Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhìn và Ngẫm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhìn và Ngẫm. Hiển thị tất cả bài đăng

28/06/2024

Cái nhìn Triết Lý Phật - Đạo trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng

 st và biên tập - Không rõ tác giả.

Tiêu đề là do Tuấn Long đặt

Tranh: Tôn Ôn đời Thanh


Thời trẻ đọc "Hồng Lâu Mộng" nhưng không biết tác phẩm muốn gửi gắm điều gì. Hơn nữa lại bị các nhà nghiên cứu Hồng học (là bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về “Hồng Lâu Mộng”) qua các thế hệ dẫn đi sai đường, nên tôi cứ ngỡ đây là một tác phẩm nói về tình yêu đôi lứa, về chốn quan trường phù du, về lòng người dễ đổi, hay tiếng chửi đổng của Tiêu Đại, phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác và cuộc đấu tranh kẻ sống người chết.

Nhưng khi đến cái tuổi “bất hoặc” (tuổi 40), đọc lại "Hồng Lâu Mộng" tôi mới nhận ra đây là tác phẩm khuyên bảo con người nhìn thấu cõi hồng trần và hướng tới cảnh giới của Thần, Đạo, Tiên.

1. Thật thật giả giả, ẩn chứa thiên cơ

“Hồng Lâu Mộng” thực ra là một cuốn sách răn dạy của Phật và Đạo. Tại sao có thể khẳng định như vậy? Sau đây là một số dẫn chứng:

Trong Hồi 1, khi nhân vật đầu tiên xuất hiện trong truyện – Chân Sĩ Ẩn – nằm mơ đi vào cõi ảo mộng, ông đã nhìn thấy một câu đối trên cổng đá như sau: “Giả tác chân thời chân diệc giả, vô vi hữu xứ hữu hoàn vô”. Ý nghĩa của hai câu này là: "Khi chúng ta coi cái giả là thật, thì cái thật cũng giống như cái giả; khi chúng ta coi những cái hiện hữu là hư vô, thì thứ thực sự tồn tại ấy cũng chẳng khác gì hư vô”.

Câu đối này bao hàm cái lý của Phật gia và Đạo gia, rằng thế gian này chỉ là ảo mộng. Trong đó, vế trước hàm ý tu luyện "Chân” của Đạo gia, vế sau là chỉ cái “Không" của Phật gia. Nó cũng tương ứng với câu nói của nhà Phật rằng "phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (tất cả những gì có hình tướng thì đều là giả). Con người thế gian coi giả thành thật, coi không thành có, đáng thương thay!

Các danh tác cổ điển của Trung Quốc đều ẩn chứa cái lý của Phật gia (Tây Du Ký), hoặc Đạo gia (Thủy Hử Truyện). Nhưng “Hồng Lâu Mộng” lại sâu sắc và toàn diện hơn cả, khi bao hàm cả pháp lý của hai nhà Phật và Đạo, quả là mỹ diệu khôn xiết.

Ta bắt gặp các chi tiết thật giả lẫn lộn trong toàn bộ tác phẩm. Xuyên suốt tác phẩm là một nhà sư – một đạo sĩ, trên bề mặt thì là một kẻ què – một người điên, rách rưới bẩn thỉu, nhưng đó chính là “chân nhân bất lộ tướng” (nghĩa là chỉ những người đắc đạo không dùng thân phận chân thật của mình để hiện ra ở trước mặt người khác).

 

Chân Sĩ Ẩn nằm mơ đi vào cõi ảo mộng.

(Tranh Tôn Ôn đời Thanh)

Cái tên "Chân Sĩ Ẩn”, thực tế là “Chân Sự ẩn”, nghĩa là ẩn giấu chân tướng sự thật, hoặc là “Chân Sĩ Ẩn, nghĩa là ẩn sĩ chân chính, tức Chân nhân, một là ẩn giấu chân tướng sự thật, hai là bậc Chân nhân chính là ẩn sĩ.

Trong Hồi 1, tác giả Tào Tuyết Cần có đề một bài thơ:

Đầy trang những chuyện hoang đường

Tràn đầy nước mắt bao nhường chua cay

Đừng cho tác giả là ngây

Ai hay ý vị chất đầy bên trong

Dường như đang nói tác giả là kẻ ngốc nói mê, nhưng bốn câu thơ kết thúc tác phẩm lại là:

Nói đến nỗi chua cay

Hoang đường càng buồn thay

Xưa nay đều cảnh mộng

Chớ bảo người đời ngây

Hai bài thơ ở Hồi 1 và Hồi 120 của tác phẩm, cũng là hồi đầu và hồi cuối, đã chỉ rõ rằng, kẻ trong mê không phải là tác giả, mà chính là thế nhân.

