Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện - Tiểu thuyết. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện - Tiểu thuyết. Hiển thị tất cả bài đăng

11/07/2023

Cưới giả - Phần 1



Chuyện của mình 

Tôi là dân tỉnh lẻ, sống ở thị xã tỉnh lị bao đời rồi. Nhà mình kinh doanh vàng và ngọc từ thuở chúa Trịnh - vua Lê cơ. Vì thế mình được ăn học đàng hoàng dù hồi đó còn bao cấp, tư thương bị o ép lắm. Hết cấp 3 (hệ 10 năm), bố mình tốn một khoản tiền to cho các ông cốp ở tỉnh để mình được lên Hà Nội học đại học.

Chí mình đã quyết sẽ phải ở lại thủ đô lập nghiệp, thành danh nên chịu khó chăm học. Tiền thì chả lo vì gia đình chu cấp với lại hồi ấy sinh viên được bao cấp nên sống cũng ổn.

Tuy có điều kiện nhưng được nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình nên mình vẫn an ổn giữ vẻ khiêm tốn, không chi tiêu bừa bãi, khoe khoang, nhưng với lũ con gái mình cũng chịu khó tìm hiểu và chịu chi đúng mức. Ở lớp, ở khoa gái Hà Nội hơi ít mà có thì cũng giữ vẻ cứng nhắc và kiêu kỳ nên cũng chưa nhắm được ai cả. Sốt ruột lắm vì muốn có hộ tịch ở Hà Nội thì phải cưới được một cô vợ người thủ đô mới xong.

Tốt nghiệp đại học loại giỏi nhưng vẫn bị phân công về tỉnh làm việc mà không như kỳ vọng được giữ lại Hà Nội công tác, nghiễm nhiên trở thành dân Thủ đô.

Nhận công tác và yên lành làm việc. Do chí đã có nên lương dù thấp nhưng có kinh nghiệm kinh doanh của gia đình nên mình cũng âm thầm tích luỹ được khoản tiền vàng kha khá.

Hồi đại học quen và chơi thân với mấy anh bạn người Hà Nội, trong đó có Hùng phố Lò Rèn. Nhanh nhẹn, tháo vát và tinh tường lắm. Nhờ Hùng, mình mua được căn nhà độc lập, rộng rãi ngay gần bến tàu điện (do chưa có hộ tịch nên mình cứ sang tên viết tay rồi để đấy tính sau - thật ra cũng hơi liều). Chậm rãi sắm sửa, nên mình ở Hà Nội cũng có chỗ trú chân tử tế.

Bước hai, tìm một cô gái chấp nhận cưới giả. Việc này mình lại nhờ Hùng. Thời gian sau, Hùng gửi điện về báo đã tìm được người đồng ý và hẹn ngày gặp mặt.

Mình xin phép nghỉ ở cơ quan 1 tuần để lên Hà Nội thu xếp.

Điểm hẹn là sảnh ngoài Bưu điện Bờ hồ, khoang thứ nhất bên phải, cô gái sẽ mặc áo cánh hồng.

Hôm đó là ngày giữa tuần, nắng đẹp. Dù có xe đạp phơ giô (khoe tý) nhưng tôi đi tàu điện tới, nhảy xuống đoạn cây gạo ven hồ. Đi bộ bên này đường ngó sang cửa chính Bưu điện.

Tôi rất lo sẽ gặp một cô gái xấu xí, ăn mặc nhếch nhác... Nhìn sang điểm hẹn, tôi thấy một cô gái dáng cao dong dỏng nhưng lồi lõm đủ cả. Cô gái mặc chiếc sơ mi màu hồng kết hợp cùng chiếc quần âu màu sáng phối màu duyên dáng. Tóc phi rê, chải bồng, gương mặt xinh xắn; cùng làn da trắng, sáng hồng, nghiêm trang và thản nhiên.

Tôi bước sang đường, đến gần cô ta và nói: Anh là Sinh, bạn anh Hùng.

Cô ấy ngẩng nhìn, thoáng đánh giá rồi gật đầu chào, giọng dịu nhẹ: Em là Trâm và đã được anh Hùng giới thiệu về anh.

Tôi nói: Ở đây nói chuyện không tiện, ta ra Thuỷ Tạ ngồi, Trâm thấy sao?

Trâm nói: Thế cũng đượcAnh đi gì đến? Em đi xe đạp.

Tôi nói: Anh đi tàu điện, vậy anh đèo em đi nhé?

- Vâng, xe em để dưới kia, đây là chìa khoá.

Xe Trâm là Phượng Hoàng nữ, khá mới nên đi nhẹ. Vừa đi mình vừa nghĩ: "Cô gái này xinh đẹp, trông là người đàng hoàng và khá giả sao lại chấp nhận làm đám cưới giả với mình. Con gái lấy chống là chuyện lớn, ảnh hưởng đến thanh danh cả đời. Ở đây có chuyện gì? Khó hiểu".

Tôi đèo Trâm ra Thuỷ tạ, chọn cái bàn nơi ban công ngắm ra hồ. Hỏi nàng, cô chọn cà phê đá. Chậm rãi, chưa nói chuyện vội, tôi lấy ra bao thuốc Dunhill (thường ở cơ quan tôi hút thuốc lá thường, chỉ khi không có đồng nghiệp tôi mới dùng thuốc này vì cũng dễ kiếm và quen dùng), cầm điếu thuốc châm lửa. Thấy nàng lấy trong giỏ mây ra bao thuốc Samit, rút 1 điếu cũng châm lửa, hít 1 hơi trông thành thục và điệu nghệ. Không bình luận, tôi hỏi:

Trâm đã biết nguyện vọng của anh rồi chứ.

- Vâng, anh Hùng đã cho em biết những nét chính và em đồng ý.

- Vậy, trước khi đi vào cụ thể, anh muốn biết phải trả bao nhiêu tiền?

Cô ta nói số tiền. Tôi vờ làm ra vẻ kinh ngạc: Ồ, số tiền đó quá lớn đấy Trâm ạ. Nhưng thật ra tôi có thể trả gấp đôi hoặc hơn số tiền đó.

