Hiển thị các bài đăng có nhãn Nếp xưa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nếp xưa. Hiển thị tất cả bài đăng

26/07/2024

Tính cách người thể hiện trên bàn ăn


Đọc cuốn “Lễ ký” của Khổng Tử có câu: “Bắt đầu của lễ là ăn uống”. Ăn uống tưởng chừng như chuyện nhỏ, nhưng lại là bước khởi đầu của lễ nghi và phép tắc. Khi mọi người đang ăn, họ ở trạng thái thoải mái và tự nhiên nhất, như vậy họ sẽ bộc lộ những thói quen thường ngày và toàn bộ nhân cách.

Trên bàn ăn, mỗi lời nói và hành vi đều có thể phản ánh sự tu dưỡng của một người. Nếu bạn muốn nhìn rõ một ai, cách trực tiếp nhất là cùng họ dùng bữa.

Ông bà ta để lại nhiều câu nhắc nhở tế nhị trên bàn ăn cho con cháu như:

- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

- Lựa cơm gắp mắm.

- Ăn miếng ngọt, trả miếng bùi.

- Trời đánh còn tránh miếng ăn.

- Ăn bớt bát, nói bới lời...

1. Người ăn uống đoan chính là người được giáo dục tốt

Có câu nói:“Đứng có tướng đứng, ngồi có tướng ngồi, ăn có tướng ăn”. Tướng ăn, có nghĩa là hình thức biểu hiện và thái độ ứng xử của một người trong bữa ăn. Một bữa ăn thường có thể tiết lộ sự giáo dưỡng thực sự của một người.

Một người có giáo dục thường ăn uống đúng mực. Họ biết tiết chế chính mình, cũng biết tôn trọng người khác.

Trước khi vào bàn ăn, họ dựa theo tôn ty, để bậc trên ngồi trước, rồi mới theo sau. Khi bắt đầu bữa ăn, họ để các bậc trên động đũa gắp trước, là vãn bối nên gắp sau, tỏ vẻ tôn kính. Khi gắp thức ăn, không tùy tiện gắp lật ngửa lựa chọn, không ưng liền gắp sang miếng khác mà gắp theo trật tự.

Khi ăn, họ ăn chậm, nhai kỹ, môi miệng, thức ăn và bát đũa gọn gàng lịch sự. Không chơi trò chơi trong điện thoại, không nói lảm nhảm, không cười nói bậy bạ. Sau khi ăn xong, nhẹ nhàng sắp xếp bát đũa ngay ngắn, lau miệng sạch sẽ, chào hỏi và rời bàn một cách lịch sự.

Đối với bậc lão niên, họ biết kính sợ, đối với thức ăn thì ăn với thái độ biết ơn, không coi nhẹ, phung phí, quý hạt cơm như vàng, cố gắng ăn hết lượng cơm trong bát và ăn hết phần thức ăn đã gắp, khăn ăn dù là đồ bỏ đi cũng chú ý để gọn gàng.

Trong “Đạo Đức Kinh” có câu: “Thiên hạ đại sự, tất tá ư tế”, tức là mọi việc lớn trong thiên hạ đều phải làm chi tiết. Phàm làm việc gì, chi tiết quyết định thành bại. Những sự việc diễn ra trên bàn ăn tuy vặt vãnh, nhưng lại chứa đựng quá nhiều quy tắc và lễ nghi. Nếu tướng ăn tốt, đồng nghĩa người này được giáo dục tốt, có thể được mọi người hoan nghênh, coi trọng và chúng ta nên kết bạn với họ.

2. Mời người gọi món, biết đặt mình vào vị trí của người khác để suy xét

Gọi món là phần quan trọng nhất của bữa ăn. Có vẻ như gọi món là cách dễ dàng, nhưng đó là cả một kiến ​​thức tuyệt vời.

Những địa điểm khác nhau có các món ăn khác nhau, và những người khác nhau có sở thích ăn uống khác nhau. Do đó, gọi món không chỉ có thể quyết định chất lượng bữa ăn mà còn bộc lộ khí chất của một người.

Có người khi mời người ta đi ăn thì niềm nở, hiếu khách. Nhưng khi gọi món thì tự họ đứng lên chọn món cho hết thảy mọi người. Họ tự cho mình là trung tâm bữa tiệc, chỉ quan tâm đến thị hiếu và sở thích cá nhân mà không quan tâm đến khẩu vị của người khác. Hoặc họ chỉ hỏi lấy lệ mà không cho người khác xem thực đơn tự chọn. Nói chung họ rất nhất thống, lộ vẻ kiêu ngạo và ích kỷ.

Một người thực sự lịch sự có thể đứng ở góc độ của đối phương mà dàn xếp một bữa ăn khiến mọi người đều thỏa mãn. Người này không chỉ hào phóng, mà còn chủ động yêu cầu mọi người chọn món. Họ tích cực giới thiệu các món ăn, các món đặc sản và đồ uống phù hợp, nhưng tùy ý để mọi người chọn lựa.

Ngay cả khi đối phương chân thành nói rằng: “Bạn có thể gọi bất cứ thứ gì bạn muốn”, người lịch thiệp cũng sẽ cân nhắc. Họ đặt mình vào vị trí của người khác, xem xét sở thích của nhau, thậm chí để ý cả quan niệm tiêu dùng để mọi người được chọn món ăn họ yêu thích.

Người xưa có câu: “Tá nhất ban dĩ khuy toàn báo, dĩ nhất mục tận tinh thần”; đại ý là nhìn thoáng qua để thấy toàn bộ con báo, và thấu tận tinh thần chỉ bằng một cái liếc mắt.

Người biết đặt mình vào vị trí của người khác, có trình độ văn hóa sẽ tôn trọng lựa chọn của người khác khi gọi món. Họ đủ nhạy bén để quan tâm đến sở thích và chú ý đến sự không thích của người khác. Người dùng trái tim để đặt món là những người chu đáo về mọi mặt, và họ là những người thực sự có trách nhiệm và ấm áp.

3. Người chủ động thanh toán hóa đơn, coi trọng tình bạn

Trên bàn ăn luôn có một số người ăn uống kiểu tranh thủ cơ hội. Họ nói về các món ăn, họ cho người ta cảm giác rằng họ sẽ là người thanh toán hóa đơn, nhưng họ không thật sự muốn chi trả. Khi bữa tiệc kết thúc, họ nhanh chóng tìm cớ để lẻn đi trước.

Những người như vậy tàn nhẫn, ích kỷ và đạo đức giả. Họ đặt lợi ích cá nhân lên trên mọi thứ, trên cả tình nghĩa và danh dự của bản thân. Bên cạnh một số người “khôn lỏi” như vậy thì luôn có những người – họ không những sẽ lần lượt thanh toán hóa đơn mà còn thể hiện thái độ tích cực thanh toán.

Những người này không ngốc, không thiển cận, không ham tiền, chỉ là họ coi trọng tình nghĩa và lẽ phải. Trong lòng họ, tình người quan trọng hơn tiền bạc, và họ không quan tâm đến giá trị nhỏ nhoi của một hai bữa ăn. Trong cuộc sống, mọi người sẽ luôn tương hỗ cho nhau và không có gì nên hay không nên.

Tuy nhiên, rốt cuộc, tiền không phải từ trên trời rơi xuống, vì vậy chúng ta không nên coi việc người khác trả hóa đơn là điều hiển nhiên. Nếu ai đó sẵn sàng chủ động thanh toán hóa đơn, chúng ta nên trân trọng họ và biết cách đền đáp tinh tế vào những dịp khác.

4. Người biết kiềm chế uống rượu có tính kỷ luật cao

Nhân gian có câu: “Không có rượu thì không thành tiệc”. Trong nhiều trường hợp, việc uống rượu là điều không thể tránh khỏi trên bàn ăn. Uống rượu không chỉ là một trò tiêu khiển, mà còn tăng thêm phần sôi động cho bầu không khí.

Nhưng một số người uống rượu là không còn quan tâm đến hình ảnh của bản thân, tửu lượng cũng như sức khỏe của người khác. Bản thân họ uống rất nhiều, họ cũng lại dùng đủ mọi lời lẽ thuyết phục đối phương phải uống theo họ, trong khi tay thì rót rượu hết chén này đến chén khác, như thể nếu không uống nhiều thì không vui, không uống là không nể mặt nhau.

Thậm chí vì uống quá nhiều rượu, kiểu người này sẽ nói năng bậy bạ hoặc bắt đầu gây sự. Một người như vậy nhất định thường ngày phải có rượu để uống. Họ không có tính kỷ luật, tự giác trong cuộc sống. Nhân cách của họ cũng không đạt tiêu chuẩn.

Không có gì sai khi uống rượu trong khi ăn, nhưng trước mặt mọi người, họ không có ý muốn kiềm chế bản thân. Cuối cùng, những kẻ say xỉn chỉ có thể khiến mọi người chê cười và tệ nhất hơn cả là gây ra các rắc rối cãi vã.

Có những người trong bữa tiệc, họ không từ chối uống rượu. Họ vẫn nâng cốc chung vui, nhưng không say mê mùi vị này. Họ cũng không cố thuyết phục người khác phải uống với họ. Người này vui vẻ từ trong tâm hồn của họ và nâng ly chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh. Khi dùng bữa với một người như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy vui vẻ.

Có câu nói rất hay: “Cách uống rượu cũng là nhân cách”, tửu lượng của một người chính là phong cách và tính cách của người đó. Những người trên bàn tiệc vui vẻ, đã uống rượu mà vẫn có khả năng tự kiểm soát mạnh mẽ và khí chất xuất chúng; sống bên cạnh người như vậy chúng ta sẽ luôn cảm thấy thoải mái, hạnh phúc và may mắn.


15/01/2024

Tranh về Viết Nam 1 thế kỷ trước

 st trên net


Họa sĩ người Pháp Joseph Inguimberty (1898-1971) làm giáo viên tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) ở Hà Nội từ năm 1926 đến 1945. Cùng xem những bức tranh được ông thực hiện trong thời gian làm việc tại Việt Nam.Việt Nam một thế kỷ trước qua tranh của Joseph Inguimberty

“Dãy núi Ba Vì nhìn từ cánh đồng lúa Sơn Tây”.

“Người lao động trên đồng ruộng”.

“Con đường trên cánh đồng lúa”.

“Phong cảnh ở Việt Nam”.

“Đồng lúa ở đồng bằng Bắc Bộ”.

“Ngôi đền” (Lăng vua Minh Mạng ở Huế).

“Vịnh Hạ Long”.

“Cảnh nông thôn”.

“Những người phụ nữ Bắc Bộ trên đồng ruộng”.

“Những người nông dân Bắc Bộ”.

“Cuộc hội ngộ của những người phụ nữ”.

“Người đàn bà nằm võng”.

“Chiếc võng”.

“Bên bờ ao”.

“Phụ nữ và trẻ em”.

“Studio”.

“Những người phụ nữ”.

“Các cô gái nghỉ ngơi với chiếc võng”.

“Những người phụ nữ Việt”.

“Chân dung thiếu nữ Đông Dương”.

“Hai cô gái Việt Nam trong một khung cảnh”.

“Thư giãn”.

Không đề.

14/10/2023

Những bài học rèn Nhân cách của các Cụ ta xưa

 


Cha ông ta có những quan điểm sống rất sâu sắc và chí tình khiến tôi tự hào vì mình là người Việt với một truyền thống văn hóa, đạo lý tốt đẹp.

Trong bài viết này tôi chỉ xin nói về những quan niệm và cách sống, giao tiếp, ứng xử của người xưa để thấy những người “chân đất”, để thấy ông cha ta rèn luyện nhân cách và nếp sống như thế nào?

Đói cho sạch, rách cho thơm; Giấy rách phải giữ lấy lề: Nghèo, đói nhưng phải lấy lễ nghĩa, đạo đức làm trọng.

Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Miếng ăn miếng nhục; Miếng ăn quá khẩu thành tàn…Các cụ dạy về văn hóa ăn uống rất sâu xa. “Ăn” là một bản năng nhưng cũng phải học, học hàng ngày. Ăn uống phải nhìn xung quanh, không chỉ biết có bản thân mình, phải biết giữ ý tứ, thể diện. Không thể để bị khinh, để mang nhục chỉ vì miếng ăn.

Học ăn, học nói, học gói, học mở: Từ việc ăn, cho đến việc nói và làm; đều phải học, không có gì tự nhiên mà đến.

Uốn cây từ thuở cây non, dạy con từ thuở con còn thơ ngây: Người lớn cũng thấy được sự ảnh hưởng của mình để làm gương cho trẻ em. Như vậy thì những thói hư tật xấu làm sao có đất để tồn tại?

Tiên học lễ, hậu học văn: Đề cao lễ nghĩa, đạo đức của con người mà ta cần phải học trước khi học về kiến thức. Đây là cái gốc để hình thành nhân cách tốt của mỗi con người, và rộng ra của một xã hội văn minh.

Đi một đàng học một sàng khôn: Càng được đi ra ngoài xã hội, ra thế giới càng có cơ hội để học tập, học những điều tốt, điều hay; để từ bỏ những thói hư, tật xấu.

Trên kính, dưới nhường; tôn sư trọng đạo: Đó là bài học về ứng xử với những người xung quanh, đó là một trật tự xã hội mà con người phải tuân thủ.

Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm: Dạy con cháu ý thức vệ sinh, gọn gàng ngăn nắp, hình thành thói quen tốt sẽ có tác động tốt đến đời sống của gia đình (rộng ra là xã hội).

Còn rất nhiều quan niệm, cách răn dạy của ông bà ta đối với con cháu để mong muốn con cháu mình được học tập và áp dụng trong cuộc sống để cuộc sống đẹp hơn, tốt hơn. Như các câu: Lá lành đùm lá rách; Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời; Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư; Không thầy đố mày làm nên; Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng

Các cụ xưa tuy nghèo thật nhưng luôn có lòng tự trọng: Đói cho sạch, rách cho thơm. Những quan niệm sống xưa cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thiết nghĩ, văn hóa không phân biệt giàu nghèo. Thực tế cuộc sống đã chứng minh người giàu không có nghĩa là có văn hóa và ai bảo người nghèo thì không có văn hóa? Giữa người nghèo, hoặc ít tri thức xấu tính và người giàu hoặc trí thức đầy mình xấu tính thì ai đáng chê cười hơn?

Xã hội ta vẫn nhiều những con người, những hành vi, nghĩa cử đẹp; vẫn nhiều những cái hay cái đẹp. Biết hay để học biết nhục để sửa, vậy nên ta phải học, học người xưa, người nay, học thế giới xung quanh thì mới ngẩng cao đầu được.

Âu cũng là ước vọng chung của dân ta.


28/09/2023

Bàn về bức tranh Lý ngư vọng nguyệt

 

Nhân sắp đến Trung Thu, chúng ta cùng bàn và hiểu về bức tranh dân gian nổi tiếng của dòng tranh Hàng Trống: Tranh Lý ngư vọng nguyệt,

Tranh "Lý Ngư Vọng Nguyệt" (Nguồn: Tranh Đông Hồ)

'Lý ngư vọng nguyệt' là một bức tranh dân gian nổi tiếng, mô tả một con cá chép đang ngắm nhìn hình ảnh bóng trăng dưới đáy nước.

Theo nghĩa Hán Việt thì "lý ngư" là cá chép, còn "vọng nguyệt" là ngắm trăng.

Bức tranh nổi bật với hình ảnh cá chép có thân mình to khỏe, đuôi cá hơi cong, đang quẩy mình đớp bóng trăng được in dưới đáy nước. Bối cảnh xung quanh là các cành sen bao quanh hoặc vươn dài, uốn lượn, cùng các cá con. Trên cao là bầu trời đêm được nhuộm vàng bởi ánh trăng tròn.

Ý nghĩa của cá chép trong Lý Ngư Vọng Nguyệt

Hình tượng cá chép (lý ngư) được gắn với câu chuyện cá chép vượt vũ môn hóa rồng, thể hiện phẩm chất ý chí mạnh mẽ, kiên trì, nhẫn nại, vượt khó khăn để đạt thành quả. Cá chép còn mang ý nghĩa may mắn, tốt lành.

Trong tiếng Hán, cá chép đọc là “Lý Ngư” có phát âm giống giống với từ Hữu Dư. Mang ý nghĩa giàu có, có của ăn của để.

Ngoài ra hình ảnh cá chép còn tượng trưng cho sự giao hòa Trời Đất qua câu chuyện Táo quân cưỡi cá chép về trời.

Ý nghĩa của trăng tròn trong Lý Ngư Vọng Nguyệt

Trong văn hóa phương Đông, trăng tròn tượng trưng cho sự hoàn hảo, hoàn thiện, viên mãn, trong sáng, thanh cao. Tuy nhiên trong bức tranh Lý Ngư Vọng Nguyệt có hai mặt trăng, một ở trên trời và một ở dưới nước (dường như ở đáy nước).

Ảnh: Wikipedia

Ý nghĩa của Lý Ngư Vọng Nguyệt

Một số ý kiến cho rằng bức tranh mang ý nghĩa về những mong muốn khát khao, đạt được sự hoàn mỹ, đầy đủ, vẹn tròn. Ý kiến khác lại nhận định bức tranh này là lời nhắc nhở cuộc đời nhiều hư ảo (trăng ở đáy nước), cần biết phân biệt thật-giả, không nên vì những thứ hào nhoáng mà đánh mất giá trị chân thật.

Bức tranh còn chứa đựng vẻ đẹp hài hòa từ nhiều yếu tố đối lập. Bầu trời cao lồng lộng với mặt nước sâu thăm thẳm. Mặt trăng yên lặng trên trời với con cá chép quẫy mình dưới nước. Ánh trăng vàng với đáy nước đen…

Dù sao mỗi bức tranh đều có nội hàm ý nghĩa sâu sắc, theo đó mỗi người xem có những cảm nhận khác nhau.

Nguồn gốc của tranh

Mặc dù trên nhiều bức tranh chữ được viết bằng tiếng Hán, nhưng cảnh vẽ này có nguồn gốc hoàn toàn từ Việt Nam.

Bức tranh Lý ngư vọng nguyệt là một trong những tác phẩm nghệ thuật độc đáo thuộc dòng tranh dân gian Hàng Trống. Đây là một trong những làng nghề thủ công mỹ nghệ. Nay thuộc phố Hàng Nón, Hàng Trống – thủ đô Hà Nội.

Tranh Hàng Trống phát triển nhất vào giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hầu hết nội dung của tranh xoay quanh các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.

Tranh và thơ

Các nghệ nhân tranh Đông Hồ còn đưa vào bức tranh một bài thơ bằng chữ Nôm như sau:

Sáng trăng vằng vặc cả bầu trời
Lộng lẫy sông hồ với biển khơi
Lung linh bóng nguyệt tô cảnh thủy
Vọng vời đua lượn lý ngư bơi.

Bức tranh Lý Ngư Vọng Nguyệt của tranh Đông Hồ.

Lý ngư vọng nguyệt trong tranh Hàng Trống và Đông Hồ

Bài báo "Người giữ hồn tranh Hàng Trống" cho biết:

Bộ tranh “Cá chép trông Trăng” (Lý ngư vọng nguyệt) là một tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của dòng tranh Hàng Trống. Tranh “Cá chép trông Trăng” đã đạt đến độ cao về mỹ thuật, sâu sắc, thâm thúy về ý nghĩa, đầm ấm gần gũi, tranh thể hiện ước nguyện cầu ấm no hạnh phúc trong năm.
Tranh dân gian có thể gồm 1 tấm hoặc 2 tấm đối nhau. Tranh được in trên giấy dó bằng bản khắc gỗ thủ công.

Lý ngư vọng nguyệt là bức tranh tiêu biểu của tranh Hàng Trống, nhưng cũng được sáng tác và treo trong các phòng tranh của Đông Hồ. Ngay từ năm 1967 các nghệ nhân Đông Hồ đã vẽ lại bức ban đầu là bằng cách vẽ tay, sau đó đã được khắc ván gỗ.

Tại Đông Hồ, bức tranh có những nét độc đáo riêng do được in trên những chất liệu vốn có của tranh Đông Hồ. Đó là việc sử dụng giấy điệp và các màu sắc được chiết xuất từ tự nhiên: Màu đỏ làm từ sỏi son, màu trắng làm từ vỏ điệp, màu vàng chiết xuất từ hoa hòe, màu xanh từ lá chàm, màu đen làm từ lá tre đốt thành than.

02/09/2023

Vài nét về ấm trà tử sa

 


Mình thấy rất nhiều bạn uống trà đang dành sự quan tâm đặc biệt đến loại ấm này, và mình sẽ nói về ấm tử sa với những vấn đề cốt lõi và thực tế nhất của nó, tránh cho các bạn khỏi rơi vào sự mơ hồ hay huyễn hoặc khi mới bắt đầu.  

Ấm đất : Ngày trước, ở việt Nam, những chiếc ấm tử sa được gọi đơn giản là ấm đất. Vì bản chất cốt lõi những phẩm chất nó có được đến từ việc không tráng men: sự tinh tế, chính xác, tương tác với trà trong quá trình pha.

Ấm da chu: là một tên gọi khác về tấm tử sa tại Việt Nam trước đây, nói về những chiếc ấm đất có da màu đỏ. (người Việt thấy nó màu đỏ, người Hoa thấy nó mầu tím)

Ấm tử sa độc ẩm: là loại ấm da chu uống một người, rất nhỏ, rất được ưa chuộng tại Việt Nam thời trước.

Tên gọi ấm tử sa có lẽ chỉ xuất hiện gần đây tại Việt Nam, thông qua các tiệm buôn ấm tử sa Trung Quốc.

Nói đến ấm tử sa là nói đến một loại ấm pha trà làm bằng đất nung ở nhiệt độ cao, không tráng men. Gọi là tử sa vì nó thường có màu tím, xuất phát từ vùng Nghi Hưng (Giang Tô, Trung Quốc).

Có một vài điểm có thể giúp định nghĩa ấm tử sa là gì ?

1.  Ấm được làm từ loại đất đặc biệt từ vùng Nghi Hưng (gọi là đất tử sa).

2.  Làm thủ công từ phôi đất mềm (như đất nặn tượng), giúp tạo hình khéo léo và đa dạng.

3.  Ấm không tráng men, giữa lại sự thẩm thấu tự nhiện giữa nước trà pha và chất đất.

4.  Nung ở nhiệt độ cao, tạo nên chất ấm chắc như sứ.

Tuy nhiên trên thực tế, một bình trà tử sa được bán có thể thiếu một hay nhiều yếu tố trên: Làm từ một loại đất khác tử sa Nghi Hưng, có thể từ cấp phối đất nhão trên bàn xoay, tệ hơn là nung ở nhiệt độ thấp gây mùi đất mạnh. Nhưng tuyệt đối không ai chấp nhận một ấm tráng men gọi là ấm trà tử sa.

1.  Phải phân biệt ấm pha trà và ấm trang trí. Chính nhờ đặc tính dễ tạo hình và kỹ thuật nung khéo léo giúp đất tử sa có thể tạo hình rất đa dạng. Có rất nhiều những kiểu ấm cầu kỳ hoa mỹ như giả gốc cây, con thú, lá cây, hoa quả… Nhưng nó chỉ thích hợp để sưu tập và trưng bày. Những ấm pha trà tốt nhất thường có hình dáng đơn giản, dễ thao tác, thành ấm đồng đều, giúp ổn định và cân bằng nhiệt độ trong ấm.

2.  Ấm tử sa pha ngon hơn ấm trà gốm sứ? Không hoàn toàn như vậy. Các khoáng chất thường làm giảm độ gắt, khô của nước trà, giúp nước trà mềm và hương dịu, điều này rất thích hợp với những loại trà có hương vị quá mạnh. Nhưng với các loại trà có hương vị tinh tế như trà xanh, nó thường làm giảm chất lượng của trà. Cơ hội để bạn tìm được ấm trà cung cấp khoáng thích hợp là rất thấp.

3.  Mỗi ấm chỉ pha một loại trà? Thật tuyệt vời nếu bạn có rất nhiều ấm và đủ thời gian dùng chúng mà không “bỏ bê” cái nào quá lâu, nhưng phần lớn các bạn và cả tôi đều không như vậy. Bạn thường có ít ấm hơn số các loại trà, và không phải loại trà nào cũng được dùng thường xuyên. Vậy hãy điều chỉnh một chút “Mỗi ấm chỉ pha một nhóm trà cùng nguồn gốc”, ví dụ các loại trà từ Thái Nguyên, các loại trà từ gốc cổ thụ, các loại trà ô long tứ quý…

4.  Ấm tốt là số một? Rất nhiều bạn đầu tư tối đa vào ấm trà và thiếu hẳn sự quan tâm đến trà, nước, kỹ thuật pha. Với kinh nghiệm của mình, các bạn nên ưu tiên thế này: trà, nước, kỹ thuật pha, ấm. Mà trong ấm mình còn ưu tiên các loại ấm có tráng men trước. Ấm tử sa chỉ là một sự khám phá của những người rất sành trà thôi.

5.  Ấm tử sa thật phải là đất làm từ đất Nghi Hưng? Nếu các bạn theo cách tiếp cận thiên về công dụng như mình, thì điều đó không quan trọng. Những loại ấm nào giúp bạn cải thiện hương vị trà bằng cách cung cấp thêm khoáng vi lượng vào nước trà thì nó đều tốt. Ở Nhật Bản và Đài Loan có những loại ấm gốm pha kim loại – một cách rất hay để áp dụng nguyên lý bổ sung khoáng. Nhưng các bạn cũng phải hiểu Nghi Hưng là thành phố cổ rất giàu kinh nghiệm về ấm đất. Họ có thợ giỏi, đất tốt và lịch sử lâu đời, bạn dễ tìm được loại ấm tốt từ đây.

 Chén không tham gia vào quá trình hãm trà, nên một chén sứ trơn và trắng hỗ trợ tốt hơn trong việc quan sát nước trà và thưởng thức nước trà.

Do vậy, không có bộ ấm chén tử sa Nghi Hưng nào cả (một cách nghiêm túc và chính thức). Dù thực tế, đôi khi bạn vẫn thấy người ta bán vài “chén tử sa Nghi Hưng”, bộ ấm chén tử sa Trung Quốc, hay thâm chí là “bộ ấm trà tử sa cao cấp” nữa cơ.



05/08/2023

Ăn Chay trong Phật giáo là kị ăn Tanh

 


Vốn ban đầu, nhà Phật kị ăn Tanh. Cái “tanh” này ấy, không phải cái tanh của thịt cá thế tục đâu, mà cái gọi là “tanh” này chính là để chỉ những gia vị làm dậy mùi như hành, tỏi, rau thơm vân vân…nhằm tránh cho tăng sỹ ham luyến tục vật do ham ăn các thức ăn chế biến cầu kỳ. Còn thịt, cá, động vật... chỉ cần là “ba sạch”: 

- Một là ta không nhìn thấy người giết, 

- Hai là không phải ta giết, 

- Ba là không phải vì ta mà giết 

thì có thể ăn, nhằm tránh phạm giới "sát sinh".

Người xuất gia, đều dựa vào bố thí của các tín đồ. Tín đồ bố thí cái gì thì họ liền ăn cái đó, nào dám bắt bẻ điều gì. Cho đến thời Lương Vũ Đế (Hoàng đế triều Lương 464 – 549CN bên TQ), mới đề xuất bắt tu sỹ Phật giáo không được ăn thịt. Hoàng đế đã mở kim khẩu, đương nhiên ai dám chống lại, vậy là từ đó, các tăng nhân Phật giáo Bắc tông mới bắt đầu phải ăn chay.

Còn Phật giáo Nam Tông hay còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ, cho đến nay vừa ăn chay, vừa ăn mặn nhưng chỉ ăn 1 bữa trước giờ Ngọ (12h trưa - hình như bên Thiền tông và một số tông phái khác cũng áp dụng điều này) . Tuy nhiên, việc ăn mặn của Phật giáo Nam Tông phải tuân theo giới luật rất khắt khe và ở mỗi quốc gia theo hệ phái này cũng có nhiều điểm không đồng nhất.

Ảnh trên là bữa ăn trong ngày của các tăng sỹ Nam tông ở 1 ngôi chùa vùng Tây Nam bộ - Vừa có chay, vừa có mặn, nhưng yêu cầu phải ăn hết, không có thừa. Nên ta thấy, các tăng sỹ rất béo tốt, hồng hào.

Đồ ăn này hoàn toàn do các tăng sỹ đi khuyến (khất) thực hoặc Phật tử đem đến chùa từng bữa, chứ nhà chùa hệ Nam tông, phần lớn không có bếp.

Và ta còn thấy không có ni sư ̣(nữ giới) vì Nam tông tuân thủ theo nguyên tắc từ thời Đức Phật Thích ca còn tại thế, không chấp nhận Ni đoàn.

Phật tử có thể ngồi xung quanh để chứng kiến và tiếp thêm đồ ăn nếu thiếu.

 



* Mỗi lần vào Nam, tôi đều cố gắng tới nơi chiêm ngưỡng, tìm hiểu và rất ngưỡng mộ Tín Tâm của các tăng sỹ Nam tông. Rất mong sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin tới các bạn trong các bài tới.

03/08/2023

Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC KHẮC TRÊN "CỬU ĐỈNH" Ở HUẾ

 st trên net

 

 Mới đây, sau hai năm nghiên cứu và xây dựng hồ sơ, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đã hoàn thành hồ sơ di sản tư liệu cho Cửu đỉnh, trình Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xem xét trước khi đệ trình UNESCO công nhận Cửu đỉnh là Di sản tư liệu thế giới.


Bộ 9 chiếc đỉnh đồng lớn được đúc tại kinh thành Huế dưới thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn được bắt đầu vào tháng 10 năm Ất Mùi 1835, kéo dài tới đầu năm 1837 mới hoàn thành. Ngày 4/3/1837, triều đình nhà Nguyễn tổ chức lễ khánh thành và an vị cho Cửu đỉnh dưới sự chủ lễ của vua Minh Mạng.

Cửu đỉnh được coi như biểu trưng và là pháp khí của triều đình nhà Nguyễn đương thời. Sau khi đúc xong, 9 chiếc đỉnh này được an vị tại sân chầu trước Thế Tổ Miếu, phía sau Hiển Lâm Các trong Hoàng Thành (Đại Nội) - kinh thành Huế. Các đỉnh được đặt tên lần lượt là: Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Chương đỉnh, Anh đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh.

9 đỉnh được xếp một hàng ngang, đối diện 9 gian thờ trong Thế Tổ Miếu, tương ứng với 9 vua được thờ trong miếu. Riêng chiếc đỉnh lớn nhất (Cao đỉnh) là chiếc đỉnh ứng với vua Gia Long - vua sáng lập triều Nguyễn - được đặt chính giữa và nhích về phía trước so với 8 chiếc còn lại.


Cửu đỉnh được đúc theo phương thức thủ công truyền thống. Khuôn đúc bằng đất sét cũng được tạo tác thủ công vô cùng tỉ mỉ. Sau khi hoàn thành, tất cả khuôn đúc được phá bỏ để tránh sự sao chép. Tạo hình các đỉnh, cũng như các hình khắc, hoa văn, họa tiết trên Cửu đỉnh vô cùng tinh xảo, và là một sự đa dạng trong thống nhất, chưa từng có ở các công trình, tác phẩm mỹ thuật đã tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy Cửu đỉnh là độc bản, không lặp lại ở bất kỳ nơi đâu. 9 chiếc đỉnh được coi là bộ bách khoa thư của Việt Nam được các học sĩ thời phong kiến soạn ra một cách tổng quát, phong phú, tài tình.

Trên mỗi đỉnh có 18 (là bội của 9) hình khắc theo cách chạm nổi, ngoại trừ một hình khắc tên của đỉnh thì 17 hình còn lại là những hình ảnh mô tả cảnh vật, sản vật của đất nước. Tổng cộng có 153 hình ảnh đậm tính dân tộc, tính dân gian cùng tên gọi được khắc trên 9 đỉnh. Các hình này được phân thành các nhóm, mỗi nhóm có 9 hình khắc trên 9 đỉnh như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền...


Cửu đỉnh cũng được coi là bộ sách địa chí của Việt Nam, với những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu được giới thiệu đủ trên khắp 3 miền, thể hiện một tư tưởng hoà bình, thống nhất đất nước. Đặc biệt, triều đình nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền lãnh hải quốc gia Việt Nam trên Cửu đỉnh ở 3 chiếc đỉnh lớn nhất. Đó là hình ảnh của Đông Hải (Biển Đông - khắc trên Cao đỉnh), và cả các vùng biển Nam Hải (biển phía nam đất nước, khu vực các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau - khắc trên Nhân đỉnh), Tây Hải (biển phía tây đất nước, khu vực các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, giáp vịnh Thái Lan - khắc trên Chương đỉnh).

Trên hình là Đông Hải (Cao đỉnh) là vùng biển phía đông đất nước.



Trên hình là Ngự Bình Sơn khắc trên Nhân đỉnh - núi Ngự Bình là ngọn núi phía trước Kinh thành Huế, được coi là "tiền án" của Kinh thành.


Hương Giang khắc trên Nhân đỉnh - sông Hương, dòng sông lớn ở Thừa Thiên Huế, chảy qua trước Kinh thành Huế và đổ ra biển ở cửa Thuận An.


Hồng Sơn khắc trên Anh đỉnh - núi Chim Hồng còn gọi là Hồng Lĩnh là dãy núi lớn ở Hà Tĩnh.


Bạch Đằng Giang khắc trên Nghị đỉnh - sông Bạch Đằng là con sông lớn ở đông bắc Tổ quốc, chảy qua các tỉnh thành Quảng Ninh, Hải Phòng. Sông Bạch Đằng ghi dấu lịch sử với những trận thuỷ chiến chống quân xâm lược.


Tản Viên Sơn khắc trên Thuần đỉnh - núi Tản Viên, ngọn núi thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Ba Vì - Hà Nội. Tản Viên là ngọn núi gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh trị thuỷ.


Hoành Sơn khắc trên Huyền đỉnh - núi Hoành Sơn hay Đèo Ngang, dãy núi ranh giới giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ; xưa kia là ranh giới Đại Việt - Chăm Pa. Trên núi có một trấn ải là Hoành Sơn Quan đến nay vẫn tồn tại.


Đà Nẵng Hải Khẩu khắc trên Dụ đỉnh - cửa biển Đà Nẵng (còn gọi là cửa Hàn, vịnh Hàn), nơi sông Cẩm Lệ chảy về vũng Hàn rồi đổ ra biển.


Đại Lĩnh khắc trên Tuyên đỉnh - núi Đại Lĩnh (Đại Lãnh), dãy núi lớn là ranh giới giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà.


Hậu Giang - Tiền Giang khắc trên Huyền đỉnh - sông Tiền và sông Hậu, hai con sông chảy qua và có ảnh hưởng lớn với nhiều tỉnh thành Nam Bộ.