13/11/2024
26/07/2024
Tính cách người thể hiện trên bàn ăn
Đọc cuốn “Lễ ký” của Khổng Tử có câu: “Bắt đầu của lễ là ăn uống”. Ăn uống
tưởng chừng như chuyện nhỏ, nhưng lại là bước khởi đầu của lễ nghi và phép tắc.
Khi mọi người đang ăn, họ ở trạng thái thoải mái và tự nhiên nhất, như vậy họ
sẽ bộc lộ những thói quen thường ngày và toàn bộ nhân cách.
Trên bàn ăn, mỗi lời
nói và hành vi đều có thể phản ánh sự tu dưỡng của một người. Nếu bạn muốn nhìn
rõ một ai, cách trực tiếp nhất là cùng họ dùng bữa.
Ông bà ta để lại nhiều câu nhắc nhở tế nhị trên bàn ăn cho con cháu như:
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
- Lựa cơm gắp mắm.
- Ăn miếng ngọt, trả miếng bùi.
- Trời đánh còn tránh miếng ăn.
- Ăn bớt bát, nói bới lời...
1. Người ăn uống đoan chính là người được giáo
dục tốt
Có câu nói:“Đứng có tướng đứng, ngồi có tướng ngồi, ăn
có tướng ăn”. Tướng ăn, có nghĩa là hình thức biểu hiện và thái độ ứng xử
của một người trong bữa ăn. Một bữa ăn thường có thể tiết lộ sự giáo dưỡng thực
sự của một người.
Một người có giáo dục
thường ăn uống đúng mực. Họ biết tiết chế chính mình, cũng biết tôn trọng người
khác.
Trước khi vào bàn ăn,
họ dựa theo tôn ty, để bậc trên ngồi trước, rồi mới
theo sau. Khi bắt đầu bữa ăn, họ để các bậc trên động đũa gắp trước, là vãn bối
nên gắp sau, tỏ vẻ tôn kính. Khi gắp thức ăn, không tùy tiện gắp lật ngửa lựa
chọn, không ưng liền gắp sang miếng khác mà gắp theo trật tự.
Khi ăn, họ ăn chậm,
nhai kỹ, môi miệng, thức ăn và bát đũa gọn gàng lịch sự. Không chơi trò chơi
trong điện thoại, không nói lảm nhảm, không cười nói bậy bạ. Sau khi ăn xong,
nhẹ nhàng sắp xếp bát đũa ngay ngắn, lau miệng sạch sẽ, chào hỏi và rời bàn một
cách lịch sự.
Đối với bậc lão niên,
họ biết kính sợ, đối với thức ăn thì ăn với thái độ biết ơn, không coi nhẹ,
phung phí, quý hạt cơm như vàng, cố gắng ăn hết lượng cơm trong bát và ăn hết
phần thức ăn đã gắp, khăn ăn dù là đồ bỏ đi cũng chú ý để gọn gàng.
Trong “Đạo Đức Kinh” có câu: “Thiên hạ đại sự, tất tá ư tế”, tức là
mọi việc lớn trong thiên hạ đều phải làm chi tiết. Phàm làm việc gì, chi tiết
quyết định thành bại. Những sự việc diễn ra trên bàn ăn tuy vặt vãnh, nhưng lại
chứa đựng quá nhiều quy tắc và lễ nghi. Nếu tướng ăn tốt, đồng nghĩa người này
được giáo dục tốt, có thể được mọi người hoan nghênh, coi trọng và chúng ta nên
kết bạn với họ.
2. Mời người gọi món, biết đặt mình vào vị trí
của người khác để suy xét
Gọi món là phần quan
trọng nhất của bữa ăn. Có vẻ như gọi món là cách dễ dàng, nhưng đó là cả một
kiến thức tuyệt vời.
Những địa điểm khác
nhau có các món ăn khác nhau, và những người khác nhau có sở thích ăn uống khác
nhau. Do đó, gọi món không chỉ có thể quyết định chất lượng bữa ăn mà còn bộc
lộ khí chất của một người.