Không, số tiền đó không lớn so với thanh danh của em anh nhé. Tuỳ thôi, em không ép. Nếu chấp nhận,  số tiền này chia làm ba phần. Anh đưa em trước một phần. Làm đăng ký kết hôn xong anh trả em phần thứ hai; sau khi có hộ tịch anh đưa phần còn lại. Còn khi nào ly dị do em quyết định và sẽ báo trước cho anh, tất nhiên sẽ không ly dị ngay để anh đỡ lo.

Rất rành mạch và lạnh lùng cùng làn khói thuốc lá quẩn quanh. Ngừng một lát tôi nói: 

- Anh chấp nhận.Vậy hôm nào ta gửi đơn đến tiểu khu làm Giấy đăng ký kết hôn? Anh chỉ ở Hà Nội có mấy ngày thôi.

Trâm nói: Ngày mai đi anh, hẹn chỗ Bưu điện và anh cầm luôn một phần tiền tới.

- Nhà em ở đâu? Có gần đây không?

- Nhà em ở khu tập thể X, cũng gần thôi. Vậy anh ở đâu khi trên Hà Nội.

- Anh ở nhờ nhà người bạn bên phố Y. Mấy ngày trên Hà Nội, chúng ta có gặp nhau nói chuyện không?

- Không, em không thích.

- Dù sao chúng ta cũng là vợ chồng sắp cưới, phải gần gũi làm quen tìm hiểu nhau chứ.

- Không được, em chưa sẵn sàng. Với lại chúng ta chỉ là giao dịch mà thôi, cần gì phải để ý chứ. Xong việc, chia tay nhẹ gánh cho cả hai.

Ngồi ngắm cảnh, đốt hết 2 điếu thuốc, nói vu vơ mấy câu rồi chúng tôi chia tay ở bến tàu điện.

Hôm sau, tôi đi xe đạp đến chỗ hẹn. Lúc sau nàng đến. Vẫn thướt tha, kiêu kỳ như hôm qua. Hai đứa đưa nhau ra Tiểu khu xin làm Giấy Đăng ký kết hôn. Cũng may ngày lành, mọi việc suôn sẻ, chỉ việc về nhà chờ giấy gọi của uỷ ban. Khi ra ngoài, tôi bảo: Trâm cho địa chỉ, về nhà trước. Lúc nữa tôi đến giao tiền được không?

Ngần ngại một lúc, Trâm cho địa chỉ và về trước. Tôi vòng ra Lương Ngọc Quyến, lúc đó vẫn còn người Tàu, mua vài món ăn, bảo họ bọc lại và chai rượu Cognac (chắc bên giao tế hoặc khách sạn tuồn ra).

Nhà Trâm ở tầng 2 khu tập thể, khá rộng rãi, có 2 phòng và khu bếp,  vệ sinh riêng. Đây chắc là căn hộ dành cho cán bộ cấp khá cao. Trong nhà trang trí cũng giản dị nhưng tinh tế, đồ dùng toàn loại tốt, nhiều thứ là của Liên xô, Tiệp, Đức.... 

Trâm đã thay bộ đồ khác, áo cánh tím nhẹ cùng quần lụa. Trông như thế làm mềm mại, nữ tính hơn nhưng không át điệu quyễn rũ nhẹ nhàng.

Để Trâm không phải nấu nướng, lại nữa cũng là ăn mừng bước đầu chúng ta đã hoàn thành một phần công việc nên anh chuẩn bị chút thức ăn để mời em. Mong em chấp nhận.

Quan sát thấy ánh mắt Trâm giãn ra, hơi có tia vui. Tôi đặt mấy giỏ thức ăn và chai rượu lên bàn nước (hồi ấy còn lạc hậu lắm, không có túi nilong, nói chi đến hộp xốp; nhưng người Tàu họ có hộp tre đựng thức ăn đem về trông khéo lắm. Không tràn mà vẫn giữ được ấm, thơm của đồ ăn - có nhẽ bây giờ chỉ còn có bên Đài Loan thôi).

Trâm nhẹ giọng: Vâng. Rồi vào trong lấy ra bát đĩa cùng 2 cái cốc uống rượu pha lê nhỏ (quá ngạc nhiên) bày trên bàn.

Thời ấy, hút thuốc lá trong phòng dù có mặt người già, trẻ em, phụ nữ cũng không quá bị để ý và phản ứng (trừ trong rạp phim) nên 2 đứa vừa ăn, vừa uống rượu vừa hút thuốc thoải mái.

Rượu vào lời ra, nhưng mình và Trâm đều kiềm chế (dù sao cũng giữ chút ấn tượng lúc ban đầu), và những câu hỏi han về việc làm, sở thích.

Trâm không đi học dù đã tốt nghiệp cấp 3 (hệ 10 năm), làm chút chuyện hàng xách (bây giờ gọi là môi giới), buôn nhỏ hàng của các cốp (quan to) từ nước ngoài về. Có vẻ kiếm được, nhưng Trâm nói, nhà có 2 anh em; anh Trâm đã làm cán bộ một cơ quan lớn và đã có gia đình nên Trâm vẫn được bố mẹ chu cấp là chính, như cái nhà này là tiêu chuẩn của bố Trâm...

Mình nói về ý nguyện lên Hà Nội sinh sống, để lập danh và làm giàu, về công việc hiện tại...vân... vân...

Vậy mà 2 đứa cũng uống hết nửa chai 0,75l. Thấy đủ, mình xin phép ra về, nhờ Trâm dọn giúp.

Nửa tháng sau, tôi lại thu xếp lên Hà Nội theo điện nhắn của Trâm (trước đó tôi đã cho Trâm địa chỉ của tôi ở tỉnh). Lần này là Đăng ký kết hôn, cũng coi như là chính thức 2 đứa trở thành vợ chồng trước pháp luật. Giấy Chứng hôn nhận ngay tại uỷ ban tiểu khu với sự chứng kiến của Phó trưởng tiểu khu và chữ ký chứng thực của ông.

Hai đứa ra về với 2 tâm trạng khác nhau: Trâm thì trầm lắng suy tư. Đúng thôi, cô ấy đã thành vợ của người ta rồi, phức tạp đấy... Còn tôi thì trong lòng hân hoan vì đã bước 1 chân vào thủ đô, sắp làm công dân Hà Nội rồi. Tuy vui sướng, nhưng tôi vẫn cố kiềm chế không bộc lộ nhiều vẻ sung sướng của mình.

