st trên net
03/08/2023
Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC KHẮC TRÊN "CỬU ĐỈNH" Ở HUẾ
29/07/2022
10 khẩu súng ngắn phổ biến nhất thế giới
Popmech tổng hợp
Súng
ngắn trong quân đội là vũ khí cận chiến sử dụng trong trường hợp cần thiết
nhất, đồng thời cũng là vũ khí cá nhân khá “rẻ tiền” để tự vệ khi gặp nguy
hiểm.
Súng
ngắn hay súng lục là một loại súng được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Kích
thước nhỏ gọn cùng với trọng lượng nhẹ, độ giật thấp, tính cơ động là những đặc
điểm nổi trội nhất của loại súng này.
Được
biết, Mỹ là quốc gia có tỷ lệ người dân sở hữu súng cao nhất trên thế giới. Năm
2016, các hãng súng Mỹ sản xuất gần 11,5 triệu khẩu súng. Số súng này chỉ được
bán cho dân thường và các cơ quan chức năng chứ không tính đến vũ khí của quân
đội.
Theo
các báo cáo, súng lục là loại được sản xuất nhiều nhất tại Mỹ trong năm 2017
với hơn 4,7 triệu khẩu được tung ra thị trường. Năm 2017, dòng súng lục sử dụng
đạn 9 mm là loại súng phổ biến nhất tại quốc gia này.
Khoảng
72% người sở hữu súng ở Mỹ có súng ngắn, bao gồm cả dòng súng lục ổ xoay. Tuy
nhiên, loại súng lục ổ xoay này không được các nhà sản xuất Mỹ chế tạo nhiều,
chỉ chiếm khoảng 18% trong số súng ngắn được làm ra trong năm 2016. Tỷ lệ người
dân Mỹ sử dụng nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Theo một cuộc khảo sát năm
2017, cứ 100 người Mỹ thì có 120,5 khẩu súng.
Dưới
đây là 10 khẩu súng ngắn phổ biến nhất thế giới do trang Popmech tổng hợp:
Glock
17 là một khẩu súng lục được sản xuất bởi công ty Glock GmbH ở Deutsch-Wagram,
Áo, năm 1982. Khẩu súng đặc trưng bởi được chế tạo bằng nhựa, các chuyên gia lo
ngại rằng nó sẽ “vượt qua” được máy dò kim loại ở sân bay. Tuy nhiên, đây là
một trong những mẫu súng ngắn dễ nhận biết nhất trên thế giới, được các cơ quan
thực thi pháp luật và công dân nhiều nước sử dụng để làm vũ khí bảo vệ cá nhân.
Ngày nay, Glock 17 đã chiếm tới 65% thị phần súng lục cho lực lượng thực thi
pháp luật Mỹ cũng như lực lượng vũ trang khác trên khắp thế giới. Glock 17 dùng
cỡ đạn 9 x 19 mm, hộp tiếp đạn cơ số 17 viên, tầm bắn hiệu quả khoảng 50 m, sơ
tốc đầu nòng 360 m/s.
Walther
P99 được phát triển ở Đức cho cảnh sát và quân đội từ năm 1993 nhưng đến năm
1996 mới thành công. Đây là một khẩu súng lục bán tự động, nhỏ gọn nhưng mạnh
mẽ với khung được làm bằng vật liệu polymer (nặng 630 gram, chiều dài chỉ 180
mm, cao 135 mm). Đến nay P99 đang có mặt trong lực lượng thực thi pháp luật
cũng như khách hàng dân sự tại 10 quốc gia trên thế giới. P99 sử dụng loại đạn
9x19mm, với hộp tiếp đạn 16 viên, sơ tốc đầu nòng 300 - 460 m/s, tầm bắn hiệu
quả khoảng 50 m.
QSZ-92
là súng lục bán tự động tiêu chuẩn của Trung Quốc được thiết kế để trang bị cho
lực lượng quân sự và dân sự. QSZ-92 sử dụng đạn cỡ 5,8 x 21 mm. Kích thước đạn
nhỏ hơn mẫu 9x19 mm Parabellum giúp hộp tiếp đạn của QSZ-92 chứa được 15-20
viên. Đặc biệt, QSZ-92 là tốc độ đạn được bẳn ra khỏi nòng súng lên đến hơn 300
m/s và tầm bắn vào khoảng hơn 50m. Súng có vỏ làm bằng vật liệu nhựa tổng hợp,
nòng thép, khung thép và rãnh thép gắn cụm máy súng.
