Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên nhiên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên nhiên. Hiển thị tất cả bài đăng

03/06/2025

Trí tuệ loài Voi

 St trên net

 


Các bạn sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng cần vận chuyển một con voi bằng máy bay – chẳng hạn từ Ấn Độ sang Hoa Kỳ – người ta đặt vào lồng cùng với nó… những chú gà con!

Vâng, những chú gà con bé xíu, đáng yêu!

Tại sao ư?

Bởi vì, dù mang thân hình to lớn khổng lồ, voi lại rất sợ làm tổn thương những sinh vật bé nhỏ. Nó không dám cử động suốt chuyến bay, vì sợ đè trúng những chú gà con. Và chính điều đó giúp giữ sự cân bằng cho máy bay. (các bạn tưởng tượng sẽ thấy, voi trong lồng dưới khoang hành lý, đáy máy bay, do bất an mà hỏang loạn lồng lộn thì hậu quả sẽ ra sao?)

Đó là một minh chứng đầu tiên về sự cao quý trong tâm hồn của loài voi.

Các nhà khoa học, say mê trước hành vi của voi, đã tiến hành nghiên cứu và phân tích não bộ của chúng.

Họ phát hiện rằng não voi chứa một loại tế bào thần kinh cực kỳ hiếm – gọi là tế bào hình thoi.

Đây cũng chính là loại tế bào có ở con người, và chúng chịu trách nhiệm cho ý thức về bản thân, sự đồng cảm và nhận thức xã hội.

Nói cách khác… voi không chỉ lớn về thân xác, mà còn vĩ đại về cảm xúc và phẩm cách.

Leonardo da Vinci – thiên tài đam mê động vật – từng nói về loài voi:

Con voi có sự ngay thẳng, khôn ngoan và tiết độ trong bản tính của nó.”

Ông còn mô tả rất đẹp về chúng:

Khi xuống sông tắm, voi bước đi đầy trang nghiêm, như thể đang thanh tẩy bản thân khỏi mọi điều xấu xa.

– Nếu thấy con người bị lạc, nó sẽ nhẹ nhàng đưa họ trở lại đúng đường.

– Voi luôn di chuyển theo đàn, có trật tự, được dẫn dắt bởi một con đầu đàn.

– Voi sống kín đáo… chỉ giao phối vào ban đêm, ở nơi riêng tư, sau đó lại tắm rửa trước khi quay về với đàn.

– Nếu trên đường gặp đàn thú khác, voi sẽ dùng vòi nhẹ nhàng đẩy chúng sang bên để tránh gây tổn thương.

Và điều xúc động nhất…

Khi biết mình sắp chết, con voi lặng lẽ rời khỏi đàn, đi một mình đến nơi xa để lìa đời…

Tại sao?

Vì nó không muốn bất kỳ ai – nhất là những con non – nhìn thấy mình chết và mang nỗi buồn ấy trong tim.

Thật là một loài sinh vật mang trong mình phẩm giá, lòng từ bi, và sự cao thượng…

Những phẩm chất mà đôi khi… loài người cũng không có được.

 

14/04/2025

Sự khác biệt giữa Nam cự và Bắc cực

 Lưu Khâm Hưng - Tinh tế

 

Trên Trái Đất của chúng ta có 2 vùng cực: Bắc Cực (Arctic - có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Arktikos) nằm ở phía Bắc và Nam Cực (Antarctic - có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Antarktikos) nằm ở phía Nam. Vậy ngoài tên gọi ra thì ta còn cách nào để phân biệt chúng trong khi cả 2 đều là nơi khắc nghiệt nhất nhì thế giới?


Hai vùng này có khá nhiều điểm đối lập nhau, Bắc Cực thực chất là một đại dương được bao quanh bởi đất liền còn Nam Cực là một châu lục được bao quanh bởi đại dương. Về động vật đặc hữu thì Bắc Cực có gấu trắng mà không có chim cánh cụt và Nam Cực có chim cánh cụt mà không có gấu trắng.