Tôi nói: Em về trước, anh đi ra ngoài một lúc rồi sẽ đến nhà em. Chúng ta phải làm chút gì đó mừng sự kiện này chứ.

Trâm ngập ngừng một lát rồi rụt rè Vâng.

Tôi lại ra Hàng Buồm sắm đồ ăn. Hôm nay, cửa hàng không còn loại rượu cognac mọi khi, chỉ có whisky scotch. Rượu này hơi nặng cho phụ nữ. Thôi đành mua vậy. Ra hàng hoa phố Đồng Xuân mua chục bông hồng. Vậy chắc là đủ.

Đến nhà Trâm, như lần trước, Trâm đã chuẩn bị bàn ăn, để sẵn đĩa bánh mỳ, đĩa bơ và đĩa thịt xông khói (ổn thật, đời sống các cụ cao nên con cháu hưởng lây). Nhìn thấy tôi cầm bó hoa, mắt Trâm sáng lên lấp lánh, vội vàng đón lấy rồi le te chạy vào buồng bếp. Tôi ở ngoài bày đồ ăn mua về, rồi thong thả hút điếu thuốc chờ.

 


18/09/2022

Hết thời oanh liệt - trích trong "Hương rừng Cà Mau" - Nhà văn Sơn Nam

 


 

Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao? Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo khi ngày nay đọc lại quyển Truyện đời xưa của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi trong bụi dừa nước... Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành dám bỏ rừng sâu, bén mảng đến các xóm nhà sát mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất thế nhứt. Ông cha ta đã đánh đuổi lũ cọp ấy như thế nào? Có người đáp: nhờ các thầy võ giỏi chuyên môn đánh cọp xuất thân ở các trường võ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường, gặp cọp là rượt bắt lại, nắm gáy đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng khác nào chúng ta ngày ngay đánh một con mèo hoặc một con chó con...

Người khác bảo rằng: họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây giữa rừng mà thổi kèn, nói đúng hơn là thổi vào một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quỳ xuống hầu hạ canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy xiêm vỗ về từng con, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp được đem về cắm trong măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô, mỗi sợi là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ hói, mình mảy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó trong một cái hũ kín mít để giữ nhà. Khi có khách đến sâu cọp nhảy dựng trong hũ nghe rổn rảng rồi la hét! Ngoài ra, cứt của loại sâu này rất quý giá vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt. v.v...

Sự thật ra sao?

Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị xua về Bảy Núi, về Tà Lơn phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Nam hoặc các thầy Xiêm có bùa phép?

Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến tìm các ông bà lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban. Mấy ông này nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời các bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe các ông trả lời.

- Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào?

- Ðiều đó không nhớ chắc chắn ngày tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển, có ghe đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đất liền chỉ có mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chơ Rạch Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sóc người Miên ở giữa đồng. Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Tàu Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao này, ở miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi, cách mình một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng đi tới.

- Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai ở?

- Sự thật như vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng nhưng họ không làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, ven sông Cái lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm thước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng, nghe cọp rống, mấy ổng úp mặt xuống đất nên có tiếng dội...

- Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm!

- Không có! Không có! Mình ngu dại gì, vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai điều lợi. Một là mong mấy ngọn rạch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ba ngàn thước... Phía trong toàn là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá gấp sậy để đó để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Ðiều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp, trong lúc mình không rành võ nghệ.

- Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt...

- Vài người lo xa. Họ rào chung quanh chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình đi ruộng, cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần đó, cọp tới sân nhà tôi chạy vòng quanh tìm cách vô nhà. Ðứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy nó chạy ra sát hàng rào. Cọp ta không phương thế nào vào trong được nên day lại, thò đuôi vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà nghe con tôi nói lại: "Ba ơi! Hồi ba đi ruộng, có con mèo vện lại đây, thò đuôi vô. Con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo ra được chạy vuột." Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ xây hàng rào chung quanh nhà. Ðêm cũng như ngày chỉ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở hai huyện (Cần Thơ, Vĩnh Long) xuống đây. Ở đó, đất khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới tên cọp là sợ chớ ít ai thấy tường tận ông cọp lần nào. Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại: "Má ơi, cọp! cọp!." Hỏi cọp ra sao. Cô ta nói nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó rằn. Chừng xem kỹ lại rõ ràng là tàu cau... Có bà lão khác ngồi câu cá dưới gốc cây xộp. Cọp trong rừng men chạy ra chụp một cái. Bà nọ té nhào bên một gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại. Bữa nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp heo rừng ra nhát. Chừng cả nhà hồ nghi trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp. Kể từ đó, thiên hạ ưa bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: nên thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn tre tầm vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý. Nhưng sau đó, ở rạch Cái Cam, Phong Ðiền, Cần Thơ, có người xuống cho hay: "Ở xứ tôi, có bố trí như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, trụ hình một chỗ. Thinh không, ổng hét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì chạy càn đụng nhằm ngọn tầm vông của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu cọp nhai nát như... mình ăn mía."

- Vậy làm thế nào mà đánh cọp đến đỗi không còn sót một con như ngày nay?

- Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm này mới bày đặt cất miễu thờ cọp. Ðó là ngụ ý: "Chúng tôi là người làm ăn, không dám đả động tới ông, xin ông cứ ở trong rừng để chúng tôi được yên ổn!." Cất miếu xong, chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh miếu, đứng nhìn nhang rồi về. Bữa sau đem ra cúng một cái đầu heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó xóm giềng được yên.

Nhưng tạo hoá vần xoay, dân miệt trên xuống đây khai khẩn ngày thêm đông.

Ðất giữa đồng khai thác hết. Bấy giờ chỉ còn là đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Ðó là hồi nguy nan nhất cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan cất nhà sát mé rừng. Ban đầu, đôi ba nhà, sau, năm mười nhà. Họ thấy ở gần rừng mé sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một công rẫy trúng mùa được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc này, nhiều người chết vì đi một mình vô rừng bị cọp chụp bất thình lình. Họ sắm mác thông, thứ có cán dài để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người khó bề xoay trở để thủ thế.

Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông thầy râu (thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu) có đứa con gái bị cọp vồ. Tức mình ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo cầm cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu.

Kinh nghiệm là không nên đánh cọp nơi chật chội, tứ bề có cây cối. Cọp sợ con người. Bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch Cái Bần này lần hồi còn sót lại được ông Mun.

- Tại sao ông Mun dám ở lại?

- Vì ông thuộc về lại cọp già, đã từng chống chọi nhiều phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ. Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt tên. Có hai ông, Ông Vện với Ông Mun. Vện là cọp đực. Ông Mun là cọp cái.

Trời đất dành riêng cho đôi cọp này số phận riêng. Trước hết xin nói về ông Mun.

Thường ngày ông tới lui vàm Xẻo Gừa - một xẻo nhỏ, có cây gừa to lớn, nhỏ gừa (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cây to bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát gốc, chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp.

Ông dạn lắm. Sáng đi, chạng vạng về. Tháng Tư năm đó, ông sanh được bốn ông Mun con...

Thật là khủng khiếp, lạ thường. Xưa nay, cọp sanh một hay sanh đôi là cùng. Ðàng này sanh tới bốn con. Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên, sung sức.

Phải đối xử bằng cách nào?

Bắt bốn ông Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở gốc cây gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều chuyện bất an cho xóm.

Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách lừa bày ra một kế: bắt bớt ba, chừa lại một.

Thi hành xong, ba ông đem ba con cọp nhỏ về nhà. Xóm giềng rất đỗi vui mừng. Nhưng ba ông không yên trí, sợ ông Mun mẹ đánh hơi theo tìm con để trả thù...

Sau rốt, các ông mua nhang đèn về dựng bàn thờ trước nhà mà khấn vái:

- Xin trình cúng ông Mun được hay: Thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Ðằng này, ông sanh tới bốn con. Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng có tới xin bớt ba con, chừa lại cho ông một con. Như vậy không mích lòng ông mà cũng không hẹp bụng chúng tôi.

Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét, rồi vài hôm sau dẫn đứa con còn lại đi đâu mất.

Bây giờ làm sao để nuôi ba ông cọp con nọ?

Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được chuyện ấy, mấy người đàn bà động lòng, xúm xít lại, đặt mấy cậu ngồi giữa bộ ván, ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. Cho bú thử. Kết quả, vài ngày sau vú sưng lên làm độc, đau sứt núm vú, bấy giờ thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho quan phó chủ tỉnh. Ông phó tên Quitxy thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng.

- Còn ông Vện?

- Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun cha của mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ theo con. Buổi sáng đó người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao, ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất chọi thử rồi lấy cây dài đem chọc, chừng đó mới biết ông chết. Họ thui râu của ông, lấy thước đo ông dài một thước sáu. Người khác đòi, khiêng lên cân thử. Các bậc kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm vậy là quá khinh thị mạt sát kẻ đã chết.

Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Các rạch khác cũng nỗ lực như vậy. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm từ ngọn Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa: "U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp tha" không còn. Ghe xuồng tàu bè tấp nập, bọn sấu phải lui về vàm. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy:

Bông sậy là nơi đã khai thác thành rẫy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập nên làng nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa.

Chẳng qua là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít. Sự thật về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy. Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bia đồng tượng đá. Vậy mà về sau này có bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp thời xưa để hát thuật Sơn Ðông, bán thuốc trật gãy xương hoặc bán bùa Xiêm để dụ dỗ gái tơ.

Thiệt đáng trách biết chừng nào!

22/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (phần cuối)

Phần cuối


< Trước
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Chuyện về John Smith đã làm gián đoạn phần cuối của câu chuyện đang kể. Vì vậy tôi phải trở lại với những ngày ấy ở Đồng Hới...
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi có một cuộc liên hoan nhỏ để chia tay với hai đồng chí phi công, các thợ máy và các chiến sĩ trinh sát đặc công. Đó là những người lính mà tôi hết lòng khâm phục. Các anh ấy đều rất hiền, sống chân tình giản dị, và rất điêu luyện trong công việc của mình. Gần hai tháng trời gắn bó với nhau trong một công tác đặc biệt như vậy, chúng tôi đã thân thiết như anh em một nhà. 
Thế mà đến lúc tạm biệt, hai đồng chí phi công nhất định không bắt tay Thủy. Các anh bảo: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những chuyến bay tiếp theo, cô bé đồng nghiệp! Vậy thì không việc gì phải vội từ biệt..." Các anh ấy nói đúng! Lúc đầu anh Hai Nguyên định đưa Thủy về công tác tại tỉnh nhà, nhưng bộ đội không quân đã xin cô ra ngoài đó, và tôi hiểu vì sao điều ấy lại khiến "cô bé" mừng rỡ đến như vậy.
Trước mắt, Thủy còn chờ anh Hai Nguyên làm xong công việc ở đây để cùng anh ra Hà Nội thăm gia đình chú. Sau đó cô sẽ tiếp xúc với công tác mới. Còn tôi và đồng chí thiếu tá đang đợi các anh ở đơn vị anh Đằng và anh Hùng để đưa nắm đất thấm máu hai anh về quê. Một nhiệm vụ thiêng liêng, nhưng dù có làm tốt đến đâu cũng không có được niềm vui. 
Đã gần tết. Trên những thừa ruộng ven thị xã, màu xanh của mạ non mới cấy viền kín quanh những hố bom. Chúng tôi có những giờ phút thong thả để trò chuyện với nhau, nhưng Thủy lại buồn: 
- Lúc mới ra lu bu công chuyện nên quên cả buồn. Giờ rảnh rỗi mới thấy nhớ ba. Em thương ba quá! Vậy là tết này em được ăn tết ở Hà Nội, còn ba chỉ thui thủi một mình... 
Để Thủy khuây khỏa, tôi rủ cô ra biển chơi. 
- Ra biển? - Cô tròn xoe đôi mắt nhìn tôi - Biển đang động mà? 
Tôi cười: 
- Mình chỉ ngồi trên bờ chứ có xuống biển đâu mà sợ? Biển động cũng có vẻ đẹp riêng của nó. 
Cô khúc khích: 
- Nghe anh nói... thiệt hay! 
- Đâu có! Tôi vụng về lắm! Có những điều nghĩ mãi trong đầu mà không nói ra được... 
- Chuyện chi vậy anh? 
Cô hỏi lại. Tôi bối rối mất một lúc và biết rằng mình vừa để lỡ cơ hội. Nhưng hình như Thủy không để ý... 
Từ nơi chúng tôi ở ra đến biển chừng ba cây số. Tôi cùng cô đi men bờ sông. Trời không mưa nhưng vừa có đợt gió mùa đông bắc nên khí trời trở lạnh. Có phải vì thế mà đôi má Thủy ửng hồng? Gió từ biển thổi vào lồng lộng. Con sông Nhật Lệ thường ngày vốn hiền hòa giờ cũng nổi sóng. Thủy bước sát bên tôi, mái tóc dài bay bay trong gió và tiếng cô cũng bay theo, hòa trong tiếng sóng nước ì oạp vỗ bờ:
- Vậy là em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển rồi đó nghẹn! 
Tôi nói đùa: 
- Lên rừng thì còn được, chứ vào Nam chỉ tới Tam Kỳ, ra Bắc mới ngang Đồng Hới. Và lát nữa chỉ ngồi trên bờ chứ đâu có lội xuống biển? Mà đấy là "người ta" đi theo cách mạng... 
- Có vậy anh mới hết hỏi "Cô ra đây làm gì..." 
Chúng tôi ngồi trên một cồn cát nhỏ có những bụi dương liễu mọc lúp xúp. Mấy túm cỏ lông chông và những dây muống biển cố níu rễ vào cát để khỏi bị gió cuốn đi. Trước mặt là cảnh biển động dữ dội và hùng vĩ. Mặt nước mênh mông lúc này đang cồn lên sôi sục. Từ ngoài khơi xa tít tắp sóng bạc đầu lớp lớp nối nhau dồn vô bờ. Lúc tới gần, những con sóng lừng lửng dâng lên cao rồi đổ xuống ầm ầm như thác, nước ào lên bãi cát hết đợt này đến đợt khác tung bọt trắng xóa, bụi nước bay tới tận chỗ chúng tôi ngồi. 