M1911 là súng ngắn bán tự động huyền thoại, được phát triển vào năm 1908 và được phục vụ trong quân đội Mỹ từ năm 1911 đến năm 1985, hiện nay vẫn là một loại vũ khí quân dụng của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên toàn thế giới. M1911 do nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng người Mỹ John Browning thiết kế và được hãng Colt sản xuất. Súng sử dụng cỡ đạn 11,43x23 mm, có độ chính xác cao so với những khẩu súng ngắn cùng loại, tầm bắn hiệu quả là 62m. Ngoài ra, súng rất dễ lau chùi và sử dụng có thể bắn được trong nhiều môi trường khác nhau.
Heckler
& Koch Mark 23 là mẫu súng lục xuất xứ từ Đức, phục vụ cho các lực lượng
đặc biệt của Mỹ, nhỏ gọn và mạnh mẽ. Mark 23 là súng ngắn bán tự động được
trang bị cả bộ giảm thanh và một thiết bị ngắm bắn laser. Chiều dài 245,11 mm
(không lắp giảm thanh); 421mm (có lắp giảm thanh). Súng có tầm bắn cũng khá
hiệu quả lên tới 50m với .45 ACP, băng đạn 12 viên. Trọng lượng 1100 gam; sơ
tốc đạn 260 m/s; nòng dài 149,1 mm.
HS
2000 là khẩu súng lục bán tự động có xuất xứ từ Croatia được sử dụng ở 10 quốc
gia trên thế giới, bao gồm cả Iraq và Mỹ. Súng được thiết kế với báng súng được
làm từ vật liệu polymer và hợp kim, hiện nay đang được công ty HS Produkt D.o.o
chịu trách nhiệm sản xuất. HS 2000 sử dụng loại đạn Parabellum 9x19mm đem lại
độ giật thấp. Tại thị trường Hoa Kỳ HS 2000 được phân bổi bởi Springfield
Armory, Inc., dưới nhãn hiệu XD.
SIG
Sauer P250 là khẩu súng lục bán tự động có nguồn gốc từ hai công ty của Mỹ-Đức.
Súng được thiết kế theo dạng module để dễ dàng sản xuất cũng như bảo trì, cho
phép người sử dụng tùy chỉnh vũ khí cho bất kỳ phương thức hoạt động nào. P250
sử dụng các loại cỡ đạn .357 SIG, .40 S&W, .45 ACP, 9x19mm Parabellum và
.380 ACP, có thể bắn liên tục 17 viên ở khoảng cách 50 m. Đến nay P250 vẫn được
tin dùng trong các lực lượng vũ trang và mục đích vũ khí tự vệ dân sự.
10/06/2022
15/04/2022
THANH KIẾM NORIMITSU ODACHI
Norimitsu Odachi là tên một thanh kiếm lớn
lạ thường ở Nhật Bản. Thanh kiếm lớn đến mức nhiều người cho rằng nó từng được
sử dụng bởi người khổng lồ. Ngoài những thông tin cơ bản như: được rèn từ thế kỷ
15, dài 3,77 m và nặng 14,5 kg, thanh gươm ấn tượng này vẫn luôn được bao phủ
trong nhiều bí ẩn.
Lịch
sử của kiếm Odachi
Nhật Bản khá nổi tiếng với kỹ thuật rèn
kiếm. Những thợ rèn người Nhật từ xa xưa đã chế tạo nhiều loại kiếm khác nhau,
nhưng có lẽ hình ảnh quen thuộc nhất là những cây katana gắn liền với các
samurai tên tuổi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loại kiếm khác được tạo ra trong các
thế kỷ trước ít được biết đến, một trong số đó là Odachi.
Odachi nghĩa là “thanh kiếm lớn”, đôi
khi được gọi là nodachi, là một loại kiếm trận truyền thống của Nhật Bản, có lưỡi
kiếm hơi cong và thường dài khoảng 90-100 cm. Một số thanh thậm chí có lưỡi dài
đến 2m.
Odachi là một trong những vũ khí được lựa
chọn trong các cuộc chiến thời Nam Bắc Triều Nhật Bản, kéo dài trong phần lớn
thế kỷ 14. Trong thời kỳ này, Odachi dài khoảng hơn 1m. Vũ khí này đã bị thất sủng
trong 1 thời gian do tính thực chiến không cao. Tuy nhiên, việc sử dụng nó chỉ
chấm dứt vào năm 1615, sau “Cuộc vậy hãm Osaka”, khi Mạc Phủ Tokugawa tiêu diệt
gia tộc Toyotomi.
