữa, và để ra khỏi Dải Ngân Hà, Voyager sẽ phải bay hàng triệu năm - vượt qua khoảng cách hàng trăm ngàn năm ánh sáng.
- Vậy mới thấy: dù con tàu này đã đi xa đến mức khiến ta choáng ngợp, thì trước vũ trụ mênh mông, nó vẫn chỉ như một dấu chấm nhỏ nhoi.
Và con người, với tất cả trí tuệ, quyền lực, công nghệ… cũng chỉ là một hạt bụi mong manh trong không gian vô tận.
Sau gần 48 năm lang thang trong vũ trụ, Voyager 1 đã đi được hơn 25 tỷ km. Nếu quy đổi ra “ngày ánh sáng”, nó mới chỉ đạt khoảng 0,97 ngày – tức chưa đầy một ngày ánh sáng.
Bài này tôi dùng nhiều nguồn tư liệu và được dẫn giải có đường link minh chứng đi kèm (chữ đổi màu dấu bàn tay tên công trình).
Theo Warres Smith trong cuốn sách nổi tiếng của ông nghiên cứu về dân châu Âu ở Viễn Đông xuất bản năm 1900 “European Settlements in the Far East”, “Dân số Hà Nội vào năm 1897 là 102.700 người, trong đó có 950 người châu Âu, 100.000 người An Nam, 1.697 người Trung Hoa, và 42 người Ấn Độ”. Mô tả chi tiết về Hà Nội lúc đó, Warres Smith viết:
“Hà Nội thủ đô của Bắc Kỳ, và nay là thủ phủ của chính quyền Đông Dương, tọa lạc trên sông Cái, hay sông Hồng, cách cửa sông gần 180km. Thành phố được xây dựng gần con sông, ở đây chiều ngang sông rộng gần đến một dặm, và nhờ các hồ nước và cây cối rải rác, nó phô bày một vẻ đẹp khá ngoạn mục. Thành cổ chiếm giữ điểm cao nhất và được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch cao gần 3,7m và một hào nước. Nó gồm các doanh trại dành cho binh sĩ, kho vũ khí, đạn dược, v.v… và một ngôi chùa hoàng gia nằm bên trong tường thành. Phố cổ nằm ở giữa tòa thành và sông, và các đường phố của nó có một dáng vẻ khác lạ nhờ kiến trúc độc đáo của các ngôi nhà..."
Những địa danh du lịch có tiếng của Hà Nội hiện nay như Nhà Kèn, Nhà Hát Lớn, nhà tù Hoả Lò, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên, Nhà thờ lớn Hà Nội, Chợ Đồng Xuân… đều là những di sản có giá trị vật thể bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể mang dấu ấn văn hóa Pháp góp phần làm nên một bản sắc một Hà Nội như hiện đại.
Bắc bộ phủ - Nay là Nhà khách Chính phủ (12 phố Ngô Quyền, Hà Nội)
Tòa nhà được xây dựng vào năm 1918, là một công trình tiêu biểu của
phong cách kiến trúc cổ điển Pháp, với tổ hợp mặt bằng, mặt đứng rất cân
xứng cùng với những chi tiết kiến trúc thuần túy châu Âu.
Tòa nhà được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế, mang đậm nét kiến trúc Phục hưng Ý.
Tòa nhà là một trong những dinh thự lớn nhất được Pháp xây ở Đông Dương gồm 30 phòng, mỗi phòng có một phong cách trang trí khác nhau.
Mặc dù được xây dựng vào thời Pháp thuộc nhưng tòa nhà này lại có kiến trúc phương Đông với hệ mái ngói nhiều lớp kiểu, đặc biệt là mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính cùng với lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh. Do có kiến trúc độc đáo với nhiều mái nên công trình này còn được gọi là "tòa nhà trăm mái".
Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928 theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương. Ban đầu, đây là trụ sở của Sở Tài chính Đông Dương. Ngày 3/10/1945, tòa nhà được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm trụ sở của Bộ Ngoại giao cho đến nay.