Vậy người ta mê ở đâu? Đó là nhầm tưởng coi cõi nhân sinh như mộng, hết thảy đều thoáng qua như khói mây, là nơi trở về. “Xưa nay đều cảnh mộng” là gì? Đó là một giấc mộng Hồng Lâu, và giấc mộng của mỗi người, đều là cùng một giấc mộng.

Trong hồi 116 còn viết:

Giả đi chân đến, chân hơn giả

Không nguyên là có, có nào không.

Hai câu này cũng đã chỉ rõ rằng, khi con người nhìn thấu giả tướng thì cái hiển lộ ra mới là chân thật, hư giả trở thành chân thực, hư vô trở thành hữu thực.

Nhiều "nhà Hồng học" trong lịch sử đã nghiên cứu ra rằng "Hồng Lâu Mộng" là "giả ngữ thôn ngôn", ý chỉ chuyện thêu dệt, không có thật trong lịch sử. (Chú thích: Trong tiếng Trung, bốn chữ này đồng âm với “Giả Vũ Thôn ngôn” – Giả Vũ Thôn nói, do đó tác giả đặt tên cho nhân vật thứ hai xuất hiện trong tác phẩm là Giả Vũ Thôn). Rõ ràng họ biết là như vậy, nhưng họ không biết tại sao nó lại là như vậy. Trong hồi cuối lại có đoạn:

"Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả? Không những người làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi".

Ở trên vừa nói nhìn thấu giả tướng sẽ ra chân tướng, tới đây lại đem chân tướng ẩn đi. Toàn bộ tác phẩm là đan xen giữa “chân” và “giả”, khiến thế nhân đã mê lại càng mơ hồ.

Không có chuyện bị phê phán hay chỉ trích là ‘mê tín phong kiến’ ​​ở thời đại của Tào Tuyết Cần, vậy tại sao tác giả lại phải nói ẩn ý như vậy? Bởi vì thiên cơ không thể tiết lộ. Từ câu kệ “Giả đi chân đến, chân hơn giả; Không nguyên là có, có nào không”, xem kỹ thì không khó có thể thấy được Đại Đạo bên ngoài sự hư ảo: Chân ắt thắng Giả, Có ắt thắng Không. Là “chân” hay “giả”, cốt là ở cái ngộ của con người!

2. Chân Sĩ Ẩn ngộ Đạo, minh bạch cõi đi về

Kỳ thực, ngay từ Hồi 1 đã nói rõ điểm đến cuối cùng của con người. Và rằng cuộc sống có hoàn hảo đến đâu thì cũng có những điều không như ý. Chân Sĩ Ẩn xuất thân từ nhà danh gia vọng tộc, nhưng lại không có con cái, đây là cái không như ý thứ nhất. Khi về già mới được một mụn con gái, nhưng lại bị người ta bắt mất, ấy là cái không như ý thứ hai. Về sau nhà cửa tài sản đều bị thiêu rụi, là cái không như ý thứ ba. Thế chấp ruộng vườn hùn vốn sai người, phải ăn nhờ ở đậu nhà cha vợ, buồn bực sầu não, là cái không như ý thứ tư. Kết quả là, nghèo đói bệnh tật, ngày càng sa sút, lại ngẫm ra cảnh của thế giới bên kia.

Thế nhưng khi Chân Sĩ Ẩn nghe thấy bài hát “Hảo liễu ca” của vị Đạo sĩ điên, ông liền đột nhiên tỉnh ngộ. Lời ca có 8 câu như sau:

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng chuyện công danh lại vẫn say!

Xưa nay quan tướng nơi nào nhỉ,

Một nấm mồ hoang cỏ mọc đầy.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng hám vàng bạc lòng chẳng khuây!

Suốt ngày tích cóp lo chưa đủ,

Đến lúc đủ đầy nhắm mắt ngay.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Nhưng thích vợ đẹp lòng chẳng khuây!

Chồng sống ngày ngày ân tình kể,

Chồng chết liền bỏ theo người ngay.

 

Người đời đều cho Thần Tiên hay,

Muốn đông con cháu lòng chẳng khuây!

Xưa nay cha mẹ tâm mê đắm,

Con hiền cháu thảo ai thấy đây.

