Hiển thị các bài đăng có nhãn Kiến trúc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kiến trúc. Hiển thị tất cả bài đăng

27/07/2025

Kiến trúc Pháp trong lòng Hà Nội

    Bài này tôi dùng nhiều nguồn tư liệu và được dẫn giải có đường link minh chứng đi kèm (chữ đổi màu dấu bàn tay tên công trình).

    Theo Warres Smith trong cuốn sách nổi tiếng của ông nghiên cứu về dân châu Âu ở Viễn Đông xuất bản năm 1900 “European Settlements in the Far East”, “Dân số Hà Nội vào năm 1897 là 102.700 người, trong đó có 950 người châu Âu, 100.000 người An Nam, 1.697 người Trung Hoa, và 42 người Ấn Độ”. Mô tả chi tiết về Hà Nội lúc đó, Warres Smith viết: 

    Hà Nội thủ đô của Bắc Kỳ, và nay là thủ phủ của chính quyền Đông Dương, tọa lạc trên sông Cái, hay sông Hồng, cách cửa sông gần 180km. Thành phố được xây dựng gần con sông, ở đây chiều ngang sông rộng gần đến một dặm, và nhờ các hồ nước và cây cối rải rác, nó phô bày một vẻ đẹp khá ngoạn mục. Thành cổ chiếm giữ điểm cao nhất và được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch cao gần 3,7m và một hào nước. Nó gồm các doanh trại dành cho binh sĩ, kho vũ khí, đạn dược, v.v… và một ngôi chùa hoàng gia nằm bên trong tường thành. Phố cổ nằm ở giữa tòa thành và sông, và các đường phố của nó có một dáng vẻ khác lạ nhờ kiến trúc độc đáo của các ngôi nhà..."  

    Những địa danh du lịch có tiếng của Hà Nội hiện nay như Nhà Kèn, Nhà Hát Lớn, nhà tù Hoả Lò, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên, Nhà thờ lớn Hà Nội, Chợ Đồng Xuân… đều là những di sản có giá trị vật thể  bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể mang dấu ấn văn hóa Pháp góp phần làm nên một bản sắc một Hà Nội như hiện đại.

 


    
Không thể hiểu được bản sắc Hà Nội, nếu không nói đến những nét văn hóa – văn minh Pháp còn đọng lại ở đời sống đô thị vùng đất này.

    Bắc bộ phủ - Nay là Nhà khách Chính phủ (12 phố Ngô Quyền, Hà Nội)

    Tòa nhà được xây dựng vào năm 1918, là một công trình tiêu biểu của phong cách kiến trúc cổ điển Pháp, với tổ hợp mặt bằng, mặt đứng rất cân xứng cùng với những chi tiết kiến trúc thuần túy châu Âu.
 

    Phủ Toàn quyền - Nay là Phủ Chủ tịch

    Tòa nhà được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế, mang đậm nét kiến trúc Phục hưng Ý.

    Tòa nhà là một trong những dinh thự lớn nhất được Pháp xây ở Đông Dương gồm 30 phòng, mỗi phòng có một phong cách trang trí khác nhau.

 

    Trụ sở Tài chính Đông dương - Nay là bộ Ngoại giao (số 1 Tôn Thất Đàm, Hà Nội)

    Mặc dù được xây dựng vào thời Pháp thuộc nhưng tòa nhà này lại có kiến trúc phương Đông với hệ mái ngói nhiều lớp kiểu, đặc biệt là mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính cùng với lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh. Do có kiến trúc độc đáo với nhiều mái nên công trình này còn được gọi là "tòa nhà trăm mái".

    Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928 theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương. Ban đầu, đây là trụ sở của Sở Tài chính Đông Dương. Ngày 3/10/1945, tòa nhà được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm trụ sở của Bộ Ngoại giao cho đến nay.

 

    Bảo tàng Viện Viễn Đông Bác cổ - Nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

    Do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá trị kiến trúc bản địa.

    Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết thúc của tuyến phố Trần Quang Khải ngày nay, một vị trí có thể tạo ra điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê.

