Hiển thị các bài đăng có nhãn Cơ khí. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cơ khí. Hiển thị tất cả bài đăng

06/10/2024

Chiếc hòm đựng dụng cụ của Henry O. Studley



Hẳn các bạn sẽ vô cùng ngỡ ngàng, rồi khâm phục khi nhìn hình ảnh ở trên. Ngay hiện đại, để có thể chứa đựng, rồi mua sắm hoặc gì đó để có được các công cụ như trong chiếc hòm trên cũng cần phải có một không gian vô cùng lớn với số tiền to và thời gian dài.

Chiếc hòm đựng dụng cụ của Henry O. Studley là một tuyệt phẩm về nghệ thuật thủ công và kỹ thuật, đã thu hút sự chú ý của những người đam mê dụng cụ và thợ mộc suốt nhiều thập kỷ qua. Đây được xem là một trong những hòm dụng cụ phức tạp và đẹp đẽ nhất từng được tạo ra. Càng ngưỡng mộ là, chiếc hòm và những cụng cụ bên trong do chính ông thiết kế và chế tạo.

Henry O. Studley (1838–1925) là một người làm đàn organ và đàn piano, thợ mộc , thợ nề và thợ nề tự do làm việc cho Smith Organ Co. và sau đó là Poole Piano Company của Quincy, Massachusetts . Sinh ra tại Lowell, Massachusetts - Wikipedia

Chiếc hòm đựng dụng cụ nổi tiếng có tên là Studley Tool Chest, một chiếc rương đựng dụng cụ treo tường chứa 218 dụng cụ trong một không gian chiếm khoảng 40 x 20 inch (102 × 51 cm) diện tích tường khi đóng lại. Nó được làm chủ yếu từ gỗ dái ngựa, gỗ gụ , gỗ hồng sắc , óc chó , gỗ mun , ngà voi và xà cừ, những vật liệu có thể được lấy từ vật liệu phế thải của Công ty Piano Poole.

Sự khéo léo tinh xảo được thể hiện qua cách từng dụng cụ vừa khít với không gian của nó, thường có tiếng kêu tách khi dụng cụ khớp vào khoang vừa khít của nó. Các phần của hộp xoay ra ngoài để có thể tiếp cận lớp dụng cụ thứ hai hoặc thứ ba. Mặt ngoài của chiếc hòm được trang trí bằng các hoa văn chạm khắc tỉ mỉ, thể hiện rõ sự tinh tế và tài hoa của Studley.

Hộp đựng dụng cụ có biểu tượng của Hội Tam Điểm , bao gồm biểu tượng Hình vuông và La bàn và biểu tượng Cổng vòm Hoàng gia.

Điều làm cho chiếc hòm của Studley trở nên kỳ diệu chính là phần bên trong. Khi mở ra, chiếc hòm hiện ra một bộ sưu tập được sắp xếp tỉ mỉ, tất cả đều được bố trí gọn gàng và cố định trong các ngăn và giá đỡ được làm riêng cho từng dụng cụ và chia làm nhiều lớp. Bộ sưu tập bao gồm nhiều loại dụng cụ cầm tay, dụng cụ đo lường và thậm chí cả nhạc cụ như đàn vĩ cầm và sáo.

Bên trong chiếc hòm là một bản hòa tấu của sự chính xác và hiệu quả. Mỗi dụng cụ đều có vị trí riêng của nó, và mỗi giá đỡ dụng cụ đều được thiết kế cẩn thận để tối ưu hóa không gian và dễ dàng tiếp cận. Studley khéo léo tích hợp các bản lề, trục xoay và cơ chế trượt để các dụng cụ có thể dễ dàng lấy ra và trưng bày khi chiếc hòm mở ra.

Chiếc hòm cũng được trang bị một bàn làm việc gấp, đi kèm với một ê-tô và các ngăn chứa dụng cụ. Bàn làm việc di động này cho phép Studley làm việc ở bất kỳ đâu, biến nó thành một bổ sung tiện dụng và thực tế cho chiếc hòm vốn đã ấn tượng.