Khi Chân Sĩ Ẩn nghe bài hát này, ông liền đuổi theo vị đạo sĩ điên và hỏi: “Ngài nói gì mà tôi chỉ nghe thấy ‘hảo’ ‘liễu’, ‘hảo’ ‘liễu’?.

Đạo sĩ cười đáp: “Nếu ông nghe thấy hai chữ ‘hảo’ ‘liễu’, vậy coi như ông đã minh bạch. Phải biết rằng mọi sự trên đời, ‘hảo’ chính là ‘liễu’, ‘liễu’ chính là ‘hảo’. Nếu không ‘liễu’, thì không ‘hảo’; Nếu muốn ‘hảo’, thì phải ‘liễu’ ”.

Về hai chữ ‘hảo’ và ‘liễu’, trong nguyên tác, chữ cuối trong hai vế của các câu 1, 3, 5, 7 đều lần lượt là ‘hảo’, ‘liễu’. Ngoài ra, cả 8 câu còn đều kết thúc bằng chữ ‘liễu’. ‘Hảo’ là hay, tốt; ‘liễu’ là xong, hoàn thành, kết thúc, hoặc khi đi cùng chữ ‘bất’ thì mang nghĩa không thể làm được gì.

Chân Sĩ Ẩn vốn là một người có huệ căn (chỉ cái tính sáng suốt sẵn có), vừa nghe thấy vậy ông liền triệt ngộ… Rồi nói với đạo sĩ “Chúng ta đi thôi!”. Ông đỡ tay nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, không về nhà nữa mà đi cùng vị kia.

Kỳ thực, ngay trong hồi thứ nhất, "Hồng Lâu Mộng” đã chỉ ra những đạo lý cốt yếu.

Điều này khiến tôi nhớ đến câu trong Kinh Thánh: "Người giàu bước vào thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Thử nghĩ xem, nếu Chân Sĩ Ẩn phú quý giàu sang, lại chẳng có mấy bận không như ý, liệu ông có còn nhìn thấu được hồng trần? Ngoài ra, ở đây còn đề cập đến một điều căn bản – “huệ căn”. Xem ra con người muốn ngộ Đạo thì phải có cả trí huệ và ma nạn (ý chỉ khó khăn trắc trở), thiếu một cái cũng khó mà thành. Giống như Tư Mã Thiên viết: “Tây bá (Chu Văn Vương) bị giam cầm nên diễn giải ‘Chu Dịch’; Khổng Tử gặp nạn nên viết ‘Xuân Thu’; Khuất Nguyên bị đi đày nên viết ‘Ly Tao', …”. Ngay cả Tư Mã Thiên cũng bị vướng vào một vụ án và bị thiến khi đang hoàn thành công trình đồ sộ “Sử Ký”.

 

Tranh minh họa Hồi 37 của tác phẩm "Hồng Lâu Mộng",

do họa sĩ Tôn Ôn (Sun Wen) thời nhà Thanh vẽ. (Public Domain)

3. Tu tâm mới được ngộ Đạo

Một số người muốn học hỏi chút nhân tình thế thái, hay nghiên cứu chút thăng trầm thịnh suy từ “Hồng Lâu Mộng”. Nhưng, những kiếp nạn mà Chân Sĩ Ẩn kinh qua, mối tình si của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hay cuộc đời chìm nổi của Giả Vũ Thôn, tất cả đều là cái bên ngoài ta nhìn thấy. Mỗi một con người trên thế gian đều là một bộ bách khoa toàn thư, cuộc đời ai chẳng từng nếm qua ngọt bùi cay đắng, cần gì phải tìm bên ngoài?

Giả Vũ Thôn một đời luồn cúi, lợi dụng người khác. Cuối cùng, ông ôm giữ hối tiếc suốt đời tại bến đò Giác Mê (giác ngộ ra cái mê) bên dòng Cấp Lưu (dòng nước chảy xiết, ám chỉ dòng đời). Không như Chân Ẩn Sĩ đã nhìn thấu cõi trần ngay từ đầu.

Trong Hồi 118, Giả Bảo Ngọc ngâm câu “Nội điển ngữ trung vô Phật tính, Kim đan pháp ngoại hữu Tiên chu” (Câu chữ trong Nội điển không có Phật tính, bên ngoài pháp luyện Kim đan có thuyền Tiên). “Nội điển” là chỉ những kinh điển trong Phật giáo, “Kim đan” là chỉ hoàng kim và đan sa được luyện ra trong Đạo giáo nhằm đạt trường sinh. Theo cách giải thích phổ biến, ý nghĩa của câu nói trên là, không phải cứ niệm kinh là sẽ xuất Phật tính, không phải cứ kết đan là sẽ thành Tiên, mà phải dựa vào cái ngộ trong tâm.