Chiều hôm đó chúng tôi nói lời yêu nhau trong tiếng ầm ào của biển. Có lẽ đó là một kinh nghiệm hay cho những chàng trai trẻ nào vốn vụng về và nhút nhát như tôi. Tỏ tình bên bờ biển trong lúc biển động, ta chỉ phải nói bằng lời rất ít và không cần văn hoa cho lắm, còn ánh mắt sẽ nói những gì trong đầu ta nghĩ. Cả các cô gái cũng vậy, khỏi lo bị mê hoặc bởi những lời đường mật vì biển lúc này không cho phép ai nhiều lời. Mà chỉ những ai thực sự hiểu nhau và yêu nhau mới nói được với nhau bằng mắt. 

Tình yêu khởi đầu từ trên rừng, lời thề nguyền nói trước biển, chúng tôi đã phải vượt qua một chặng dài không chỉ về không gian để đến được với nụ hôn đầu đời vụng về và say đắm. 
Tôi và Thủy còn ở lại Đồng Hỡi ba ngày nữa. Đối với hai đứa tôi thì đó là những ngày rất đẹp và ấm áp, dù ngoài trời lâm thâm mưa phùn và nhiệt độ có lúc xuống dưới mười độ C. 


Sau khi chia tay với Thủy, tôi cùng đồng chí thiếu tá và hai đồng chí cán bộ ở sư đoàn nơi anh Đằng và anh Hùng công tác về quê các anh.

Chúng tôi tìm tới nhà anh Đằng thì ông cụ thân sinh ra anh đã mất. Mộ của ông, người thương binh già thời chống Pháp, được đặt trong nghĩa trang liệt sĩ xã. Hôm ấy các em học sinh nghỉ học một buổi cùng với bà con trong xã đưa nắm đất thấm máu anh về chôn cạnh mộ người bố. Tôi rùng mình khi đọc trên tấm bia mộ thấy ngày mất của ông trùng với ngày anh Đằng hy sinh. Hai cha con, hai người lính của hai cuộc kháng chiến kế tiếp đã hy sinh xương máu cho độc lập tự do của dân tộc, họ ngã xuống cùng một lúc và giờ đây trong gia đình ấy không còn ai nữa. 

Nghĩa trang nằm cạnh ga xép. Một đoàn tàu đang kéo còi chầm chậm vào ga, khói đầu máy trĩu nặng dưới làn mưa bụi. Từ chốn rừng già xa xôi ấy vong linh anh có về được tới đây không, mà tiếng còi tàu lúc này nghe nao lòng đến vậy... 
Ở quê anh Hùng nghĩa trang liệt sĩ nằm giữa cánh đồng lúa bát ngát, những hàng dương liễu nghiêng bóng trên những ngôi mộ hát ru suốt ngày đêm. Lễ truy điệu anh được địa phương tổ chức rất chu đáo, nhưng chúng tôi vẫn ân hận vì vợ con anh ở xa không về kịp. Nỗi ân hận đó cứ dày vò tôi mãi đến ngày nay. Lúc đó, tôi tự hứa với mình là sẽ lên thăm chị và cháu để kể cho những người thân thiết nhất của anh nghe trong những ngày cuối đời, anh đã sống và hy sinh như thế nào... Bao bộn bề công việc cùng những lo toan trong cuộc sống đời thường là nguyên nhân khiến tôi lần lữa hết lần này đến lần khác, hết năm này qua năm khác. Tôi tự biện minh cho mình: "Tại đường sá xa xôi cách trở quá..." 
Phải chăng khi năm tháng trôi qua, tình cảm cũng nhạt dần đi? Quên thì không, nhưng những việc nghĩa tình đáng phải làm dần dần trở thành thứ nghĩa vụ mà ta thực hiện một cách miễn cưỡng, và đôi lúc cảm thấy đó là nỗi ám ảnh phiền toái... 