Kỹ thuật thủ công và sự chú ý đến từng chi tiết trong chiếc hòm của Studley thực sự là điều đáng kinh ngạc. Nó là tấm gương cho tay nghề và sự tận tâm của ông với tư cách là một nghệ nhân và nghệ sĩ. Chiếc hòm đã trở thành biểu tượng cho sự xuất sắc trong nghề mộc, rèn, cơ khí... và là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ thợ thủ công.

Ngày nay, chiếc hòm đựng dụng cụ của Studley được lưu giữ trong bộ sưu tập của Viện Bảo tàng Lịch sử Hoa Kỳ thuộc Smithsonian. Nó thường được trưng bày như một bằng chứng cho sự sáng tạo và tài năng của những nghệ nhân từ quá khứ, tiếp tục truyền cảm hứng và gây kinh ngạc cho những ai có cơ hội chiêm ngưỡng nó. 

Các bạn quan tâm sẽ được thấy đầy đủ hơn tại đường dẫn dưới đây:

https://justacarguy.blogspot.com/2020/06/update-on-studley-tool-chest-i-found.html


03/08/2023

Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC KHẮC TRÊN "CỬU ĐỈNH" Ở HUẾ

 st trên net

 

 Mới đây, sau hai năm nghiên cứu và xây dựng hồ sơ, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đã hoàn thành hồ sơ di sản tư liệu cho Cửu đỉnh, trình Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xem xét trước khi đệ trình UNESCO công nhận Cửu đỉnh là Di sản tư liệu thế giới.


Bộ 9 chiếc đỉnh đồng lớn được đúc tại kinh thành Huế dưới thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn được bắt đầu vào tháng 10 năm Ất Mùi 1835, kéo dài tới đầu năm 1837 mới hoàn thành. Ngày 4/3/1837, triều đình nhà Nguyễn tổ chức lễ khánh thành và an vị cho Cửu đỉnh dưới sự chủ lễ của vua Minh Mạng.

Cửu đỉnh được coi như biểu trưng và là pháp khí của triều đình nhà Nguyễn đương thời. Sau khi đúc xong, 9 chiếc đỉnh này được an vị tại sân chầu trước Thế Tổ Miếu, phía sau Hiển Lâm Các trong Hoàng Thành (Đại Nội) - kinh thành Huế. Các đỉnh được đặt tên lần lượt là: Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Chương đỉnh, Anh đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh.

9 đỉnh được xếp một hàng ngang, đối diện 9 gian thờ trong Thế Tổ Miếu, tương ứng với 9 vua được thờ trong miếu. Riêng chiếc đỉnh lớn nhất (Cao đỉnh) là chiếc đỉnh ứng với vua Gia Long - vua sáng lập triều Nguyễn - được đặt chính giữa và nhích về phía trước so với 8 chiếc còn lại.


Cửu đỉnh được đúc theo phương thức thủ công truyền thống. Khuôn đúc bằng đất sét cũng được tạo tác thủ công vô cùng tỉ mỉ. Sau khi hoàn thành, tất cả khuôn đúc được phá bỏ để tránh sự sao chép. Tạo hình các đỉnh, cũng như các hình khắc, hoa văn, họa tiết trên Cửu đỉnh vô cùng tinh xảo, và là một sự đa dạng trong thống nhất, chưa từng có ở các công trình, tác phẩm mỹ thuật đã tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy Cửu đỉnh là độc bản, không lặp lại ở bất kỳ nơi đâu. 9 chiếc đỉnh được coi là bộ bách khoa thư của Việt Nam được các học sĩ thời phong kiến soạn ra một cách tổng quát, phong phú, tài tình.

Trên mỗi đỉnh có 18 (là bội của 9) hình khắc theo cách chạm nổi, ngoại trừ một hình khắc tên của đỉnh thì 17 hình còn lại là những hình ảnh mô tả cảnh vật, sản vật của đất nước. Tổng cộng có 153 hình ảnh đậm tính dân tộc, tính dân gian cùng tên gọi được khắc trên 9 đỉnh. Các hình này được phân thành các nhóm, mỗi nhóm có 9 hình khắc trên 9 đỉnh như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền...