Bắc Cực

Bắc Cực bao gồm vùng đại dương băng giá rộng lớn bao quanh là tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu đến cây cối còn khó sống nổi. Khi đứng ở cực Bắc thì dù nhìn về hướng nào cũng đều là hướng Nam. Cực Bắc nằm ở giữa giữa đại dương, được bao phủ bởi lớp băng dày và thường xuyên di chuyển. Nếu bạn lỡ chân rớt xuống nước bạn sẽ trở thành hóa thạch băng và chìm xuống độ sâu lên đến 4000m.


Trên mặt nước, nhiệt độ trung bình vào mùa đông có thể xuống dưới -40 độ C và nhiệt độ lạnh nhất từng được ghi nhận vào khoảng -68 độ C. Bất chấp những điều kiện khắc nghiệt này, con người vẫn có khu dân cư ở Bắc Cực hàng ngàn năm nay. Ngoài con người, hệ sinh thái ở Bắc Cực còn có các loài sinh vật sống trên băng, động thực vật phiêu sinh, cá, chim, động vật có vú dưới nước, động vật trên đất liền và thực vật.


Nam Cực

Nam Cực là châu lục nằm ở cực Nam Trái Đất. Nó là châu lục rộng thứ 5 thế giới với diện tích hơn 14.000.000km2, gấp gần 2 lần kích thước của Australia. Khoảng 98% diện tích Nam Cực là băng tuyết dày ít nhất 1600m do đó, điều kiện sống ở Nam Cực được coi là khắc nghiệt nhất trên toàn thế giới.


Nam cực sở hữu nhiều cái nhất bao gồm: châu lục lạnh nhất, gió nhiều nhất, khô nhất và có độ cao cách mặt nước biển trung bình cao nhất trong tất cả các châu lục. Dù tuyết rơi suốt ngày, nhưng Nam Cực lại rất khô, nó được coi là sa mạc với lượng mưa trung bình hàng năm chỉ 200 mm dọc bờ biển và ít hơn rất nhiều nếu sâu vào trong đất liền.


Nhiệt độ ở Nam Cực có thể đạt đến -89 độ C. Vì nó quá khắc nghiệt nên không có dân cư sinh sống, chỉ có khoảng 1000 - 5000 người sống tại các trạm nghiên cứu phân bố dọc châu lục. Ngay cả những động vật và thực vật cũng rất hiếm hoi, chỉ có những loài thích nghi được cái lạnh mới có thể sống sót, bao gồm các loài tảo, sinh vật nguyên sinh, vi khuẩn, nấm và một số ít động thực vật.


Nhưng tại sao Nam Cực lại lạnh hơn Bắc Cực?

Có khá nhiều lí do để giải thích vấn đề này:

Đầu tiên, các bạn có biết vì sao trên các đỉnh núi thường có tuyết không? Đó là vì càng lên cao nhiệt độ sẽ càng giảm và điều đó cũng giải thích cho lí do Nam Cực lại lạnh như vậy, phần lớn châu lục này cao hơn mực nước biển trung bình đến 3000m.


Thứ hai, hãy nhớ là Bắc Cực thực ra là một đại dương đóng băng mà nước thì giữ nhiệt tốt hơn đất liền, phần nước ở đại dương ấm hơn sẽ truyền nhiệt qua lớp băng, điều này làm cho nhiệt độ ở Bắc Cực không đạt tới mức cực đại như bề mặt đất liền ở Nam Cực.


Thứ ba, các mùa đều chống lại Nam Cực. Vào khoảng tháng 7, khi Trái Đất xa Mặt Trời nhất, thì phần Bắc Bán cầu lại quay về hướng Mặt Trời nên ấm áp hơn trong khi phần Nam bán cầu lại quay ra xa mặt trời khiến lạnh càng thêm lạnh và lúc đó cũng chính là mùa đông ở Nam Cực, làm cho cực Nam lạnh gấp hai lần.