Có người khi mời người
ta đi ăn thì niềm nở, hiếu khách. Nhưng khi gọi món thì tự họ đứng lên chọn món
cho hết thảy mọi người. Họ tự cho mình là trung tâm bữa tiệc, chỉ quan tâm đến
thị hiếu và sở thích cá nhân mà không quan tâm đến khẩu vị của người khác. Hoặc
họ chỉ hỏi lấy lệ mà không cho người khác xem thực đơn tự chọn. Nói chung họ
rất nhất thống, lộ vẻ kiêu ngạo và ích kỷ.
Một người thực sự lịch
sự có thể đứng ở góc độ của đối phương mà dàn xếp một bữa ăn khiến mọi người
đều thỏa mãn. Người này không chỉ hào phóng, mà còn chủ động yêu cầu mọi người
chọn món. Họ tích cực giới thiệu các món ăn, các món đặc sản và đồ uống phù
hợp, nhưng tùy ý để mọi người chọn lựa.
Ngay cả khi đối phương
chân thành nói rằng: “Bạn có thể gọi bất
cứ thứ gì bạn muốn”, người lịch thiệp cũng sẽ cân nhắc. Họ đặt mình vào vị
trí của người khác, xem xét sở thích của nhau, thậm chí để ý cả quan niệm tiêu
dùng để mọi người được chọn món ăn họ yêu thích.
Người xưa có câu: “Tá nhất ban dĩ khuy toàn báo, dĩ nhất mục
tận tinh thần”; đại ý là nhìn thoáng qua để thấy toàn bộ con báo, và thấu
tận tinh thần chỉ bằng một cái liếc mắt.
Người biết đặt mình vào
vị trí của người khác, có trình độ văn hóa sẽ tôn trọng lựa chọn của người khác
khi gọi món. Họ đủ nhạy bén để quan tâm đến sở thích và chú ý đến sự không
thích của người khác. Người dùng trái tim để đặt món là những người chu đáo về
mọi mặt, và họ là những người thực sự có trách nhiệm và ấm áp.
3. Người chủ động thanh toán hóa đơn, coi trọng
tình bạn
Trên bàn ăn luôn có một
số người ăn uống kiểu tranh thủ cơ hội. Họ nói về các món ăn, họ cho người ta
cảm giác rằng họ sẽ là người thanh toán hóa đơn, nhưng họ không thật sự muốn
chi trả. Khi bữa tiệc kết thúc, họ nhanh chóng tìm cớ để lẻn đi trước.
Những người như vậy tàn
nhẫn, ích kỷ và đạo đức giả. Họ đặt lợi ích cá nhân lên trên mọi thứ, trên cả
tình nghĩa và danh dự của bản thân. Bên cạnh một số người “khôn lỏi” như vậy
thì luôn có những người – họ không những sẽ lần lượt thanh toán hóa đơn mà còn
thể hiện thái độ tích cực thanh toán.
Những người này không
ngốc, không thiển cận, không ham tiền, chỉ là họ coi trọng tình nghĩa và lẽ
phải. Trong lòng họ, tình người quan trọng hơn tiền bạc, và họ không quan tâm
đến giá trị nhỏ nhoi của một hai bữa ăn. Trong cuộc sống, mọi người sẽ luôn
tương hỗ cho nhau và không có gì nên hay không nên.
Tuy nhiên, rốt cuộc,
tiền không phải từ trên trời rơi xuống, vì vậy chúng ta không nên coi việc
người khác trả hóa đơn là điều hiển nhiên. Nếu ai đó sẵn sàng chủ động thanh
toán hóa đơn, chúng ta nên trân trọng họ và biết cách đền đáp tinh tế vào những
dịp khác.
4. Người biết kiềm chế uống rượu có tính kỷ luật
cao
Nhân gian có câu: “Không có rượu thì không thành tiệc”.
Trong nhiều trường hợp, việc uống rượu là điều không thể tránh khỏi trên bàn
ăn. Uống rượu không chỉ là một trò tiêu khiển, mà còn tăng thêm phần sôi động
cho bầu không khí.
Nhưng một số người uống
rượu là không còn quan tâm đến hình ảnh của bản thân, tửu lượng cũng như sức
khỏe của người khác. Bản thân họ uống rất nhiều, họ cũng lại dùng đủ mọi lời lẽ
thuyết phục đối phương phải uống theo họ, trong khi tay thì rót rượu hết chén
này đến chén khác, như thể nếu không uống nhiều thì không vui, không uống là
không nể mặt nhau.