Cửu đỉnh cũng được coi là bộ sách địa chí của Việt Nam, với những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu được giới thiệu đủ trên khắp 3 miền, thể hiện một tư tưởng hoà bình, thống nhất đất nước. Đặc biệt, triều đình nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền lãnh hải quốc gia Việt Nam trên Cửu đỉnh ở 3 chiếc đỉnh lớn nhất. Đó là hình ảnh của Đông Hải (Biển Đông - khắc trên Cao đỉnh), và cả các vùng biển Nam Hải (biển phía nam đất nước, khu vực các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau - khắc trên Nhân đỉnh), Tây Hải (biển phía tây đất nước, khu vực các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, giáp vịnh Thái Lan - khắc trên Chương đỉnh).

Trên hình là Đông Hải (Cao đỉnh) là vùng biển phía đông đất nước.



Trên hình là Ngự Bình Sơn khắc trên Nhân đỉnh - núi Ngự Bình là ngọn núi phía trước Kinh thành Huế, được coi là "tiền án" của Kinh thành.


Hương Giang khắc trên Nhân đỉnh - sông Hương, dòng sông lớn ở Thừa Thiên Huế, chảy qua trước Kinh thành Huế và đổ ra biển ở cửa Thuận An.


Hồng Sơn khắc trên Anh đỉnh - núi Chim Hồng còn gọi là Hồng Lĩnh là dãy núi lớn ở Hà Tĩnh.


Bạch Đằng Giang khắc trên Nghị đỉnh - sông Bạch Đằng là con sông lớn ở đông bắc Tổ quốc, chảy qua các tỉnh thành Quảng Ninh, Hải Phòng. Sông Bạch Đằng ghi dấu lịch sử với những trận thuỷ chiến chống quân xâm lược.


Tản Viên Sơn khắc trên Thuần đỉnh - núi Tản Viên, ngọn núi thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Ba Vì - Hà Nội. Tản Viên là ngọn núi gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh trị thuỷ.


Hoành Sơn khắc trên Huyền đỉnh - núi Hoành Sơn hay Đèo Ngang, dãy núi ranh giới giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ; xưa kia là ranh giới Đại Việt - Chăm Pa. Trên núi có một trấn ải là Hoành Sơn Quan đến nay vẫn tồn tại.


Đà Nẵng Hải Khẩu khắc trên Dụ đỉnh - cửa biển Đà Nẵng (còn gọi là cửa Hàn, vịnh Hàn), nơi sông Cẩm Lệ chảy về vũng Hàn rồi đổ ra biển.


Đại Lĩnh khắc trên Tuyên đỉnh - núi Đại Lĩnh (Đại Lãnh), dãy núi lớn là ranh giới giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà.


Hậu Giang - Tiền Giang khắc trên Huyền đỉnh - sông Tiền và sông Hậu, hai con sông chảy qua và có ảnh hưởng lớn với nhiều tỉnh thành Nam Bộ.

29/07/2022

10 khẩu súng ngắn phổ biến nhất thế giới

 Popmech tổng hợp


Súng ngắn trong quân đội là vũ khí cận chiến sử dụng trong trường hợp cần thiết nhất, đồng thời cũng là vũ khí cá nhân khá “rẻ tiền” để tự vệ khi gặp nguy hiểm.

Súng ngắn hay súng lục là một loại súng được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Kích thước nhỏ gọn cùng với trọng lượng nhẹ, độ giật thấp, tính cơ động là những đặc điểm nổi trội nhất của loại súng này.

Được biết, Mỹ là quốc gia có tỷ lệ người dân sở hữu súng cao nhất trên thế giới. Năm 2016, các hãng súng Mỹ sản xuất gần 11,5 triệu khẩu súng. Số súng này chỉ được bán cho dân thường và các cơ quan chức năng chứ không tính đến vũ khí của quân đội.

Theo các báo cáo, súng lục là loại được sản xuất nhiều nhất tại Mỹ trong năm 2017 với hơn 4,7 triệu khẩu được tung ra thị trường. Năm 2017, dòng súng lục sử dụng đạn 9 mm là loại súng phổ biến nhất tại quốc gia này.