 

    Nhà Hát lớn Hà Nội

    Năm 1901, Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng và khánh thành năm 1911. Tuyệt tác nghệ thuật này được thiết kế theo mô hình nhà hát Opéra Garnier ở Paris. Vì thế, Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội mang đậm dấu ấn kiến trúc châu Âu cổ điển với sự hoàn hảo đến từng chi tiết, đem lại một không gian nghệ thuật hàn lâm, sang trọng bậc nhất Đông Dương thời bấy giờ. 

 

    Nhà thờ lớn Hà Nội (40 phố Nhà Chung, Hà Nội)

    Nhà thờ Lớn được mệnh danh là nhà thờ có thiết kế kiến trúc đẹp nhất tại Hà Nội. Nhà thờ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là công trình tiêu biểu cho phong cách Gothic Châu Âu, mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ Đức Bà Paris. Chiều rộng 21m, chiều dài 65m, có 2 tháp chuông cao gần 32m và được cố định bằng những trụ đá lớn.

 

    Trường Đại học Đông dương - Nay là trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN (19 phố Lê Thánh Tông, Hà Nội)

     Trường Đại học Đông Dương, nay là một phần của Đại học Quốc gia Hà Nội, có kiến trúc mang phong cách Đông Dương, kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông. Công trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard, và nổi bật với sự hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc cổ điển Pháp và các chi tiết trang trí mang đậm nét Á Đông.

 

    Bưu điện Hà Nội (Bờ Hồ)

    Công trình này mang phong cách kiến trúc Pháp cổ điển kết hợp với Art Deco, bao gồm nhiều tòa nhà nằm trên các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ. 

 

    Tòa án Nhân dân Tối cao

    Tòa án nhân dân tối cao (Palais des Justices) là công trình kiến trúc tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Pháp, do kiến trúc sư A.Henri Vildieu thiết kế năm 1906, được xây dựng trên một khu đất rộng, giới hạn bởi 4 tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard Carreau (phố Lý Thường Kiệt), Boulevard Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và hai điểm giới hạn tuyến phố Rue Jean Soler (phố Thợ Nhuộm), Rue Lambert (phố Dã Tượng). Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: cổng, sân, đường đi, tòa kiến trúc chính và các công trình phụ trợ.  

 

    Khách sạn Grand Métropole Hotel - Nay là KS Sofitel Legend Metropole Hanoi (15 phố Ngô Quyền, Hà Nội).
    Được xây dựng năm 1901 bởi 2 nhà đầu tư người Pháp, Sofitel Legend Metropole Hanoi là khách sạn 5 sao đầu tiên và đồng thời là khách sạn lâu đời nhất ở Hà Nội. Khách sạn mang đậm phong cách kiến trúc Pháp thuộc địa, với thiết kế tinh tế và sang trọng
 
    Cầu (Pont de) Paul Doumer - Nay là cầu Long Biên

    Cầu được xây dựng từ năm 1898 đến 1902, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1903. Cầu được làm hoàn toàn bằng thép, với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao, tạo nên một tổng thể vững chãi và hài hòa. 

    Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội. 

Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel Do vậy, Eiffel và công ty của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long Biên.

... 
    Như lời ngài GS.TS Hồ Sỹ Quý: Nói đến bản sắc Hà Nội, do vậy, cần thiết phải nói đến sự pha trộn hài hòa, sự đan xen khó tách biệt, sự thẩm thấu tưởng như khiên cưỡng nhưng qua thời gian lại trở thành phù hợp… giữa những nét “kinh điển, hoa lệ” của châu Âu với những giá trị lịch sử đã được bảo tồn qua năm tháng của con người và văn hóa Hà Nội.

Văn hóa – văn minh Pháp một thành phần đáng kể của bản sắc Hà Nội. Thậm chí trong một chừng mực nhất định còn là hồn cốt của một đô thị có lịch sử hơn nửa thế kỷ được xây dựng và trực tiếp “sống” với văn hóa – văn minh Pháp.