Nhưng dù không là nơi cư trú được, nhưng Cực Bắc và Cực Nam có những tác động tích cực cho Trái Đất theo cách riêng của nó. Cả hai vùng cực đều là “trung tâm” điều chỉnh khí hậu rất quan trọng với hành tinh chúng ta, chúng giúp cân đối nhiệt độ và đem đến cho chúng ta khí hậu ổn định. Và khi băng ở Bắc Cực giảm do biến đổi khí hậu, khí hậu trên Trái Đất trở nên bất ổn.

Ở cả Bắc Cực và Nam Cực, độ che phủ băng thay đổi trong năm, tăng lên vào mùa đông tối tăm kéo dài và tan chảy vào mùa hè nắng nóng. Phần lớn biến động về độ che phủ băng ở cả Bắc Cực và Nam Cực đều do băng biển trôi nổi, mở rộng và tan chảy. Do Bắc Cực hầu như được bao quanh hoàn toàn bởi đất liền, băng biển ở đó không di động nhiều như băng biển ở Nam Cực. Do có nhiều khả năng hội tụ hơn, thông thường băng biển Bắc Cực dày hơn 2 - 3 m so với băng biển Nam Cực (dày 1 - 2 m), theo Trung tâm băng và tuyết quốc gia (NSIDC).

Trung bình, băng biển Bắc Cực đạt phạm vi tối thiểu khoảng 6,5 triệu km2 và phạm vi tối đa 15,6 triệu km2, theo NSIDC. Để so sánh, băng biển Nam Cực có phạm vi tối thiểu nhỏ hơn 3,1 triệu km2 và phạm vi tối đa 18,8 triệu km2. Tuy nhiên, Nam Cực sở hữu tổng lượng băng nhiều hơn Bắc Cực, bao gồm băng trên đất liền và băng biển. Thềm băng ở Nam Cực dày tới 4,8 km và rộng khoảng 13,7 triệu km2. Tổng cộng, Nam Cực chứa khoảng 90% lượng băng trên thế giới.

 

 

23/06/2022

Chúa tể rừng taiga - hổ Amur

st trên net

Hổ Siberia, còn có tên hổ Amur hay hổ Ussuri được mệnh danh là "Chúa tể của rừng Taiga". Đây là động vật thuộc họ mèo lớn nhất thế giới, nặng trung bình khoảng 350 kg, cơ thể vạm vỡ với bộ lông dày tuyệt đẹp.

Hổ Siberia sống chủ yếu trong rừng taiga - loại rừng lá kim xứ lạnh đặc trưng ở vùng Siberia của nước Nga. Chúng có bộ lông rậm và dày hơn so với các nòi hổ khác, nhờ đó có thể chịu được cái lạnh khắc nghiệt vào mùa đông băng giá. Hổ Siberia sống đơn độc. Thức ăn của chúng là những động vật ăn cỏ như hươu, nai sừng tấm và tuần lộc. Những con hổ Siberia lớn còn săn cả gấu nâu để làm thức ăn.

Tiếc thay, với số lượng hiện nay chỉ còn khoảng 400, hổ Siberia là một trong 10 loài động vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng cao nhất trên thế giới bởi nạn khan hiếm thức ăn và săn bắt trái phép. Do mùa đông kéo dài và nhiệt độ xuống thấp nên loài hổ này bị cạn nguồn thức ăn. Điều này buộc chúng phải tìm đến gần các khu vực dân cư để kiếm ăn và đây chính là một trong những nguyên nhân chúng dễ bị mắc bẫy của những tay thợ săn trộm...

    Dưới đây là một số hình ảnh về loài động vật họ mèo này:

30/05/2022

ĐONG ĐƯA BỐNG DỪA

 

Bài: Tạ Tri, ảnh: Tấn Tới

 


Với tôi, thịt bống thân quen như hơi thở. Thuở còn bú mớm đã nghe tiếng hát ru: 

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. 