Do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá trị kiến trúc bản địa.
Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết thúc của tuyến phố Trần Quang Khải ngày nay, một vị trí có thể tạo ra điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê.
Năm 1901, Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng và khánh thành năm 1911. Tuyệt tác nghệ thuật này được thiết kế theo mô hình nhà hát Opéra Garnier ở Paris. Vì thế, Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội mang đậm dấu ấn kiến trúc châu Âu cổ điển với sự hoàn hảo đến từng chi tiết, đem lại một không gian nghệ thuật hàn lâm, sang trọng bậc nhất Đông Dương thời bấy giờ.
Nhà thờ lớn Hà Nội (40 phố Nhà Chung, Hà Nội)
Nhà thờ Lớn được mệnh danh là nhà thờ có thiết kế kiến trúc đẹp nhất tại Hà Nội. Nhà thờ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là công trình tiêu biểu cho phong cách Gothic Châu Âu, mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ Đức Bà Paris. Chiều rộng 21m, chiều dài 65m, có 2 tháp chuông cao gần 32m và được cố định bằng những trụ đá lớn.
Trường Đại học Đông Dương, nay là một phần của Đại học Quốc gia Hà Nội, có kiến trúc mang phong cách Đông Dương, kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông. Công trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard, và nổi bật với sự hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc cổ điển Pháp và các chi tiết trang trí mang đậm nét Á Đông.
Công trình này mang phong cách kiến trúc Pháp cổ điển kết hợp với Art Deco, bao gồm nhiều tòa nhà nằm trên các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ.
Tòa án nhân dân tối cao (Palais des Justices) là công trình kiến trúc tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Pháp, do kiến trúc sư A.Henri Vildieu thiết kế năm 1906, được xây dựng trên một khu đất rộng, giới hạn bởi 4 tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard Carreau (phố Lý Thường Kiệt), Boulevard Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và hai điểm giới hạn tuyến phố Rue Jean Soler (phố Thợ Nhuộm), Rue Lambert (phố Dã Tượng). Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: cổng, sân, đường đi, tòa kiến trúc chính và các công trình phụ trợ.
Cầu được xây dựng từ năm 1898 đến 1902, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1903. Cầu được làm hoàn toàn bằng thép, với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao, tạo nên một tổng thể vững chãi và hài hòa.
Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.
Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel Do vậy, Eiffel và công ty của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long Biên.
Văn hóa – văn minh Pháp một thành phần đáng kể của bản sắc Hà Nội. Thậm chí trong một chừng mực nhất định còn là hồn cốt của một đô thị có lịch sử hơn nửa thế kỷ được xây dựng và trực tiếp “sống” với văn hóa – văn minh Pháp.
Từ EASTERN CULTURE - Tổng hợp
Đình Bảng ở Từ Sơn, Bắc Ninh.
Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam (thời Lê Trung Hưng, triều Nguyễn) làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:
– Dốc mái thẳng
– Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
– Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới
Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc thời Minh Thanh sẽ thấy được sự khác nhau:
– Dốc mái võng xuống
– Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là “con sơn chồng đấu” hoặc “chồng đấu tiếp rui”)
– Cột thanh mảnh, tròn đều
Trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam, đình Bảng là công trình có các đầu đao vươn xa nhất.
Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức “tàu đao” (hay “đầu đao”) làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái.
Tượng con kìm bằng đất nung gắn trên mái, thời Lê Trung Hưng.
Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm (long nghê, hay cá chép hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. “Khu đĩ” thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là “vỉ ruồi”.
Đầu bẩy ở đình Bảng.
Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây kẻ, hay bẩy. Đây một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái, khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy.
Các cột trong đình Bảng.
Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông.
Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.
Hệ khung của đình Bảng với các vì và xà.
Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đó là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.
Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng.
Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:
CỘT là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:
– Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính
– Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính;
– Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước.