Thậm chí vì uống quá
nhiều rượu, kiểu người này sẽ nói năng bậy bạ hoặc bắt đầu gây sự. Một người
như vậy nhất định thường ngày phải có rượu để uống. Họ không có tính kỷ luật,
tự giác trong cuộc sống. Nhân cách của họ cũng không đạt tiêu chuẩn.
Không có gì sai khi
uống rượu trong khi ăn, nhưng trước mặt mọi người, họ không có ý muốn kiềm chế
bản thân. Cuối cùng, những kẻ say xỉn chỉ có thể khiến mọi người chê cười và tệ
nhất hơn cả là gây ra các rắc rối cãi vã.
Có những người trong
bữa tiệc, họ không từ chối uống rượu. Họ vẫn nâng cốc chung vui, nhưng không
say mê mùi vị này. Họ cũng không cố thuyết phục người khác phải uống với họ.
Người này vui vẻ từ trong tâm hồn của họ và nâng ly chỉ là để phù hợp với hoàn
cảnh. Khi dùng bữa với một người như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy vui vẻ.
Có câu nói rất hay: “Cách uống rượu cũng là nhân cách”, tửu
lượng của một người chính là phong cách và tính cách của người đó. Những người
trên bàn tiệc vui vẻ, đã uống rượu mà vẫn có khả năng tự kiểm soát mạnh mẽ và
khí chất xuất chúng; sống bên cạnh người như vậy chúng ta sẽ luôn cảm thấy
thoải mái, hạnh phúc và may mắn.
15/01/2024
Tranh về Viết Nam 1 thế kỷ trước
st trên net
Họa sĩ người Pháp Joseph Inguimberty (1898-1971) làm giáo viên tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) ở Hà Nội từ năm 1926 đến 1945. Cùng xem những bức tranh được ông thực hiện trong thời gian làm việc tại Việt Nam.
“Dãy núi Ba Vì nhìn từ cánh đồng lúa Sơn Tây”.
“Người lao động trên đồng ruộng”.
“Con đường trên cánh đồng lúa”.
“Phong cảnh ở Việt Nam”.
“Đồng lúa ở đồng bằng Bắc Bộ”.
“Ngôi đền” (Lăng vua Minh Mạng ở Huế).
“Vịnh Hạ Long”.
“Cảnh nông thôn”.
“Những người phụ nữ Bắc Bộ trên đồng ruộng”.
“Những người nông dân Bắc Bộ”.
“Cuộc hội ngộ của những người phụ nữ”.
“Người đàn bà nằm võng”.
“Chiếc võng”.
“Bên bờ ao”.
“Phụ nữ và trẻ em”.
“Studio”.
“Những người phụ nữ”.
“Các cô gái nghỉ ngơi với chiếc võng”.
“Những người phụ nữ Việt”.
“Chân dung thiếu nữ Đông Dương”.
“Hai cô gái Việt Nam trong một khung cảnh”.
“Thư giãn”.
Không đề.
14/10/2023
Những bài học rèn Nhân cách của các Cụ ta xưa
Cha
ông ta có những quan điểm sống rất sâu sắc và chí tình khiến tôi tự hào vì mình
là người Việt với một truyền thống văn hóa, đạo lý tốt đẹp.
Trong
bài viết này tôi chỉ xin nói về những quan niệm và cách sống, giao tiếp, ứng xử
của người xưa để thấy những người “chân đất”, để thấy ông cha ta rèn luyện nhân
cách và nếp sống như thế nào?
Đói cho sạch, rách cho thơm; Giấy rách phải giữ lấy lề:
Nghèo, đói nhưng phải lấy lễ nghĩa, đạo đức làm trọng.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Miếng ăn miếng nhục; Miếng ăn
quá khẩu thành tàn…Các cụ dạy về văn
hóa ăn uống rất sâu xa. “Ăn” là một bản năng nhưng cũng phải học, học hàng
ngày. Ăn uống phải nhìn xung quanh, không chỉ biết có bản thân mình, phải biết
giữ ý tứ, thể diện. Không thể để bị khinh, để mang nhục chỉ vì miếng ăn.