Năm 1996, tôi theo đoàn cán bộ lên tham quan công trình thủy điện Hòa Bình. Khi hỏi thăm cái bản dân tộc Thái hồi trước anh Hùng kể, mới biết giờ đây nó nằm dưới lòng hồ sông Đà. Tôi bỏ dở chuyến tham quan, tìm tới bản mới nơi chị ở thì chị đã mất. Ngồi trước nấm mộ còn tươi màu đất, tôi thầm kể cho chị nghe những điều mà đáng ra chỉ phải được nghe lúc còn sống. Vậy đó! Có những việc khi ta biết ân hận thì đã muộn. Có phải "nợ nghĩa tình" là như vậy chăng? Trước đây mỗi lần nghe người khác nói thế, tôi vẫn nghĩ: đã là nghĩa tình thì sao lại gọi là nợ? Ai vay ai mượn được mà nợ? 
Tôi tới cơ quan nơi con trai anh Hùng công tác tìm cậu ta, nhưng không gặp. Cậu ấy giờ là kỹ sư lâm nghiệp, hiện đang mải mê trong một cánh rùng nào đó để nghiên cứu đề tài "Bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn sông Đà". Là một người yêu rừng đến độ mê say, hẳn giờ đây anh Hùng hết sức vui sướng và toại nguyện khi con trai mình đi theo tiếng gọi của rừng. 
Ngày ấy từ quê anh Hùng, chúng tôi lên Hà Nội làm việc với cơ quan anh Sơn, và cùng với đại diện cơ quan về nhà anh. Tôi trao lại cho chị những kỷ vật của anh: cuốn Nhật ký, thư từ, ảnh..., những thứ anh để lại T2 trước chuyến đi. Chị dỗ khéo đứa con gái cho cháu ra ngoài sân chơi nhảy dây với bạn, để nghe tôi kể về những giờ phút cuối cùng của anh. Cháu mới sáu tuổi. Không nên để lại trong đầu óc trẻ thơ non nớt những hình ảnh kinh hoàng về cái chết của người bố. Sau này mỗi khi nhớ lại ngày hôm ấy, trước mắt tôi vẫn chập chờn hai đuôi khăn tang trắng bay bay như đôi cánh bướm trên đầu bé, tung tăng theo từng bước nhảy hồn nhiên... 
Hai mươi lăm năm sau cô bé ngày đó trở thành phó tiến sĩ công tác trong một viện của ngành địa chất. Chị Sơn đã nghỉ hưu, vẫn sống trong ngôi nhà nhỏ dưới chân núi Gôi. Trong một lần tôi ghé thăm, chị nói: "Con bé cứ giục tôi ra Hà Nội sống với vợ chồng nó, nhưng tôi không muốn đi. Lúc nào tôi cũng nghĩ là anh ấy sắp trở về đây..." Mái tóc đã điểm bạc, thời gian và đau khổ đã hằn sâu thành nếp nhăn trên khuôn mặt, nhưng đôi mắt chị vẫn vời vợi nỗi ngóng chờ như trong tấm ảnh anh Sơn đưa tôi xem ở Bãi Hà ngày nào. 


Sau chuyến đi đó, tôi vào Quảng Trị. Về lại đơn vị cũ, anh em bạn bè gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Gần ba năm rồi, ai cũng nghĩ là tôi đã chết. Nhưng bên cạnh niềm vui vẫn là nỗi buồn: Bằng và Dũng hy sinh trong một chuyến đi công tác bị địch phục kích, cũng trên vùng đồi sim Cam Lộ. "Vậy là Bàng chẳng bao giờ trở về với cái làng cá ven biển của cậu. Còn Dũng chết mà chưa một lần được nhìn thấy biển..." Tôi ngậm ngùi nhớ tiếc hai người bạn cùng tổ công tác. Những tưởng ngày ấy chia tay nhau, xa nhau vài bữa rồi gặp lại, ai ngờ... 


Tháng sáu năm 1972. Khắp cả thị xã Đông Hà vừa mới giải phóng chỉ còn sót lại một cây phượng vĩ già nở hoa đỏ rực. Mùa hè Quảng Trị nắng đổ lửa. Gió Lào cuốn tung bụi trên những đường phố lỗ chỗ dấu bom đạn và ngập ngụa rác rưởi chiến tranh, thứ rác thường thấy sau những trận chiến đấu giành đất ác liệt.
Đơn vị tôi có cuộc họp. Mấy phút giải lao, cánh lính trẻ kéo nhau ra ngồi dưới gốc phượng vĩ, tán láo đủ chuyện. Chúng tôi đang vui cùng mảnh đất Quảng Trị vừa giải phóng. Tôi còn có niềm vui riêng vì mới nhận thư Thủy. Nét bút lần đầu nhìn thấy mà như thân quen tự bao giờ. "...Em mới được bay tập với trực thăng Mi - 8... Ra ngoài này còn được cưng hơn ở nhà nữa đó? Mấy chú mấy anh ai cũng hiền cũng tốt... Sắp tới em sẽ vô công tác trong đó, chắc lại được gặp anh..." Những dòng mực xanh trên giấy trắng mà như có âm sắc của giọng cô líu ríu niềm vui. Chúng tôi sẽ gặp lại nhau? Tất nhiên rồi... 
Gần hết giờ giải lao. Đồng chí cơ yếu tay cầm cuốn sổ điện mật hớt hãi chạy ra gọi: "Hải ơi! Hải đâu rồi? Có điện này..." Một linh cảm nặng nề choáng ngợp trong đầu tôi. Điện mật chỉ dùng trong công tác, bình thường cấp lính như tôi không khi nào trực tiếp nhận. 
Tay run run cầm cuốn sổ điện đồng chí cơ yếu vừa chìa ra, tôi đọc bức điện trên trang giấy mở sẵn. Chỉ có một dòng: 
“Thủy hy sinh ở Quảng Bình trên đường đi công tác. Hai Nguyên."
"Không! Không đúng! Chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Mình vừa mới nhận thư Thủy cách hai ngày..." Tôi đọc lại bức điện lần nữa, rồi lần nữa... Khoảng không gian trước mắt tối sầm lại. Xung quanh mọi người xôn xao. Có ai đó nói: "Thôi cứ để cậu ấy được một mình..." Tôi chết lặng xuôi người ngồi xuống gốc cây. Gió rung những cánh hoa phượng rụng tơi tả, đỏ lòm như những giọt máu... 
Nếu không kể đợt máy bay B52 oanh kích Hà Nội và Hải Phòng, thì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần  thứ hai của giặc Mỹ không rầm rộ như lần trước, nhưng ác hiểm hơn. 
Vào thời điểm đó, Thủy theo một đoàn cán bộ không quân đi công tác phía Nam để khảo sát những địa điểm có thể mở sân bay dã chiến dành cho máy bay vận tải hạng nhẹ và trực thăng. Chiến tranh đang đến hồi quyết định. Ta dự định mở "đường mòn Hồ Chí Minh trên không” để khi cần thiết. Có thể chi viện nhanh cho các chiến trường. Đoàn vào tới miền tây Quảng Bình thì bị máy bay địch chặn đánh. Một quả tên lừa nổ gần hất chiếc Uoát xuống vực. Thủy và bốn người cùng đi trên xe đều hi sinh...