XÀ là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:
– Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
– Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
KẺ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:
– Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
– Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái.
Các cấu kiện bộ ̣vì và hệ mái:
BẨY hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên.
CÂU ĐẦU là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).
CON RƯỜNG là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.
CON LỢN, còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng.
RƯỜNG CỤT là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.
Các loại xà nằm ngoài khung:
– Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau.
– Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh
cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái.
– Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
– Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.
– Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
– Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.
– Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay xà nóc đặt trên đỉnh mái.
Các kết cấu mái
– Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
– Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
– Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối
lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói.
Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu
đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.
– Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ
ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch
màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
– Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung,
trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có
thể có lớp đất sét kẹp giữa.
Chùa Bút Tháp – Ninh Phúc.
Các chi tiết kiến trúc khác
– Cửa bức bàn
– Con tiện
– Dạ tàu
– Đầu đao
Nhà Việt cổ có thể làm theo:
– Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc.
– Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà.
Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên),
các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.
– Hình thức 8 mái chồng diêm.
Chùa Keo – 8 mái chồng diêm.
Truyền thống người Việt thường làm nhà theo cơ số lẻ: Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng
– Nhà 3 gian
– Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái
– Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái
– Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái
Trong lịch sử cận đại, có nhiều phát minh khiến chúng ta phải kinh ngạc, thậm chí ngay cả bây giờ cũng khó tin rằng chúng từng tồn tại. Tuy nhiên, vì những lý do bí ẩn, những phát minh này đã không bao giờ được đưa vào ứng dụng rộng rãi.
Dưới đây là một số phát minh "đỉnh cao" có thể làm thay đổi thế giới nếu chúng không bị biến mất mà mình có được sơ lược thông tin để giới thiệu đến các bạn.
1. Tia tử thần của Nikola Tesla
Năm 1930, nhà khoa học nổi tiếng Nikola Tesla tuyên bố đã tạo ra một thiết bị gọi là "Tia tử thần" (Teleforce).
Thiết bị này có thể tạo ra một chùm năng lượng cực mạnh, đủ để phá hủy máy bay, thiết bị quân sự, hoặc thậm chí cả một đội quân trong phạm vi 200 dặm.
Tuy nhiên, sau khi Tesla giới thiệu phát minh của mình, nhiều người đã cố gắng đánh cắp ý tưởng. Để bảo vệ công trình, Tesla đã phá hủy thiết bị và tất cả bản thiết kế. Nhiều người cho rằng ông làm vậy vì nhận ra rằng một thứ nguy hiểm như vậy không nên rơi vào tay bất kỳ ai. Có lẽ, đây là một quyết định đúng đắn để tránh những hậu quả khó lường.
2. Nhiệt hạch hạt nhân lạnh
![]() |
Bạn có nhớ lò phản ứng trong ngực của Iron Man không? Đó chính là một ứng dụng của nguyên lý nhiệt hạch hạt nhân lạnh. Năm 1989, giáo sư Eugene Mallove tuyên bố đã thực hiện thành công phản ứng nhiệt hạch hạt nhân lạnh, một quá trình tạo ra năng lượng khổng lồ mà không cần nhiệt độ cao như trong các lò phản ứng hạt nhân thông thường.
Tuy nhiên, sau khi Mallove qua đời vào năm 2004, nhiều người nghi ngờ rằng thí nghiệm của ông chỉ là trò lừa bịp. Cho đến nay, sự thật về nhiệt hạch hạt nhân lạnh vẫn là một bí ẩn. Nếu nó thực sự tồn tại, nó có thể thay đổi hoàn toàn ngành năng lượng của thế giới.
3. Vật liệu Starlite**
![]() |
Năm 1983, Maurice Ward, một thợ làm tóc bình thường, đã phát minh ra Starlite, một loại nhựa đặc biệt có khả năng chịu nhiệt lên đến 1.000°C (gấp đôi nhiệt độ bề mặt Mặt Trời). Chỉ cần phủ một lớp mỏng Starlite lên bất kỳ vật thể nào, nó sẽ được bảo vệ khỏi nhiệt độ cực cao.