Học ăn, học nói, học gói, học mở: Từ việc ăn, cho đến việc nói và làm; đều phải học,
không có gì tự nhiên mà đến.
Uốn cây từ thuở cây non, dạy con từ thuở con còn thơ ngây: Người lớn cũng thấy được sự ảnh hưởng của mình để
làm gương cho trẻ em. Như vậy thì những thói hư tật xấu làm sao có đất để tồn tại?
Tiên học lễ, hậu học văn: Đề cao lễ nghĩa, đạo đức của con người mà ta cần
phải học trước khi học về kiến thức. Đây là cái gốc để hình thành nhân cách tốt
của mỗi con người, và rộng ra của một xã hội văn minh.
Đi một đàng học một sàng khôn: Càng được đi ra ngoài xã hội, ra thế giới càng có
cơ hội để học tập, học những điều tốt, điều hay; để từ bỏ những thói hư, tật xấu.
Trên kính, dưới nhường; tôn sư trọng đạo: Đó là bài học về ứng xử với những người xung
quanh, đó là một trật tự xã hội mà con người phải tuân thủ.
Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm: Dạy con cháu ý thức vệ sinh, gọn gàng ngăn nắp,
hình thành thói quen tốt sẽ có tác động tốt đến đời sống của gia đình (rộng ra
là xã hội).
Còn rất
nhiều quan niệm, cách răn dạy của ông bà ta đối với con cháu để mong muốn con
cháu mình được học tập và áp dụng trong cuộc sống để cuộc sống đẹp hơn, tốt
hơn. Như các câu: Lá lành đùm lá
rách; Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời; Cá không ăn
muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư; Không thầy đố mày làm nên; Gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng…
Các cụ
xưa tuy nghèo thật nhưng luôn có lòng tự trọng: Đói cho sạch, rách cho thơm. Những quan niệm sống xưa cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thiết
nghĩ, văn hóa không phân biệt giàu nghèo. Thực tế cuộc sống đã chứng minh người
giàu không có nghĩa là có văn hóa và ai bảo người nghèo thì không có văn hóa?
Giữa người nghèo, hoặc ít tri thức xấu tính và người giàu hoặc trí thức đầy
mình xấu tính thì ai đáng chê cười hơn?
Xã hội
ta vẫn nhiều những con người, những hành vi, nghĩa cử đẹp; vẫn nhiều những cái
hay cái đẹp. Biết hay để học biết nhục để sửa, vậy nên ta phải học, học người
xưa, người nay, học thế giới xung quanh thì mới ngẩng cao đầu được.
Âu cũng là ước vọng chung của dân ta.
28/09/2023
Bàn về bức tranh Lý ngư vọng nguyệt
Nhân sắp đến Trung Thu, chúng ta cùng bàn và hiểu về bức tranh dân gian nổi tiếng của dòng tranh Hàng Trống: Tranh Lý ngư vọng nguyệt,
Lý ngư vọng nguyệt trong tranh Hàng Trống và Đông Hồ
Bài báo "Người giữ hồn tranh Hàng Trống" cho biết:
Bộ tranh “Cá chép trông Trăng” (Lý ngư vọng nguyệt) là một tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của dòng tranh Hàng Trống. Tranh “Cá chép trông Trăng” đã đạt đến độ cao về mỹ thuật, sâu sắc, thâm thúy về ý nghĩa, đầm ấm gần gũi, tranh thể hiện ước nguyện cầu ấm no hạnh phúc trong năm.
02/09/2023
Vài nét về ấm trà tử sa
Mình thấy rất nhiều bạn uống trà đang dành sự quan tâm đặc
biệt đến loại ấm này, và mình sẽ nói về ấm tử sa với những vấn đề cốt lõi và
thực tế nhất của nó, tránh cho các bạn khỏi rơi vào sự mơ hồ hay huyễn hoặc khi
mới bắt đầu.
Ấm đất : Ngày trước, ở
việt Nam, những chiếc ấm tử sa được gọi đơn giản là ấm đất. Vì bản chất cốt lõi
những phẩm chất nó có được đến từ việc không tráng men: sự tinh tế, chính xác,
tương tác với trà trong quá trình pha.
Ấm da chu: là một tên gọi
khác về tấm tử sa tại Việt Nam trước đây, nói về những chiếc ấm đất có da màu
đỏ. (người Việt thấy nó màu đỏ, người Hoa thấy nó mầu tím)
Ấm tử sa độc ẩm: là loại ấm da chu uống một người,
rất nhỏ, rất được ưa chuộng tại Việt Nam thời trước.
Tên gọi ấm tử sa có lẽ chỉ xuất hiện gần đây tại Việt Nam, thông
qua các tiệm buôn ấm tử sa Trung Quốc.
Nói đến ấm tử sa là nói đến một loại ấm pha trà làm bằng đất
nung ở nhiệt độ cao, không tráng men. Gọi là tử sa vì nó thường có màu tím,
xuất phát từ vùng Nghi Hưng (Giang Tô, Trung Quốc).
Có một vài điểm có thể giúp định nghĩa ấm tử sa là gì ?
1.
Ấm được làm từ loại
đất đặc biệt từ vùng Nghi Hưng (gọi là đất tử sa).
2.
Làm thủ công từ phôi
đất mềm (như đất nặn tượng), giúp tạo hình khéo léo và đa dạng.
3.
Ấm không tráng men,
giữa lại sự thẩm thấu tự nhiện giữa nước trà pha và chất đất.
4.
Nung ở nhiệt độ cao,
tạo nên chất ấm chắc như sứ.
Tuy nhiên trên thực tế, một bình trà tử sa được bán có thể thiếu
một hay nhiều yếu tố trên: Làm từ một loại đất khác tử sa Nghi Hưng, có thể từ
cấp phối đất nhão trên bàn xoay, tệ hơn là nung ở nhiệt độ thấp gây mùi đất
mạnh. Nhưng tuyệt đối không ai chấp nhận
một ấm tráng men gọi là ấm trà tử sa.
1.
Phải phân biệt ấm
pha trà và ấm trang trí. Chính nhờ đặc
tính dễ tạo hình và kỹ thuật nung khéo léo giúp đất tử sa có thể tạo hình rất
đa dạng. Có rất nhiều những kiểu ấm cầu kỳ hoa mỹ như giả gốc cây, con thú, lá
cây, hoa quả… Nhưng nó chỉ thích hợp để sưu tập và trưng bày. Những ấm pha trà
tốt nhất thường có hình dáng đơn giản, dễ thao tác, thành ấm đồng đều, giúp ổn
định và cân bằng nhiệt độ trong ấm.
2.
Ấm tử sa pha ngon
hơn ấm trà gốm sứ? Không hoàn
toàn như vậy. Các khoáng chất thường làm giảm độ gắt, khô của nước trà, giúp
nước trà mềm và hương dịu, điều này rất thích hợp với những loại trà có hương
vị quá mạnh. Nhưng với các loại trà có hương vị tinh tế như trà xanh, nó thường
làm giảm chất lượng của trà. Cơ hội để bạn tìm được ấm trà cung cấp khoáng
thích hợp là rất thấp.
3.
Mỗi ấm chỉ pha
một loại trà? Thật tuyệt vời nếu bạn có rất nhiều ấm
và đủ thời gian dùng chúng mà không “bỏ bê” cái nào quá lâu, nhưng phần lớn các
bạn và cả tôi đều không như vậy. Bạn thường có ít ấm hơn số các loại trà, và
không phải loại trà nào cũng được dùng thường xuyên. Vậy hãy điều chỉnh một
chút “Mỗi ấm chỉ pha một nhóm trà cùng
nguồn gốc”, ví dụ các loại trà từ Thái Nguyên, các loại trà từ gốc cổ thụ,
các loại trà ô long tứ quý…
4.
Ấm tốt là số một? Rất
nhiều bạn đầu tư tối đa vào ấm trà và thiếu hẳn sự quan tâm đến trà, nước, kỹ
thuật pha. Với kinh nghiệm của mình, các bạn nên ưu tiên thế này: trà,
nước, kỹ thuật pha, ấm. Mà trong ấm mình còn ưu tiên các loại ấm có tráng men trước. Ấm tử sa chỉ là một sự khám
phá của những người rất sành trà thôi.
5.
Ấm tử sa thật
phải là đất làm từ đất Nghi Hưng? Nếu các bạn
theo cách tiếp cận thiên về công dụng như mình, thì điều đó không quan trọng.
Những loại ấm nào giúp bạn cải thiện hương vị trà bằng cách cung cấp thêm
khoáng vi lượng vào nước trà thì nó đều tốt. Ở Nhật Bản và Đài Loan có những
loại ấm gốm pha kim loại – một cách rất hay để áp dụng nguyên lý bổ sung
khoáng. Nhưng các bạn cũng phải hiểu Nghi Hưng là thành phố cổ rất giàu kinh
nghiệm về ấm đất. Họ có thợ giỏi, đất tốt và lịch sử lâu đời, bạn dễ tìm được
loại ấm tốt từ đây.
Do
vậy, không có bộ ấm chén tử sa Nghi Hưng nào cả (một cách nghiêm túc và chính
thức). Dù thực tế, đôi khi bạn vẫn thấy người ta bán vài “chén tử sa Nghi Hưng”,
bộ ấm chén tử sa Trung Quốc, hay thâm chí là “bộ ấm trà tử sa cao cấp” nữa cơ.
05/08/2023
Ăn Chay trong Phật giáo là kị ăn Tanh
Vốn ban đầu, nhà Phật kị
ăn Tanh. Cái “tanh” này ấy, không phải cái tanh của thịt cá thế
tục đâu, mà cái gọi là “tanh” này chính là để chỉ những gia vị
làm dậy mùi như hành, tỏi, rau thơm vân vân…nhằm tránh cho tăng sỹ ham luyến
tục vật do ham ăn các thức ăn chế biến cầu kỳ. Còn thịt, cá, động vật... chỉ
cần là “ba sạch”:
- Một là
ta không nhìn thấy người giết,
- Hai là
không phải ta giết,
- Ba là
không phải vì ta mà giết
thì có thể ăn, nhằm tránh
phạm giới "sát sinh".
Người xuất gia, đều dựa
vào bố thí của các tín đồ. Tín đồ bố thí cái gì thì họ liền ăn cái đó, nào dám
bắt bẻ điều gì. Cho đến thời Lương Vũ Đế (Hoàng đế triều Lương 464 –
549CN bên TQ), mới
đề xuất bắt tu sỹ Phật giáo không được ăn thịt. Hoàng đế đã mở kim khẩu, đương nhiên ai
dám chống lại, vậy là từ đó, các tăng nhân Phật giáo Bắc tông mới bắt đầu phải
ăn chay.
Còn Phật
giáo Nam Tông hay còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ, cho đến nay vừa ăn chay, vừa ăn mặn nhưng chỉ ăn 1
bữa trước giờ Ngọ (12h trưa - hình như bên Thiền tông và một số tông phái
khác cũng áp dụng điều này) . Tuy nhiên, việc ăn mặn của Phật giáo Nam Tông
phải tuân theo giới luật rất khắt khe và ở mỗi quốc gia theo hệ phái này cũng
có nhiều điểm không đồng nhất.
Ảnh trên là bữa ăn trong
ngày của các tăng sỹ Nam tông ở 1 ngôi chùa vùng Tây Nam bộ - Vừa có chay, vừa
có mặn, nhưng yêu cầu phải ăn hết, không có thừa. Nên ta thấy, các tăng sỹ
rất béo tốt, hồng hào.
Đồ ăn này hoàn toàn do các
tăng sỹ đi khuyến (khất) thực hoặc Phật tử đem đến chùa từng bữa, chứ
nhà chùa hệ Nam tông, phần lớn không có bếp.
Và ta còn thấy không có ni
sư ̣(nữ giới) vì Nam tông tuân thủ theo nguyên tắc từ thời Đức Phật
Thích ca còn tại thế, không chấp nhận Ni đoàn.
Phật tử có thể ngồi xung
quanh để chứng kiến và tiếp thêm đồ ăn nếu thiếu.
03/08/2023
Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC KHẮC TRÊN "CỬU ĐỈNH" Ở HUẾ
st trên net