Bậu ra bậu lấy ông câu. 

Bậu câu cá bống, chặt đầu kho tiêu.

Kho tiêu, kho ớt, kho hành. 

Kho ba lượng thịt để dành mà ăn...

Bống dừa kho tiêu

Hồi mới tập ăn dặm, đã sớm làm quen với những muỗng cơm nhai nhuyễn thịt bống dừa hay bống cát. Tuổi nhỏ chuyên mê chơi, ưa trốn ngủ trưa, đầu trần dang nắng, để nửa đêm nóng sốt mê man. Chớm khỏi bệnh, vẫn là những muỗng cháo lềnh thịt bống, đong đầy tình mẹ!

Nhớ bống cố hương

“Trọng trọng” một chút, 12 - 15 tuổi, tôi đã háo hức cùng đám bạn cùng xóm nghèo, ven biển Đám Lá Tối Trời (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), lội bộ mấy cây số đặt lọp, thục hang, câu cá bống dừa, bống trứng… phụ lo bữa cơm chiều.

Thời đó, khoảng 30 năm trước, sông rạch Soài Rạp dư giả cá tôm. Mỗi đứa chúng tôi, lặn lội khoảng vài ba tiếng đã nghe nằng nặng giỏ, từ nửa ký đến 1kg cá, dư ăn cả nhà.

 

Ngẩn ngơ, bống dừa kho tộ

Nếu muốn xúc hoặc thụt cá bống trong hang, phải đợi những ngày con nước kém, canh lúc con nước ròng sát. Men theo những ngọn rạch ngoằn ngoèo, um tùm những tán cây giá, mắm, dừa nước… de ra giao ngọn.

Có vũng rộng cỡ cái mâm, ngầu đục, sâu hơn tấc nước, quần tụ ba - bốn “trự” bống dừa đen bóng, có con gần bằng ngón chân cái người lớn. Người bắt chỉ cần khom lưng, khéo léo dùng hai tay nắm chặt miệng rổ, xoay tròn, tạo một lực hút xoáy đủ mạnh để cá bị cuốn vào lòng rổ (còn gọi chao). Cách bắt này, thường đơn lẻ hoặc sánh đôi hai người đi cặp một mương, không vui bằng câu.

Đi câu, thường theo nhóm năm, sáu người, chuyện trò rôm rả hơn. Mồi bén của lũ bống thường là thịt tép (bạc hoặc đất nhỏ) hay mồi trùn. Với mồi tôm, cá ăn nhạy hơn nhưng rất hao mồi. Khi thấy cục phao câu (bằng nhựa hoặc cờ bắp khô) chìm xuống, chạy xa gần một tấc, người câu chỉ cần gặt ngang- mạnh vừa phải, rồi nhanh tay kéo lên.

Nay, lượng cá bống cố hương đã thưa thớt dần. Mặc dù vậy, vẫn còn những người bắt cá bống mưu sinh.

Giai tầng nhà bống

Trước nay “phẩm hạnh” con bống lọ lem luôn được xếp chiếu dưới so với bống cát - thịt luôn chắc, ngọt hơn. Phần do “cơ địa” bống đàn anh ưa vùng vẫy nơi tầng đáy, phần thích khoét hang sâu ở vùng cửa sông, thường có nước xoáy để phục con mồi (cá, tép, cua con…). Kiểu như, con bống thệ, ưa sống nơi hợp lưu Hương Giang vậy.

Thanh thoát, bống dừa “nấp” bụi chuối


Bù lại, hợp tấu món ngon, món mới bống dừa cứ thi nhau nẩy nở trong dân gian. Và để tránh đơn điệu, buộc những thím Ba, chú Bảy phải vắt óc suy nghĩ món mới thật hấp dẫn.