Sau giải phóng năm 1975, tôi và anh Hai Nguyên ra Quảng Bình để đưa Thủy về quê. Thi thể cô và những người cùng hy sinh được chôn trên một quả đồi nằm lọt thỏm giữa vùng núi non lô xô. Những ngọn núi đá vôi đứng dầm chân giữa cánh đồng hay ven sông, đẹp như vịnh Hạ Long trên. 



Năm ngôi mộ nằm bên nhau theo đội hình hàng ngang của những người lính. Trên mấy tấm bia mộ làm từ gỗ thùng đạn, những dòng chữ viết bằng sơn đỏ lâu ngày sậm màu trông như những giọt máu khô. 


Kỷ niệm ùa về nhức nhối. Như nhìn thấy trong mờ mờ sương khói một cô gái xa lạ đứng cặp tóc bên chiếc trực thăng đỗ giữa tràng cát chói chang nắng... Rồi vóc dáng mềm mại nghiêng bên bờ suối; mái tóc dày mượt mà xõa che nụ cười láu lỉnh; đôi mắt đen tròn xoe khi nghe chuyện cổ tích; gương mặt tự tin và ánh mắt quyết đoán lúc ngồi trên ghế lái; những giọt nước mắt nóng ấm bên vai tôi và nụ hôn ngọt ngào trong cơn biển động... Văng vẳng từ xa xôi tiếng cô cười khúc khích và giọng cô hớn hở: "...Em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển..." Giờ đây tất cả đã trở thành hư vô, chỉ còn lại những hạt mùn đất nâu đen.
Người con gái suốt đời ham bay và từng mơ một lần được tắm suơl, giờ đây cô đã bay xa, rất xa... 
Các đồng chí ở địa phương muốn đưa hài cất Thủy vào nghĩa trang liệt sĩ, nhưng ông Thành xin được đem cô về nằm bên má và người anh trai nơi cái xóm nhỏ ven sông Thu Bồn mà hôm từ trên rừng về, cô đã bay thêm "chút xíu” cho tôi được nhìn thấy. 
Lúc sắp hạ huyệt, ông Thành đưa cho tôi một chiếc hộp nhỏ kiểu hộp các cô gái đựng kim chỉ, nghẹn ngào nói: “Hôm ra ngoài đó, em nó gửi vật này nhờ bác giữ gìn. Giờ bác trao lại cho con..." 
Tôi mở nắp. Trong hộp có trang sổ tay mà tôi đưa cho Thủy lúc trước và một mớ tóc dài cháy nắng hoe vàng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra đuôi tóc của mình hồi ở trên rừng. Hôm cắt tóc cho tôi, Thủy đã lén lấy đem về... Nhưng... nhưng tại sao tôi lại trao cho cô bài thơ "Núi đôi"? Sao anh Hai Nguyên lại xé đúng trang thơ ấy để làm mật hiệu mà không phải trang khác? Có phai đó là điềm báo trước sự chia ly đau đớn sau này? “Em không ngờ thơ viết về chiến tranh mà lãng mạn và xúc động đến vậy...". Ai ngờ ngày ấy nói thế để rồi em thành người trong thơ... 
Tôi hé nắp chiếc tiểu sành đặt vào đó trang thơ và mớ tóc để một phần tâm hồn và thể xác tôi được theo cô. 


Mất hai người con, ông Thành dồn tình thương yêu cho hai đứa cháu, con của anh Hai Nguyên, và để hết tâm trí vào việc nghiên cứu sử. Nhưng đau đớn và mất mát đã làm ông kiệt sức. Ông qua đời năm 1978, để lại những trang viết dở dang. 


Từ khi ông Thành mất, tôi không còn được tin gi về ông Tùng nữa. Trước đó tôi được biết hai ông bà sống với gia đình người em ở Quibec, Canada. Dù vợ chồng người em hết mực thương yêu ông, dù mấy đứa cháu rất quý ông, nhưngđiều đó cũng không làm ông nguôi được nỗi nhớ quê nhà. Những đường phố sáng choang, trắng toát và lạnh lẽo trên đất nước xa lạ ấy khác xa cảnh cánh đồng sông nước đầy nắng đầy gió của vùng châu thổ sông Cửu Long. Thư nào viết cho ông Thành, ông cũng gửi lời thăm tôi. Ông nói không bao giờ ông quên được cánh rừng con suối nơi gặp tôi hồi trước. 

Sau này tôi có viết thư cho ông mấy lần, nhưng chẳng hiểu sao không có hồi âm. Dầu gì đi nữa, tôi vẫn tin rằng con người đó không đến nỗi nhẫn tâm "chuyển lửa về quê nhà", thứ lửa từng thiêu rụi căn nhà xưa cùng hàng cau thời thơ ấu của ông.


Một ngày tháng 3 năm 1998, nhân có việc vào Đà Nẵng, tôi ghé về thăm anh Hai Nguyên. Anh chị đều đã nghỉ hưu, hiện sống trong ngôi nhà nhỏ ở quê. Nhà nước cấp nhà cho anh ở thành phố, nhưng anh không nhận. "Buôn bán gì đâu mà ở phố Mình về quê sống cho nó tĩnh!", anh nói vậy. 