Những người sử dụng kiếm Odachi thường
là lính kỵ binh hoặc bộ binh. Lính bộ binh khi sử dụng Odachi thường đeo nó sau
lưng thay vì bên eo do chiều dài đặc biệt của thanh kiếm. Tuy nhiên điều này khiến
họ không thể nhanh chóng tuốt gươm ra khỏi vỏ khi giao chiến.
Ngoài ra, người sử dụng cũng có thể mang
thanh Odachi trên tay. Trong giai đoạn Muromachi kéo dài từ thế kỷ 14-16, thông
thường chiến binh sử dụng Odachi sẽ có một người tùy tùng hỗ trợ anh ta lấy vũ
khí.
Odachi được biết đến là một loại vũ khí
khá cồng kềnh, nó không được sử dụng phổ biến trong chiến đấu. Thay vào đó, nó
có thể đã được sử dụng như một loại cờ hiệu trong quân đội, tương tự vai trò của
một lá cờ trong trận đánh.
Hơn nữa, nhiều bằng chứng chỉ ra rằng
Odachi giữ vai trò quan trong trong các nghi lễ, phổ biến vào thời Edo.
Ngoài ra, Odachis đôi khi được đặt trong
các đền thờ giáo phái Shinto như một lễ vật dâng lên các vị thần. Odachi cũng
là một minh chứng cho trình độ của người rèn kiếm, vì lưỡi kiếm không dễ chế tạo.
Một bức tranh mô tả Hiyoshimaru gặp
Hachisuka Koroku trên cây cầu Yahabi. Trên lưng ông đang đeo là 1 cây Odachi. (Ảnh:
Ancient Origins)
Chủ nhân của Norimitsu Odachi là những
chiến binh khổng lồ?
Liên quan đến thanh Norimitsu Odachi,
nhiều người ủng hộ quan điểm nó đã từng thực sự được sử dụng trong chiến đấu,
vì vậy người sử dụng nó hẳn phải là một người khổng lồ.
Bên cạnh đó, cũng giả thuyết thứ 2 đơn
giản hơn cho thanh gươm đặc biệt này là nó được sử dụng cho các mục đích phi
chiến đấu.
20/07/2021
01/04/2021
27/10/2020
23/09/2020
30/12/2019
Dao Ka-Bar
Ham mê về cơ khí và dao kiếm nên mình rất quan tâm đến các loại
vũ khí lạnh cổ kim của TG. Không có
tiền để sở hữu nên phải lên internet sưu tầm. Những kiến thức về chế tạo vũ khí
lạnh Đông Tây vô cùng phong phú và quý giá, có điều bị mai một dần bời sử phát
triển của khoa học và công nghệ - thật tiếc.
Được dịch từ tiếng Anh-Ka-Bar là tên gọi phổ
biến đương đại của con dao chiến đấu được Thủy quân Hoa Kỳ sử dụng lần đầu tiên
vào tháng 11 năm 1942 với tư cách là con dao chiến đấu 1219C2, và sau đó được
Hải quân Hoa Kỳ sử dụng làm con dao tiện ích của Hải quân Hoa Kỳ, Mark 2.
Đây là những con dao chuẩn thuở ban đầu của Kar – Bar
Cái tên Ka-Bar xuất phát từ năm 1923 khi
hãng cơ khí Union Cutlery Co. (được thành lập từ tận năm….1800) tuyên
bố một câu chuyện thú vị: một người thợ săn đã dùng dao của họ để giết 1 con
gấu bị thương sau phát đạn đầu tiên, nhưng chưa gục ngã và tiếp tục tấn công
khi súng của người thợ săn bị kẹt đạn. Từ “Ka-Bar” là nói chệch đi từ “kill
bear” (giết gấu). Không ai có thể xác định được câu chuyện này có thật hay
không, nhưng thương hiệu Ka-Bar bắt đầu nổi như cồn từ thời điểm đó.
08/07/2017
05/03/2017
21/09/2016
Sơ lược về rèn
Rèn là một phương pháp gia công được dùng từ lâu. Rèn là nung nóng phôi thép tới nhiệt độ trên 900oC để cho kim loại chuyển sang trạng thái dẻo rồi đặt lên đe và dùng búa đập để có được hình dáng cần thiết của sản phẩm.