Còn anh lớn bống cát, thường quanh quẩn với các món kho tiêu, nấu cháo, hấp. Cần nói thêm, con bống đen sống được cả nước ngọt và lợ. Ở những vùng nước lợ như Trà Vinh, Cần Giờ (TP.HCM), Gò Công Đông (Tiền Giang), thịt cá thường dẻo chắc và ngọt “bạo” hơn miệt nước ngọt: Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ…

Nói nào ngay, thịt đám bống lọ lem kia vẫn có độ bở nhất định, do chúng thường an phận ở những vùng nước cạn, dòng chảy lờ đờ. Tuy vậy, gặp đầu bếp khéo tay, hiểu rõ ngọn ngành con bống vẫn có những bữa ăn thần tiên.

Mộc mạc tình quê


Hãy bắt đầu với món mộc, già cỗi vẫn chưa lỗi thời: nướng lá chuối. Ướp với ít muối ớt giã cùng tí bột ngọt, tiêu và rất ít nước mỡ heo hoặc dầu ăn. Gói lá chuối, nướng lửa than. Hoa mỹ hơn, còn gọi món “bống dừa spa”.

Nhớ đợi cá thấm gia vị khoảng 15 phút. Gói hai lớp lá chuối. Chọn lá chuối sứ (xiêm) hoặc chuối hột sẽ dễ gói hơn chuối già, do có độ dẻo nhất định. Lớp trong là lá chuối non tơ. Lớp kế, chọn lá dày dày (không già, không non). Muốn lá chuối mềm dẻo như ý, chỉ cần bạn hong nhanh hai mặt lá qua lửa than hoặc bếp ga. Riêng lớp ngoài cùng là giấy bạc.

Nướng đều hai mặt, 18-20 phút thì cá chín. Cẩn thận giở lớp giấy bạc ra. Chịu khó hong lại lửa than từ nóng vừa xuống còn âm ấm.Vẫn trở đều hai mặt, để tinh dầu lá chuối và nước ngọt cá rút ngược trở lại, ám chặt vào thịt da cá.

Nướng điệu nghệ, những sớ thịt cá trắng tươi, mỏng manh sẽ co rút lại, thêm săn chắc.

Ấn tượng nhất là mùi thơm lan tỏa, dìu dịu gợi nhớ đồng quê đến nao lòng, lúc mới giở lá ra. Tinh dầu lá chuối tươi sục sôi cuộn trào với chất béo ngọt của mỡ heo và mỡ cá (chủ yếu từ gan bé tẹo), rồi ám khói than đước rực hồng, hòa quyện thành một làn hương vừa nồng nồng vừa ngai ngái mùi khói đốt đồng trộn lẫn mùi khói rơm cơm chiều nồng cay. Sướng thấu trời, rượu mềm môi mà chẳng thấy say! Nhưng vẫn chưa là gì so với “bống dừa túy quyền”.

Nửa tỉnh nửa say…

Cái thần của món nằm này ở chỗ, đạt đến sự phối kết uyển chuyển giữa men rượu nhẹ (nước cơm rượu hoặc bia) với nhựa trái chuối chát và con bống cong đuôi. Có hai cách để đúc ra dạng bống giả thệ kia.

Cá sau khi làm sạch, để ráo, ướp lạt với muối ớt, cỡ 15 -17 phút. Vớt ra, phơi độ 3 - 6 giờ, tùy nắng. Hễ bóp nhẹ vào mình cá nghe cứng tay là được.

Cách thứ hai, lấy cá đã ướp sơ đem hong trên lửa than, nếu gặp ngày mưa bão.

Tùy môi trường sống, da con bống dừa đen bóng hoặc nâu xám

Phần nước xúp chủ đạo, cỡ một chén nước dừa dâu lửa hoặc dừa xiêm. Thêm 2/3 ly bia, 4-5 trái chuối sứ chát cỡ gần bằng ngón chân cái người lớn + rau răm + lá quế xắt ba sồn + sả bằm, vài củ hành tím + 1 chén nhỏ mè rang giã nhuyễn + 1 muỗng canh dầu ăn/mỡ heo. Lượng: 500g bống dừa. Với ít nước tương ngon, muối, bột ngọt, ớt chim/hiểm. Nêm nếm tùy khẩu vị. Chuối, gọt sọc dưa, bỏ bớt vỏ xanh. Xắt dọc, cắt khúc vừa gắp. Xả mủ bằng nước cốt chanh pha nước muối loãng.

Đốt cách thủy tại bàn, đựng bằng “chiếc xuồng” inox (lập là). Ban đầu, tắm nóng cá bằng bia trước. Năm phút sau, rưới nửa chén nước dừa vào, thả luôn chuối xanh. Bảy phút sau, đã nghe thơm liêu xiêu. Ban đầu là hơi men la đà. Nối đuôi, chuỗi hậu vị hăng đắng, nồng nồng cũng rồng rắn bay theo. Cho mè vào, sôi bùng, nêm nếm lại. Buông rau răm + lá quế sau cùng. Nhớ canh lượng nước tổng thể vừa xâm xấp mình cá. Lửa riu riu... Một khi nhựa chuối, men bia cùng thịt cá… trao gửi hết cho nhau, mùi béo thơm thanh mảnh trỗi dậy tưng bừng!

Thịt cá, ngoài chất ngọt bùi nguyên sơ, còn được bọc lót dư vị đăng đắng nhè nhẹ của bia. Mặt khác, một khi nhựa chuối “hùn hạp” với men bia, kỳ cọ, tẩy trần, da thịt con bống chân quê bỗng vọt lên lên hàng mỹ thực. Cũng có người muốn phá cách, chêm vào vài muỗng tương hột (loại mặn) giã ba sồn. Còn muốn lai hơi hướng bống thệ chen “cơm” dừa cứng cạy (rám) lấn thịt ba rọi kiểu quý tộc Huế, cũng chẳng ai cấm!

Kho chỉ - ngon thần thánh!

Vẫn cốt liệu bống dừa phơi dốt dốt, chọn cỡ đầu ngón tay út đến ngón trỏ người lớn, sẽ dễ uốn nắn và mau thấm gia vị hơn. Cơm dừa rám, thịt ba rọi, rau răm thì không thiếu ở miệt vườn châu thổ.

Cái khó là kiếm được cỡ nửa chén nước cơm gạo lứt, gặp gạo nàng hương càng tuyệt cú mèo. Nêm rỉ rả lượng nước đó vào nồi cá kho, lúc sôi dạo nhì.

Mê mải, bống dừa nướng lá chuối


Thành quả sau cùng là, nồi bống kho “chỉ” óng ánh màu hổ phách. Dùng đầu đũa tre chấm xuống đáy nồi, kéo lên thong thả - bạn sẽ bắt gặp một lằn chỉ nhỏ vàng nâu, toòng teng đánh đu theo. Từng giọt nước cá thơm bùi, sóng sánh tựa những tinh thể mật ong ruồi thiên nhiên. Thử quẹt với dĩa gỏi cây chuối non xắt nhuyễn + đọt me non + rau muống bào + đọt keo… hoặc luộc cả rổ đọt thập cẩm vun ngọn: chùm bao (nhãn lồng/lạc tiên), khoai lang, rau muống, đậu bắp (bắp tây) lún phún lông tơ… Gặp mưa lất phất hay tiết trời se lạnh, kể như tê tái cõi lòng!

Lãng du cũng khá, nếm trải sơn hào hải vị không ít, thế mà thằng tôi vẫn chưa thỏa. Chợt một ngày, cái đuôi con bống dừa tần tảo quẫy khẽ trong vòm miệng như nhắc khéo: muốn ngon phải thuần tự nhiên.

Nếu quả vậy, ông bà ta thuở xưa ăn uống khôn ngoan hơn đám hậu sinh đến mấy bậc!