Khoảng 72% người sở hữu súng ở Mỹ có súng ngắn, bao gồm cả dòng súng lục ổ xoay. Tuy nhiên, loại súng lục ổ xoay này không được các nhà sản xuất Mỹ chế tạo nhiều, chỉ chiếm khoảng 18% trong số súng ngắn được làm ra trong năm 2016. Tỷ lệ người dân Mỹ sử dụng nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Theo một cuộc khảo sát năm 2017, cứ 100 người Mỹ thì có 120,5 khẩu súng.

Dưới đây là 10 khẩu súng ngắn phổ biến nhất thế giới do trang Popmech tổng hợp:

 


Glock 17 là một khẩu súng lục được sản xuất bởi công ty Glock GmbH ở Deutsch-Wagram, Áo, năm 1982. Khẩu súng đặc trưng bởi được chế tạo bằng nhựa, các chuyên gia lo ngại rằng nó sẽ “vượt qua” được máy dò kim loại ở sân bay. Tuy nhiên, đây là một trong những mẫu súng ngắn dễ nhận biết nhất trên thế giới, được các cơ quan thực thi pháp luật và công dân nhiều nước sử dụng để làm vũ khí bảo vệ cá nhân. Ngày nay, Glock 17 đã chiếm tới 65% thị phần súng lục cho lực lượng thực thi pháp luật Mỹ cũng như lực lượng vũ trang khác trên khắp thế giới. Glock 17 dùng cỡ đạn 9 x 19 mm, hộp tiếp đạn cơ số 17 viên, tầm bắn hiệu quả khoảng 50 m, sơ tốc đầu nòng 360 m/s.




Smith & Wesson .500 S & W Magnum là đứa con tinh thần của công ty vũ khí nổi tiếng của Mỹ Smith & Wesson, từ lâu đã trở thành biểu tượng thế giới của súng lục ổ quay với 5 buồng đạn. Smith & Wesson .500 S&W Magnum được coi là một trong những khẩu súng ngắn tốt nhất để săn bắn, nhưng nó cũng được sử dụng để tự vệ. Với cỡ đạn 500 S&W có vận tốc và động năng cực lớn. Năng lượng đầu nòng lên đến 3000+ foot - pound (4,1 kJ) và có sức công phá rất mạnh.



FN Herstal FNP-9 là một khẩu súng bán tự động có khung làm từ polymer và hợp kim gia cố, được sản xuất tại Columbia, Nam Carolina, bởi FNH USA. FN Herstal FNP-9 được tạo ra theo khái niệm vũ khí mô-đun với các kích cỡ lòng bàn tay khác nhau, đặc biệt cò súng được thiết kế khá mềm và rộng. FNP-9 với độ giật cũng không quá lớn, dễ sử dụng được trang bị rộng rãi trong lực lượng cảnh sát và quân đội, nhưng cũng phổ biến trên thị trường vũ khí dân sự. Súng được thiết kế có khả năng mang theo 16 viên đạn cỡ 9mm.


Beretta 92FS là vũ khí do công ty Beretta, Italy chế tạo từ năm 1972. Đây là loại súng ngắn bán tự động tiêu chuẩn được sử dụng bởi quân đội, cảnh sát và dân thường ở nhiều quốc gia trên thế giới. Khẩu Beretta 92FS có thể được nhìn thấy trong nhiều trò chơi điện tử và những bộ phim Hollywood. Súng có chiều dài 217 mm, nòng súng dài 125 mm, trọng lượng 950 gram, sử dụng loại đạn Parabellum cỡ 9x19mm với tầm bắn hiệu quả khoảng 50 m. Ưu điểm của Beretta 92 là vũ khí mạnh mẽ cho phép người sử dụng bắn liên tục với độ chính xác cao.


 

Walther P99 được phát triển ở Đức cho cảnh sát và quân đội từ năm 1993 nhưng đến năm 1996 mới thành công. Đây là một khẩu súng lục bán tự động, nhỏ gọn nhưng mạnh mẽ với khung được làm bằng vật liệu polymer (nặng 630 gram, chiều dài chỉ 180 mm, cao 135 mm). Đến nay P99 đang có mặt trong lực lượng thực thi pháp luật cũng như khách hàng dân sự tại 10 quốc gia trên thế giới. P99 sử dụng loại đạn 9x19mm, với hộp tiếp đạn 16 viên, sơ tốc đầu nòng 300 - 460 m/s, tầm bắn hiệu quả khoảng 50 m.



 

QSZ-92 là súng lục bán tự động tiêu chuẩn của Trung Quốc được thiết kế để trang bị cho lực lượng quân sự và dân sự. QSZ-92 sử dụng đạn cỡ 5,8 x 21 mm. Kích thước đạn nhỏ hơn mẫu 9x19 mm Parabellum giúp hộp tiếp đạn của QSZ-92 chứa được 15-20 viên. Đặc biệt, QSZ-92 là tốc độ đạn được bẳn ra khỏi nòng súng lên đến hơn 300 m/s và tầm bắn vào khoảng hơn 50m. Súng có vỏ làm bằng vật liệu nhựa tổng hợp, nòng thép, khung thép và rãnh thép gắn cụm máy súng.




M1911 là súng ngắn bán tự động huyền thoại, được phát triển vào năm 1908 và được phục vụ trong quân đội Mỹ từ năm 1911 đến năm 1985, hiện nay vẫn là một loại vũ khí quân dụng của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên toàn thế giới. M1911 do nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng người Mỹ John Browning thiết kế và được hãng Colt sản xuất. Súng sử dụng cỡ đạn  11,43x23 mm, có độ chính xác cao so với những khẩu súng ngắn cùng loại, tầm bắn hiệu quả là 62m. Ngoài ra, súng rất dễ lau chùi và sử dụng có thể bắn được trong nhiều môi trường khác nhau.




 

Heckler & Koch Mark 23 là mẫu súng lục xuất xứ từ Đức, phục vụ cho các lực lượng đặc biệt của Mỹ, nhỏ gọn và mạnh mẽ. Mark 23 là súng ngắn bán tự động được trang bị cả bộ giảm thanh và một thiết bị ngắm bắn laser. Chiều dài 245,11 mm (không lắp giảm thanh); 421mm (có lắp giảm thanh). Súng có tầm bắn cũng khá hiệu quả lên tới 50m với .45 ACP, băng đạn 12 viên. Trọng lượng 1100 gam; sơ tốc đạn 260 m/s; nòng dài 149,1 mm.


 


HS 2000 là khẩu súng lục bán tự động có xuất xứ từ Croatia được sử dụng ở 10 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Iraq và Mỹ. Súng được thiết kế với báng súng được làm từ vật liệu polymer và hợp kim, hiện nay đang được công ty HS Produkt D.o.o chịu trách nhiệm sản xuất. HS 2000 sử dụng loại đạn Parabellum 9x19mm đem lại độ giật thấp. Tại thị trường Hoa Kỳ HS 2000 được phân bổi bởi Springfield Armory, Inc., dưới nhãn hiệu XD.



 

SIG Sauer P250 là khẩu súng lục bán tự động có nguồn gốc từ hai công ty của Mỹ-Đức. Súng được thiết kế theo dạng module để dễ dàng sản xuất cũng như bảo trì, cho phép người sử dụng tùy chỉnh vũ khí cho bất kỳ phương thức hoạt động nào. P250 sử dụng các loại cỡ đạn .357 SIG, .40 S&W, .45 ACP, 9x19mm Parabellum và .380 ACP, có thể bắn liên tục 17 viên ở khoảng cách 50 m. Đến nay P250 vẫn được tin dùng trong các lực lượng vũ trang và mục đích vũ khí tự vệ dân sự.

 

15/04/2022

THANH KIẾM NORIMITSU ODACHI

 


 

Norimitsu Odachi là tên một thanh kiếm lớn lạ thường ở Nhật Bản. Thanh kiếm lớn đến mức nhiều người cho rằng nó từng được sử dụng bởi người khổng lồ. Ngoài những thông tin cơ bản như: được rèn từ thế kỷ 15, dài 3,77 m và nặng 14,5 kg, thanh gươm ấn tượng này vẫn luôn được bao phủ trong nhiều bí ẩn.

Lịch sử của kiếm Odachi

Nhật Bản khá nổi tiếng với kỹ thuật rèn kiếm. Những thợ rèn người Nhật từ xa xưa đã chế tạo nhiều loại kiếm khác nhau, nhưng có lẽ hình ảnh quen thuộc nhất là những cây katana gắn liền với các samurai tên tuổi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loại kiếm khác được tạo ra trong các thế kỷ trước ít được biết đến, một trong số đó là Odachi.



Odachi nghĩa là “thanh kiếm lớn”, đôi khi được gọi là nodachi, là một loại kiếm trận truyền thống của Nhật Bản, có lưỡi kiếm hơi cong và thường dài khoảng 90-100 cm. Một số thanh thậm chí có lưỡi dài đến 2m.



Odachi là một trong những vũ khí được lựa chọn trong các cuộc chiến thời Nam Bắc Triều Nhật Bản, kéo dài trong phần lớn thế kỷ 14. Trong thời kỳ này, Odachi dài khoảng hơn 1m. Vũ khí này đã bị thất sủng trong 1 thời gian do tính thực chiến không cao. Tuy nhiên, việc sử dụng nó chỉ chấm dứt vào năm 1615, sau “Cuộc vậy hãm Osaka”, khi Mạc Phủ Tokugawa tiêu diệt gia tộc Toyotomi.

Những người sử dụng kiếm Odachi thường là lính kỵ binh hoặc bộ binh. Lính bộ binh khi sử dụng Odachi thường đeo nó sau lưng thay vì bên eo do chiều dài đặc biệt của thanh kiếm. Tuy nhiên điều này khiến họ không thể nhanh chóng tuốt gươm ra khỏi vỏ khi giao chiến.



Ngoài ra, người sử dụng cũng có thể mang thanh Odachi trên tay. Trong giai đoạn Muromachi kéo dài từ thế kỷ 14-16, thông thường chiến binh sử dụng Odachi sẽ có một người tùy tùng hỗ trợ anh ta lấy vũ khí.

Odachi được biết đến là một loại vũ khí khá cồng kềnh, nó không được sử dụng phổ biến trong chiến đấu. Thay vào đó, nó có thể đã được sử dụng như một loại cờ hiệu trong quân đội, tương tự vai trò của một lá cờ trong trận đánh.

Hơn nữa, nhiều bằng chứng chỉ ra rằng Odachi giữ vai trò quan trong trong các nghi lễ, phổ biến vào thời Edo.

Ngoài ra, Odachis đôi khi được đặt trong các đền thờ giáo phái Shinto như một lễ vật dâng lên các vị thần. Odachi cũng là một minh chứng cho trình độ của người rèn kiếm, vì lưỡi kiếm không dễ chế tạo.

 


Một bức tranh mô tả Hiyoshimaru gặp Hachisuka Koroku trên cây cầu Yahabi. Trên lưng ông đang đeo là 1 cây Odachi. (Ảnh: Ancient Origins)

Chủ nhân của Norimitsu Odachi là những chiến binh khổng lồ?

Liên quan đến thanh Norimitsu Odachi, nhiều người ủng hộ quan điểm nó đã từng thực sự được sử dụng trong chiến đấu, vì vậy người sử dụng nó hẳn phải là một người khổng lồ.

Bên cạnh đó, cũng giả thuyết thứ 2 đơn giản hơn cho thanh gươm đặc biệt này là nó được sử dụng cho các mục đích phi chiến đấu.

30/12/2019

Dao Ka-Bar

Ham mê về cơ khí và dao kiếm nên mình rất quan tâm đến các loại vũ khí lạnh cổ kim của TG. Không có tiền để sở hữu nên phải lên internet sưu tầm. Những kiến thức về chế tạo vũ khí lạnh Đông Tây vô cùng phong phú và quý giá, có điều bị mai một dần bời sử phát triển của khoa học và công nghệ - thật tiếc. 

Được dịch từ tiếng Anh-Ka-Bar là tên gọi phổ biến đương đại của con dao chiến đấu được Thủy quân Hoa Kỳ sử dụng lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1942 với tư cách là con dao chiến đấu 1219C2, và sau đó được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng làm con dao tiện ích của Hải quân Hoa Kỳ, Mark 2.

Đây là những con dao chuẩn thuở ban đầu của Kar – Bar

 



Cái tên Ka-Bar xuất phát từ năm 1923 khi hãng cơ khí Union Cutlery Co. (được thành lập từ tận năm….1800) tuyên bố một câu chuyện thú vị: một người thợ săn đã dùng dao của họ để giết 1 con gấu bị thương sau phát đạn đầu tiên, nhưng chưa gục ngã và tiếp tục tấn công khi súng của người thợ săn bị kẹt đạn. Từ “Ka-Bar” là nói chệch đi từ “kill bear” (giết gấu). Không ai có thể xác định được câu chuyện này có thật hay không, nhưng thương hiệu Ka-Bar bắt đầu nổi như cồn từ thời điểm đó.




Thiết kế của con Kar – Bar dành cho TQLC

   Năm 1942, Thủy quân lục chiến (lính Marine) Mỹ cảm thấy họ thực sự cần cải tiến lại vũ khí cận chiến của mình, và Ka-Bar chính là cái tên đầu tiên được lựa chọn để “đặt hàng” những mẫu dao đầu tiên.
Sở hữu nhiều tính năng ưu việt nhờ kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực này, Kabar đã làm nên nhiều mẫu dao đã trở thành huyền thoại, với những chi tiết “mẫu mực” mà nhiều thương hiệu dao sau này cũng phải học tập như đường vát để làm nhọn mũi dao một cách cân đối, biên dạng dao để tạo sự cân bằng trong chuyển động, phần lưỡi răng cưa được sử dụng để dễ cắt dây thừng.
   Nổi tiếng bởi độ bền và tính đa dụng cao, được ưa chuộng bởi nhiều thế hệ quân đội Mỹ, Kabar nổi tiếng với một biệt danh khác “Đồ tể”. Với thiết kế rãnh dọc lưỡi dao, nạn nhân khi gặp phải sát thương từ con dao này sẽ mất máu liên tục do rãnh dọc này dẫn đường cho máu chảy ra ngoài nhanh hơn.
   Toàn bộ quá trình sản xuất dao hầu như được chế tạo thủ công với quy trình kiểm tra nghiêm ngặt cũng như những bí quyết công nghệ được giữ bí mật gắt gao. Chính vì lẽ đó mà những con dao này đều có tuổi thọ và độ tin cậy rất cao.Bên cạnh sử dụng để chiến đấu, dao KA-BAR đã chứng minh tính đa năng của nó khi được sử dụng cho việc mở lon, đào rãnh, cắt gỗ, rễ cây, dây leo, dây cáp. Bên cạnh đó thì con dao này cũng sở hữu giá trị thẩm mỹ khá cao và thường được tìm mua bởi những người đam mê quân sự.
Hãng Ka-Bar ngày nay đã nghiên cứu sản xuất nhiều loại dao khác để phục vụ những mục đích phong phú như hỗ trợ săn bắn, công cụ lao động… thế nhưng dao quân sự vẫn là một trong những niềm kiêu hãnh lớn nhất của họ. Hầu hết các mẫu dao quân sự hiện có của Ka-Bar đều được thiết kế dựa trên những thông số này: Dao dài 30,16 cm, phần lưỡi dài 18 cm, nặng 0,56 kg, được làm bằng thép cacbon 1095, Phần chuôi dài 12.7cm được làm từ da ép, những miếng da được cắt hình tròn đồng xu sau đó được ép lại. Cùng với đó là các biện pháp xử lý hóa chất để có thể chống lại ảnh hưởng của nấm mốc.
   Ngay trên trang web của Ka-Bar, những mẫu dao quân sự có thể được bán với giá tương  đương 100 USD, và nếu bạn đang ở Việt Nam, cái giá để bạn có được một con dao Ka-Bar còn lớn hơn nhiều.


21/09/2016

Sơ lược về rèn


   Rèn là một phương pháp gia công được dùng từ lâu. Rèn là nung nóng phôi thép tới nhiệt độ trên 900oC để cho kim loại chuyển sang trạng thái dẻo rồi đặt lên đe và dùng búa đập để có được hình dáng cần thiết của sản phẩm.



Dụng cụ nghề rèn



a. Chồn: là nguyên công rèn làm cho tiết diện của phôi tăng lên, do chiều cao giảm xuống. Có ba kiểu chồn: chồn toàn phần, chồn đầu và chồn giữa. Khi chồn đầu hay chồn giữa, chỉ cần nung nóng một phần của phôi (ở đầu hay giữa), phần đó sau khi chồn sẽ có tiết diện lớn hơn.
b. Vuốt: là một nguyên công rèn để kéo dài phôi và làm cho diện tích mặt cắt ngang của nó nhỏ xuống. Những kiểu vuốt khác nhau là:
+ Vuốt phẳng (dàn phẳng): là đập dẹp phôi bằng một dụng cụ dát phẳng làm cho chiều rộng của phôi lớn lên và chiều cao giảm xuống.
+ Vuốt rộng lỗ: là nguyên công dùng trục gá để giảm chiều dày và tăng đường kính của ống.
+ Vuốt dài ống: là nguyên công dùng trục tâm làm tăng chiều dài của ống và làm giảm đường kính ngoài cùng chiều dày của ống.
c. Đột: là một nguyên công rèn làm cho phôi có lỗ hoặc có chỗ lõm sâu xuống. Dụng cụ để tạo lỗ gọi là mũi đột.
d. Chặt: là một nguyên công của rèn dùng để cắt phôi liệu thành từng phần. Có thể tiến hành ở trạng thái nguội hoặc trạng thái nóng.
e. Uốn: là một nguyên công rèn ở trạng thái nguội hay nóng để đổi hướng thớ của phôi.

Tôi thép
- Tôi thép là phương pháp nung nóng thép lên cao quá nhiệt độ tới hạn để làm xuất hiện tổ chức Austenit giữ nhiệt rồi làm nguội nhanh thích hợp để austenit chuyển thành mactenxit hay các tổ chức không ổn định khác với độ cứng cao.
- Mục đích của tôi thép là: Nâng cao độ cứng và tính chống mài mòn của thép.
- Có hai hình thức tôi là: tôi xuyên tâm và tôi mặt ngoài.
+ Tôi xuyên tâm
Chọn nhiệt độ để tôi thép theo thành phần cacbon trên giản đồ:
Thép trước cùng tích: 
Thép sau cùng tích:   
Giữ nhiệt và làm nguội nhanh hợp lý (làm nguội trong nhiều môi trường khác nhau). Chi tiết cứng cả trong lẫn ngoài. Để đánh giá hiệu quả của các phương pháp tôi người ta đưa vào chỉ tiêu độ thấm tôi.
+ Tôi mặt ngoài
Tôi mặt ngoài thực hiện bằng cách nung nhanh và làm nguội lớp mặt ngoài của chi tiết. Bề mặt chi tiết sau khi tôi có độ cứng cao còn phần lõi vẫn mềm và dẻo. Tôi mặt ngoài thường dùng để tôi bánh răng, các trục truyền động xoắn. Các phương pháp tôi mặt ngoài thường được sử dụng:
·   Tôi cao tần: là sử dụng dòng điện xoay chiều có tần số cao để nung nhanh bề mặt ngoài của chi tiết.
·     Tôi bằng ngọn lửa ôxy - axêtylen:
Nung nhanh chi tiết bằng ngọn lửa ôxy - axêtylen để bề mặt đạt đến nhiệt độ tới hạn A3 và làm nguội nhanh trong nước hay dung dịch hóa chất.
 Ram thép
Ram là phương pháp nhiệt luyện nung nóng thép đã tôi dưới các nhiệt độ nhiệt độ tới hạn (AC1), giữ nhiệt độ ở một thời gian và làm nguội. Nhằm để mactenxit và austenit dư phân hóa thành các tổ chức thách hợp phù hợp với điều kiện làm việc quy định.
     Mục đích của ram thép là làm giảm hoặc làm mất các ứng suất dư sau khi tôi đến mức cần thiết để đáp ứng điều kiện làm việc lâu dài của sản phẩm cơ khí mà vẫn duy trì cơ tính sau khi tôi.
- Có 3 cách ram:
+ Ram thấp là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 150 - 2500C tổ chức đạt được là mactenxit ram.
+ Ram trung bình là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 300 - 4500C tổ chức đạt được là troxit ram.
+ Ram cao là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 500 - 6500C, tổ chức đạt được là xoocbit ram.