Gần hai năm nay không gặp nhau, giờ thấy tôi vào anh chị hết sức mừng rỡ. Anh kéo tôi ra vườn ngồi trên chiếc chõng tre kê cạnh gốc bưởi. Tháng ba hoa bưởi nở rộ, những cánh hoa trắng rụng lấm tấm trên nền đất pha cát sạch mịn. Cây mai già vừa qua vụ hoa giờ đang trổ lộc, lác đác vài cánh hoa còn sót lại vàng tươi trong đám lá xanh non. 
Chúng tôi say sưa trò chuyện trong hương bưởi thơm ngát. Ông già vừa bước qua tuổi "thất thập” này vẫn sôi nổi như xưa. Lưng hơi còng và tóc đã bạc trắng, nhưng bước đi của anh vẫn nhanh nhẹn, đôi mắt vẫn nheo nheo hóm hỉnh như ngày nào... 
Sớm mai nắng lên, anh Hai Nguyên rủ tôi xương sông. Con sông đang mùa cạn, bờ cát phía bên này nổi lên đến gần giữa dòng. Chúng tôi xách dép đi chân trần giẫm trên ìớp cát bồi mịn màng mát lạnh ra tới mép nước rồi thơ thẩn ngược lên. Ven bờ sông có mấy người dân đang cuốc đất bãi bồi để tranh thủ trồng vụ khoai trước mùa lũ. Thấy chúng tôi ngang qua, họ chống cuốc đứng nhìn theo như cố đoán xem hai người đàn ông, một đã già và một cũng không còn trẻ, đang đi tìm gì trên con sông này. 
Anh Hai Nguyên nói, giọng thủ thỉ: 
- Lúc mình còn nhỏ, bên bờ sông này có những guồng nước. Cái bánh xe khổng lồ làm bằng tre quay kẽo kẹt suốt ngày đêm, róc rách đổ nước lên đồng. Bao năm xa quê mình cứ nhớ mãi những âm thanh ấy. Vẫn biết bây giờ dùng máy bơm chạy điện tiện lợi hơn nhiều, mà sao cứ thấy nhớ thấy tiếc thế nào ấy, cậu ạ! Kể cho mấy đứa cháu nghe, chúng cười bảo: người già như ông thường hoài niệm... 
… Quả có thế thậ!? - Tôi nghĩ - Dường như khi về già, những kỷ niệm trở nên da diết hơn đối với những ai từng có một thời đáng nhớ. Đến bây giờ mỗi khi nghe lại bài hát "Bước chân trên dãy Trường Sơn”, người tôi vẫn rợn lên cảm giác gai gai da thịt: "...Núi vút thành vách đứng, nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình... Máu thắm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi tình quê tha thiết…” Những câu hát như truyền vào người một nguồn năng lượng làm phát ra làn sóng điện kỳ lạ đưa tâm trí tôi đến với cánh rừng con suối năm xưa, với những đêm khuya bên đống lửa giữa rừng, những tháng ngày gian khó đầy ắp kỷ niệm đã in vào máu thịt... 
Bên cạnh, anh Hai Nguyên vẫn kể về mấy đứa cháu: 
- …Hai thằng cháu nội, một xong năm nay vào đại học, một lên lớp chín. Cả hai đứa đều học giỏi. Chúng nói tiếng Anh nhanh như gió, gõ vi tính như múa, nhớ mặt nhớ tên hầu hết các danh thủ bóng đá quốc tế, ham thích những khúc quân hành của hai cuộc kháng chiến lẫn những bản nhạc "tóp ten" của nước ngoài. Thế hệ chúng bây giờ sướng thật. 
Tôi cười: 
- Chẳng ai mong có lại một cuộc chiến tranh như vừa qua cho con cháu "được dịp" chứng tỏ bầu nhiệt huyết của mình. Những người đi trước hy sinh xương máu là để cho đời sau sung sướng hơn... 
Anh nheo mắt nhìn tôi: 
- Cậu lại triết lý rồi! Đúng là như vậy! Nhưng cậu có biết hai đứa cháu mình chúng hỏi gì không? 
- Sao kia ạ? 
- Chúng thắc mắc: "Sau năm năm tư, ta "đối thoái" với Mỹ có phải hay hơn không? Khỏi có một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài cả mấy chục năm..." Cậu thấy đấy! Chúng nó giờ tiếp thu cái mới rất nhanh, nhưng hiểu biết lịch sử chẳng ra sao cả. Cũng may chúng dám hỏi! Còn bao nhiêu đứa không hỏi, cứ ấm ức trong đầu, rồi sau sẽ ra sao? Chiến tranh trôi qua chưa lâu... hăm ba năm, đúng không? Vậy mà... Giờ ta hay dùng cụm từ "khép lại quá khứ”... Dĩ nhiên không sai, nhưng chỉ đúng khi sử dụng trong một lĩnh vực nào đó, nói về một vấn đề cụ thể nào đó... Phải hiểu cho đúng nghĩa, đừng nghĩ như thế là đóng lại tất cả, quên đi tất cả. "Xóa bỏ hận thù trong quá khứ”. Không bao giờ đồng nghĩa với "Xóa bỏ quá khứ”. Không ai chỉ ôm quá khứ mà sống được và chiến tranh thì đâu có hay ho gì mà phải lưu luyến nó, nhưng phải nghĩ phải nhớ tới chiến tranh để bằng mọi cách không cho nó tái diễn, để bảo vệ cho bằng được những gì mà bao thế hệ đã hy sinh xương máu bảo vệ. Mình hơi "đại ngôn" phải không nhưng thực chất là thế đấy...
Lắng nghe anh nói, tôi cúi nhìn những dấu chân mình in trên lớp cát rịn nước và tự hỏi: trong triệu hạt phù sa kia, có hạt nào là một phần xương thịt của anh Sơn? Không chắc? Nếu có, lúc này nó cũng đã ra tới biển hay nằm sâu dưới những lớp phù sa đổ về mỗi năm... Nhìn lên phía nguồn chỉ thấy điệp trùng núi xanh, mịt mờ mây tràng. Góc rừng nơi ngày nào các anh ngã xuống giờ khuất sau lớp lớp núi xa.


Nhưng từ trên ấy dòng nước ngày ngày vẫn chảy về đây. Con sông từng chứng kiến mọi chuyện xây ra từ bao đời nay. Nếu nói được sông sẽ kể rằng, trong những năm tháng ấy có những người đã sống như thế, đã chết như thế. 


Huế - tháng 3 năm 1999.
------------------------------------------

Hết


< Trước
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối