Hiển thị các bài đăng có nhãn Nếp xưa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nếp xưa. Hiển thị tất cả bài đăng

12/06/2025

Quan điểm của Trung Y về ăn uống

 Từ trang Vạn điều hay

 


Khi nhắc đến Trung y (y học Trung quốc), phần lớn người ta nghĩ ngay đến thang thuốc, kim châm hay châm cứu. Nhưng ít ai biết rằng, các bậc danh y như Hoa Đà, Tôn Tư Mạc, Lý Thời Trân, những cây đại thụ trong y học phương Đông, đều coi trọng một điều tưởng chừng bình thường nhất: Ăn - Uống.

Ăn uống không đơn thuần là nuôi thân, mà là hành trình dưỡng Đạo

Trong tư tưởng Đạo gia, con người là một phần của tiểu vũ trụ, sống hòa điệu với đại vũ trụ. Dưỡng sinh không phải chỉ để trường thọ, mà là phương pháp sống thuận với Đạo. Trong đó, ăn uống giữ vai trò trung tâm: tiếp nhận năng lượng từ thiên nhiên, từ ngũ cốc, rau củ, thực phẩm theo mùa, để nuôi dưỡng khí huyết, điều hòa âm dương.

Tôn Tư Mạc (541–682), bậc Thánh y thời Tùy Đường, từng nói: “Người muốn sống thọ, trước hết phải điều hòa ẩm thực. Ăn uống vô độ, dù có uống thuốc thần tiên cũng vô ích.

Ông khuyên người đời phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chính ông tự tay chọn thực phẩm, hái thuốc theo mùa, ăn uống giản dị, ẩn cư nơi núi rừng, sống khỏe mạnh đến hơn trăm tuổi. Với ông, ăn là một hành vi trị bệnh, là tu dưỡng mỗi ngày.

Một lần, có người nghèo tìm ông xin thuốc. Ông không cho toa ngay, chỉ dặn: “Về, mỗi sáng uống một bát cháo gạo lứt, thêm một lát gừng. Ba tháng quay lại.” Sau đó người ấy khỏi bệnh mà không dùng đến một viên thuốc nào.

Không chỉ là ăn uống, Trung y còn coi vận động là yếu tố then chốt hỗ trợ tiêu hóa, điều hòa khí huyết.

Hoa Đà (145–208), vị danh y thời Tam Quốc, không chỉ nổi tiếng với khả năng phẫu thuật mà còn là người sáng tạo ra bài Ngũ Cầm Hí, ông mô phỏng động tác của hổ, hươu, gấu, vượn, chim. Bài tập kết hợp hít thở, vận động nhẹ nhàng giúp khí huyết lưu thông, hỗ trợ tiêu hóa, giải uế khí từ thực phẩm.

Hoa Đà nói: “Người ăn uống có tiết chế, vận động điều hòa, tâm không phiền não, thì sống đến trăm tuổi vẫn chưa già.” Khi có người hỏi về thuốc trường sinh, ông chỉ mỉm cười, chỉ vào bát cơm lứt, chén trà ấm và một bài tập sáng sớm giữa sương mai.

Đến đời Minh, Lý Thời Trân (1518–1593), danh y và là tác giả bộ “Bản Thảo Cương Mục”, tiếp tục khẳng định: “Thức ăn là gốc, thuốc là ngọn. Nếu muốn không bệnh, thì gốc phải vững.”

Trong hơn 1.800 loại dược liệu mà ông ghi chép, rất nhiều là thực phẩm quen thuộc: vỏ quýt khô, củ sen, ý dĩ, đậu đỏ… Ông không chỉ ghi công dụng mà còn hướng dẫn cách nấu, cách phối hợp món ăn theo âm dương ngũ hành.

Ví dụ, người tâm nhiệt nên dùng vị đắng như khổ qua, lá sen để thanh tâm hỏa; người tỳ hư dùng vị ngọt như khoai lang, đậu xanh để bổ trung tiêu; người phổi yếu cần vị cay nhẹ như gừng, hành để phát tán biểu tà. Mỗi món ăn là một phương thuốc mềm mại, đi vào cơ thể không gây phản ứng phụ, mà bồi bổ lâu dài.

Tôn Tư Mạc cũng dạy: “Người ở phương Bắc nên ăn thịt dê, người phương Nam nên ăn cá và rau. Người già ăn mềm, người trẻ ăn cứng. Làm ruộng ăn mặn, làm văn nên ăn thanh.” Điều này không chỉ là dinh dưỡng, mà là sống hợp khí hậu, hợp thể chất, hợp công việc. Đó là trí tuệ ứng dụng.

Cả ba vị danh y sống cách nhau hàng trăm năm, nhưng cùng chung một nhận thức: ăn uống là tu thân, là giữ Đạo.

Họ không tuyệt đối hóa thực phẩm, không cực đoan trong kiêng khem. Họ dạy người đời hiểu rõ thể chất, sống đúng tiết khí, ăn đúng lúc – đúng vị – đúng lượng. Không cần thần dược, không cần đắt đỏ. Một chén cháo, một nắm đậu, một củ gừng, nếu dùng đúng, thì còn hơn cả ngàn viên thuốc.

Trong thời hiện đại, người ta ăn để no, để ngon, để thỏa mãn. Nhưng Trung y nhắc nhở ta rằng: mỗi bữa ăn là một chọn lựa cho sức khỏe tương lai. Là một hành vi đạo đức với chính cơ thể mình.

Dưỡng sinh, xét đến cùng, không nằm trong sách vở cao siêu, mà ở cách ta nâng niu từng bữa cơm thường ngày. Biết ăn, biết sống, chính là biết giữ gìn sinh mệnh, một cách khiêm nhường mà sâu sắc.

 

10/06/2025

Tiếng Việt

 Lưu Quang Vũ

 


Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt...”
Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.

Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.

Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu?

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình...


31/05/2025

Nghĩa một số từ ghép - nối ít để ý tới hay không hiểu nghĩa trong tiếng Việt ta

 Nhặt nhạnh từ nhiều nguồn

 


Từ thời xa xưa, ngôn ngữ Việt Nam đã rất đa dạng, phong phú. Nhất là những từ ngữ cổ bởi chúng có thể diễn tả sâu sắc nội tâm của con người, diễn tả chi tiết về sự vật, hiện tượng…. Cho đến ngày nay, chúng vẫn tồn tại nhưng lại thường bị mất nghĩa hoặc bị hiểu sai.

Dưới đây là một số từ cổ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại có ý nghĩa rất bất ngờ và thú vị.

Chúng ta vẫn thường nói: “em yêu dấu”, ‘yêu’ thì hiểu rồi, nhưng ‘dấu’ nghĩa là gì?

Dấu’ là một từ cổ, sách Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘dấu’ nghĩa là ‘yêu mến’. Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (1651) cũng giải thích ‘dấu’ là một từ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho ví dụ: Thuốc dấu là ‘bùa để làm cho yêu.

Tục ngữ Việt Nam nói:

- ‘Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu’, còn Hồ Xuân Hương trong bài thơ Cái quạt giấy (bài hai) thì viết

- ‘Chúa dấu vua yêu một cái này’.

Có thể thấy, ‘dấu’ và ‘yêu’ là hai từ có ý nghĩa tương đương, ngày xưa dùng hai từ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy từ ‘yêu’ vẫn còn được viết hay nói một mình, còn từ ‘dấu’ thì không ai dùng một mình nữa. Giờ đây, thay vì ‘anh yêu em’ mà nói ‘anh dấu em’ thì không khéo lại bị hỏi ‘anh giấu cái gì?’.

Trong từ ‘chợ búa’ thì ‘búa’ có nghĩa là gì?

Búa’ là âm xưa của chữ [], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là ‘phố’, nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán.

‘Búa’ trong ‘chợ búa’ chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến được xem là vững chắc nhất thì cho rằng ‘búa’ là âm xưa của chữ [], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là ‘phố’, nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Chợ búa nói chung là nơi người ta tụ tập mua bán.

‘Búa’ trong tiếng Việt hiện đại đã dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa thì không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều từ cổ bị mất nghĩa khi đứng một mình, nhưng chúng không vô nghĩa.

Người ta nói ‘gậy gộc’, ‘gậy’ thì hiểu rồi, còn ‘gộc’?

Gộc’ là ‘cây củi có khúc đẩn lớn cũng là ‘đoạn gốc của cây tre, cây vầu’ hay có nghĩa là ‘to lớn’.

‘Gộc’ là từ mà hiện nay đã không còn nghĩa độc lập. Tiếng Hán, ‘gộc’ là chữ này []. Sách ‘Đại Nam quốc âm tự vị’ của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘Gộc’ là ‘cây củi có khúc đẩn(?) mà lớn’ và cho ví dụ ‘ông gộc’ là người già cả hơn hết hoặc làm lớn hơn hết trong một xứ. Cũng có tài liệu giảng ‘gộc’ là ‘đoạn gốc của cây tre, cây vầu’ hay có nghĩa là ‘to lớn’.

Theo đó, gậy gộc nghĩa là những cây gậy lớn, thường dùng để đánh nhau.

Mình hay nói ‘hỏi han’ nhau, ‘hỏi’ thì rõ nghĩa rồi, vậy ‘han’ có nghĩa không?

Tương tự như ‘gậy gộc’, ‘hỏi han’ không phải là từ láy mà là từ ghép đẳng lập, trong đó cả ‘hỏi’ và ‘han’ đều có nghĩa.

‘Han’ nghĩa là ‘hỏi tới’, ‘nói tới’.

Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giải thích: ‘han’ nghĩa là ‘hỏi tới’, ‘nói tới’. Theo đó, ‘hỏi han’ nghĩa là hỏi một việc gì đó, hỏi tới hay nói tới một việc nào đó.

Truyện Kiều của Nguyễn Du từng dùng ‘han’ như một từ độc lập, không dính đến từ ‘hỏi’, trong câu:

‘Trước xe lơi lả han chào

Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi’

(Phần Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh). ‘Han chào’ chính là chào hỏi.

Khi mình nói về một chuyện gì đó ‘to tát’ thì ‘tát’ có nghĩa là gì?

Tát’ đúng ra phải dùng là ‘tác’.’Tác’ nghĩa là lớn, ta thường gặp qua từ ‘tuổi tác’.  

‘To tát’ không phải là từ láy mà là từ ghép, cả ‘to’ và ‘tát’ đều có nghĩa. Tuy nhiên, ‘tát’ ở đây là một minh chứng cho hiện tượng dùng sai nhiều thì thành đúng trong ngôn ngữ. ‘Tát’ đúng ra phải dùng là ‘tác’.

‘Tác’ nghĩa là lớn, ta thường gặp qua từ ‘tuổi tác’. Khi nói ‘tuổi tác’ thì đã mang nghĩa lớn tuổi, già rồi. Tuy nhiên, ngày nay mình hay nói ‘tuổi tác đã lớn’, cách nói này xét về nguồn gốc thì không đúng, bị lặp từ.

Do trong quá trình sử dụng đã có nhiều biến chuyển, nên ‘tuổi tác’ thường dùng để chỉ tuổi. Thậm chí tuổi còn nhỏ cũng dùng ‘tuổi tác’, ví dụ: ‘Tuổi tác còn nhỏ’, ‘tuổi tác mới có bây lớn’,…

Riêng từ ‘to tác’ để chỉ cái gì đó lớn thì đã dùng thành ‘to tát’. Tuy nhiên, để viết đúng chính tả tiếng Việt hiện đại thì mình vẫn cứ dùng ‘to tát’.

Có câu, ‘cần cù bù thông minh’, ‘cần cù’ là từ láy hay từ ghép? ‘Cù’ có nghĩa gì không?

‘Cần’ là siêng năng chăm chỉ, ‘cù’ là khó nhọc, vất vả.  

‘Cần cù’ là từ ghép, cả ‘cần’ và ‘cù’ đều có nghĩa. Đây là từ gốc Hán, viết là 勤劬. ‘Cần’ là siêng năng chăm chỉ, ‘cù’ là khó nhọc, vất vả.

Chữ ‘cù’ này còn xuất hiện trong từ ‘cù lao’ () chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).

Truyện Kiều có câu:

‘Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’.

Không nên nhầm lẫn từ ‘cù lao’ này với từ ‘cù lao’ chỉ cồn đất/cát nổi lên giữa sông do phù sa bồi lắng.

Bếp núc

– Bếp là nơi nấu ăn;

– Núc là ‘đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn’, cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị)

Thêu thùa’ là từ ghép tổ hợp (hay ghép đẳng lập), trong đó cả thêu và thùa đều có nghĩa

 – Thêu là dùng chỉ màu đính lên bề mặt vải làm ra hoa văn;

– Thùa là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.

Về cơ bản thì thêu và thùa giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng thùa đôi khi còn có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.

Vải vóc’ là một từ ghép với chữ ‘vóc’ cũng có nghĩa

– Vải là chỉ bông hoặc đồ dệt bằng chỉ bông;

– Vóc là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.

Ngày nay thì vải không nhất thiết là dệt bằng chỉ bông mà có thể dệt bằng nhiều chất liệu khác. Còn vóc thì ít khi thấy dùng một mình nữa, người ta thường lầm tưởng ‘vải vóc’ là từ láy.