Năm 1993, Starlite đã được trình diễn trên truyền hình khi một quả trứng được phủ lớp nhựa này và đun nóng bằng vòi đốt khí gas. Kết quả là lòng trắng trứng vẫn còn sống sau khi bóc lớp nhựa. Tuy nhiên, khi Maurice Ward qua đời vào năm 2011, ông đã không để lại bất kỳ thông tin nào về công thức của Starlite. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể tái tạo lại vật liệu này.
4. Hệ thống tạo mưa Cloudbuster**
![]() |
Wilhelm Reich, một nhà khoa học người Áo, đã phát minh ra Cloudbuster, một thiết bị được cho là có khả năng tạo mưa. Năm 1953, trong một đợt hạn hán nghiêm trọng tại Maine, Reich đã kích hoạt Cloudbuster và chỉ vài giờ sau, trời đổ mưa.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Reich đã bị chính phủ Mỹ đình chỉ và các nguyên mẫu thiết bị bị tịch thu. Nếu Cloudbuster thực sự tồn tại, nó có thể giúp giải quyết vấn đề hạn hán tại nhiều nơi trên thế giới.
5. Hệ thống mã hóa kỹ thuật số của Sloot
![]() |
Nhà phát minh người Hà Lan Romke Jan Bernhard Sloot đã phát triển một thuật toán có thể nén hàng GB dữ liệu xuống chỉ còn 64 KB. Ông đã chứng minh điều này bằng cách lưu trữ 16 bộ phim trên một chip nhớ nhỏ.
Tuy nhiên, vài ngày trước khi công bố mã nguồn, Sloot đột ngột qua đời trong những hoàn cảnh bí ẩn. Công nghệ của ông đã biến mất cùng với ông. Nếu thuật toán này được ứng dụng, nó có thể cách mạng hóa ngành công nghệ thông tin, giúp lưu trữ lượng dữ liệu khổng lồ trên các thiết bị nhỏ gọn.
6. Xe điện di động của Tesla
![]() |
Năm 1931, Nikola Tesla đã trình diễn một chiếc xe điện di động được cải tiến từ mẫu xe Pierce-Arrow. Ông lắp đặt một hộp nhỏ chứa các linh kiện bí ẩn và kết nối nó với động cơ xe. Chiếc xe có thể chạy với tốc độ lên đến 100 dặm/giờ và hoạt động liên tục trong 8 giờ mà không cần sạc.
Khi được hỏi về nguồn năng lượng, Tesla chỉ trả lời: “Từ trên không.” Nhiều người cho rằng ông đã sử dụng năng lượng không dây, nhưng sau đó, Tesla đã phá hủy chiếc hộp bí ẩn, và bí mật về nguồn năng lượng này vẫn chưa được giải đáp.
7. Thiết bị chữa ung thư của Rife
![]() |
Năm 1934, nhà khoa học Royal Rife đã phát minh ra một thiết bị laser có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư. Trong thử nghiệm lâm sàng, thiết bị này đã chữa khỏi cho 14 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối.
Tuy nhiên, khi Rife từ chối hợp tác với một công ty dược phẩm lớn, nghiên cứu của ông đã bị đình chỉ và thiết bị bị phá hủy. Nếu công nghệ này được phát triển, nó có thể cứu sống hàng triệu người trên thế giới.
---
Kết luận
Những phát minh trên đều có tiềm năng thay đổi thế giới, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chúng đã bị lãng quên hoặc biến mất. Liệu chúng ta có thể tái tạo lại những công nghệ này trong tương lai? Câu trả lời vẫn còn là một bí ẩn, nhưng chắc chắn rằng, nếu chúng được ứng dụng, thế giới của chúng ta sẽ hoàn toàn khác biệt.