 

15/06/2025

Đôi nét về một kiến trúc cổ của Việt Nam - tháp Bình Sơn

 

 Tháp Bình Sơn (còn gọi là tháp Then, tháp chùa Vĩnh Khánh) nằm trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh ở thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.


Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý - Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay, tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao trên lãnh thổ Việt Nam. Tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt còn lại cuối cùng từ thời Lý- Trần vào tháng 3/2016. 


 Tương truyền, ngọn tháp nguyên bản có 13 tầng, trên nóc tháp có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao.


 Do những thăng trầm của lịch sử, phần chóp tháp đã bị vỡ, tháp hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ, có chiều cao đo được 16,5 mét.


 Tháp cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét.


 Theo khảo sát, tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm 2 loại trong đó có một loại hình vuông kích thước là 0,22m × 0,22m, một loại hình chữ nhật kích thước 0,45m × 0,22m.


 Trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn.


 Mặt ngoài của tháp trang trí hoa văn rất phong phú, đẹp nhất là từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét, là khoảng cách mắt thường có thể cảm nhận dễ dàng.


 Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng, phức tạp mà nổi bật nhất là những hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ “sư tử hí cầu”…


 Những tầng trên trang trí thưa dần và hình dáng cũng đơn giản hơn với các họa tiết như hoa chanh, lá sòi (hoa dấu phảy)…


 Hoa văn trang trí tinh xảo trên mỗi hòn gạch chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện

Một nét độc đáo khác của tháp Bình Sơn là tòa tháp này được xây dựng không cần vôi vữa. 


 Để làm điều này, những người xây dựng tháp đã sử dụng những viên gạch được chế tác có mấu và có gờ chỉ để giữ lấy nhau, đó là phương pháp xây gạch khẩu ở chân bệ.


 Ngoài ra, còn một cách khác là mỗi viên gạch có một lỗ hình thang, hai viên gạch xếp sát nhau, tạo thành một mộng cá và người ta đổ chì vào mộng cá đó để giữ hai viên gạch với nhau, đó là phương pháp xây bằng cá chì.


Về mặt tín ngưỡng, có nhiều truyền thuyết liên quan đến tháp Bình Sơn, cho thấy vị trí đặc biệt của tháp trong văn hóa tâm linh và ý thức cộng đồng của người dân bản địa.


 Đầu tiên có thể kể đến truyền thuyết về xuất xứ cây tháp, vốn là một tháp lớn dựng trong vườn tháp ở giữa cánh đồng Nẫu xã Tứ Yên, Lập Thạch, sau một đêm mưa bão thì nhảy về vị trí hiện nay…

Một truyền thuyết khác nói về chiếc giếng bên cạnh tháp với con vịt bằng vàng, là dấu tích nền móng một cây tháp khác có màu xanh bên tháp Bình Sơn, đã bay lên trời.

Ngoài ra còn có truyền thuyết về thủ lĩnh địa phương Ngụy Đồ Chiêm, là con một người đàn bà bán quán nước chân tháp, đã ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất khi bị quân triều đình đến đánh dẹp.


 Sau nhiều thế kỷ tồn tại, tháp Bình Sơn từng đứng trước nguy cơ sụp đổ vào thập niên 1960 do các trận lụt liên miên làm sói lở chân tháp.

Nhu cầu tu bổ tháp được đặt ra cấp thiết trong bối cảnh miền Bắc đang trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt.


 Từ tháng 5/1972, quá trình phục chế tháp theo lối thủ công được thực hiện.

Việc làm gạch để thay thế và bổ sung những chỗ bị vỡ trên tháp, bị nát, bị khuyết, bị lũ quét, phải kéo dài đến hai năm.


 Ngày nay, tháp Bình Sơn được coi là một trong những di tích lịch sử và nghệ thuật – kiến trúc có giá trị quan trọng bậc nhất trên lãnh thổ Việt Nam.


 Với những giá trị tiêu biểu của mình, tòa tháp đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2015.