20/05/2016
Thêm vài nét về dao Mèo (H'Mong)
Dao mèo được làm
từ nhiều loại thép khác nhau trước đây do sự khan hiếm của thép đồng bào có thể
tận dụng thép từ nhiều nguồn như máy móc công cụ hỏng thậm chí có nơi rèn dao
mèo từ thép mảnh bom, lưỡi máy công cụ của Trung Quốc hoặc lưỡi cưa xăng..v…v.
Giờ việc giao thương hàng hoá cũng dễ dàng hơn nhiều nên việc kiếm thép tốt để
làm dao không còn khó khăn như trước và loại thép được dùng làm dao mèo nhiều
nhất chính là thép nhíp xe của nước Nga anh em.
Xã hội phát triển
giờ đây đạo đức người ta còn làm giả được thì việc xuất hiện những con dao mèo
kém chất lượng là điều dễ hiểu. Sau đây Tôi xin chia sẻ một vài cách nhận biết
dao mèo rèn từ thép nhíp xe tốt với các loại thép khác. Những kiến thức những
kinh nghiệm này là do những người thợ rèn thủ công đúc rút ra dựa vào quá trình
làm việc nhiều năm với các loại thép khác nhau.
Để phâm biệt thật
giả Tôi xin điểm qua quá trình ra đời của 1 lưỡi dao mèo: Thép nhíp xe của Nga
(trên nhíp xe của Nga có hai đường rìa mỏng hơn – nhíp khác không có đặc điểm
này) mua về được thợ nung nóng dùng đột chặt ra và cân trọng lượng thép như ý
muốn rồi mới đập rèn..v…v.
Nghe thì đơn giản
nhưng thực sự đây là những công việc tốn rất nhiều công sức vì từ mảnh nhíp dày
12mm người thợ phải đập ra con dao có hình dạng như mong muốn với độ dày sống
dao còn cỡ 6-7mm có nơi công nghệ phát triển thợ có thể dùng búa máy để đập
nhưng chỗ Tôi sinh sống người dân tộc không đủ điều kiện sắm máy móc nên vẫn đập
búa tay cả buổi sáng chỉ đập được 1-2 con dao buổi chiều quay ra mài, dũa, tôi,
ram vậy là cả ngày làm việc mệt nhọc cũng chỉ tạo ra được 2 lưỡi dao.
Cách làm này chậm
nhưng chắc chắn vì khi làm thủ công mọi thứ được kiểm soát kĩ hơn – tốt hơn. Một
ngày thợ đập giỏi được 2 lưỡi dao như ý (chưa làm cán làm vỏ) nên không có chuyện
dao tốt mà bán giá 200-300k như những con dao mèo ở các khu du lịch.
Gần đây do nhu cầu
phát triển rất nhiều dao mèo ra đời từ rất nhiều các loại thép khác nhau trong
đó cũng có cả những loại nhíp được cán mỏng bằng máy cắt thành phôi dao rồi về
thợ chỉ đập qua lại rồi tôi và mài dũa.
Bên cạnh đó còn có
những loại dao mèo được làm từ thép công nghiệp với phôi dao đã dập máy cắt sẵn
cách nhận biết những dao mèo này là trên thân dao không có vết búa do quá trình
đập – rèn lớp mạ màu đen trên thân dao không phải do quá trình rèn – tôi mà là
lớp sơn phủ bằng loại hoá chất.
Dao mèo loại này
rất khó mài sắc khi mài được dùng cũng nhanh cùn và dao này nhẹ hơn dao mèo rèn
từ thép nhíp.
Dao mèo làm từ
thép nhíp sau khi mài bằng đá nước thường bề mặt có lớp phủ màu vàng như váng đồng
sau khi chặt gỗ hoặc sử dụng lớp phủ này biến mất thay vào đó là màu trắng sáng
của thép.
Thép nhíp mài bằng
đá bùn, đá núi thường sắc bén và giữ cạnh sắc lâu (sử dụng lâu mà không phải
mài lại) người dân tộc vẫn thử độ sắc của dao sau khi mài bằng cách cứa vào
móng tay nếu thấy lưỡi dao có độ mút trên móng tay thì đó là dao sắc – dao tốt
còn nếu thấy dao không mút mà cảm giác trượt khỏi móng tay thì đó là lưỡi dao
chưa tốt.
Một con dao mèo
tốt dùng tới cả chục năm vẫn chưa hỏng.