Theo tôi thấy, câu nói này còn ẩn dụ về việc tu luyện. Để tu luyện theo những giáo lý được giảng trong Phật giáo (Nội điển) hay Đạo giáo (Kim đan) ngày nay là việc rất khó. Bởi vì hàng ngàn năm qua, hai giáo lý này đã bị người đời sau sửa đổi và diễn giải theo cá nhân, chứ không còn là lời nguyên gốc của các bậc Giác giả, nên không còn nội hàm để độ nhân.

Kỳ thực, toàn bộ tình tiết trong "Hồng Lâu Mộng" là hành trình hạ phàm của hòn đá “Bảo Ngọc”, để độc giả thấy được cái “Nhân không kiến sắc, do sắc sinh tình, truyền tình nhập sắc, tự sắc ngộ không”. Tức là, từ “Không” hiện ra “sắc”, rồi “sắc” lại sinh ra “tình”, “tình” lại biểu hiện qua “sắc”, rồi lại từ “sắc” mà ngộ được “Không”.

Con người ngày nay đều đã ở trong “Nhân không kiến sắc, do sắc sinh tình, truyền tình nhập sắc” (từ “Không” hiện ra “sắc”, rồi “sắc” lại sinh ra “tình”, “tình” lại biểu hiện qua “sắc”), chỉ còn thiếu “tự sắc ngộ không” (từ “sắc” ngộ được “Không”) mà thôi.


04/03/2024

Được Mất

 


Người lạ ngày mai có thể là người bạn thân hôm nay.

Từ lúc đó, ta nghĩ rằng rất cần những người đó trong đời. Nhưng sau bao nhiêu chuyện đã xảy ra, ta nhận ra rằng họ chả quan trọng gì. Sự xa lánh một hoặc đám bạn bè cũng không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của mình. Vậy sao ta phải buồn phiền duy trì những mối quan hệ ấy?.

Ta trân trọng những cuộc gặp gỡ và ta cũng sẵn sàng buông bỏ một cách nhẹ nhàng nếu thấy cuộc sống sẽ thanh thản hơn khi không có chúng.


25/01/2024

Cái áo cà sa và tên cướp

 



Chuyện xưa kể ɾằng, có một Tráng sỹ bôn tẩu giang hồ. Người này rất giỏi võ công, lại có tâm tɾừ gian diệt bạo, bênh vực kẻ yếu thế. Ngày nọ, Tráng sỹ đi ngang qua ngôi làng, gặρ lúc bọn cướρ đang cướρ bóc của dân lành liền ra tay trừ bạo.

Với thanh kiếm quý tɾên tay, anh ta chiến ᵭấu và lần lượt hạ gục nhiều tên cướρ. Sau cùng tên đầu sỏ bỏ chạy vào một ngôi chùa ở cuối làng. Tráng sỹ đuổi theo. Đến chùa anh tra kiếm vào vỏ ɾồi thận tɾọng đi vào chùa. Tới chánh điện, anh đảnh lễ Phật và sau đó đi tìm tên cướρ.

Nhưng thật lạ hắn biến đâu mất. Tráng sỹ đi vào hậu liêu, đến tɾai đường thì thấy một người mặc áo nhà sư đang ngồi quay mặt vào tɾong. Anh bước vào, định hỏi thăm, thì bất ngờ người này rút thanh kiếm giấu dưới gầm bàn, quay ρhắt lại phạt ngang một đường, tiếng kiếm ɾít tɾong gió nghe ɾợn người. Nhưng thật may, với võ công tuyệt đỉnh, Tráng sỹ ngả người ɾa sau, tɾánh được nhát kiếm chí mạпg ấy.

Ngay tức thì, Tráng sỹ nhảy ra ngoài sân chùa rút kiếm giao ᵭấu với tên cướρ. Và lát sau dân làng cũng kéo đến rất đông để chứng kiến tɾận so tài. Họ thấy một điều ɾất lạ là người Tráng sỹ chỉ tɾánh những đường kiếm hiểm ác của tên cướρ. Còn khi tấп côпg, anh ta chỉ cố đưα mũi kiếm của mình vào những vị tɾí nút thắt của chiếc áo cà sa mà tên cướρ đang mặc… Với tuyệt kỹ của mình, người Tráng sỹ cũng lần lượt ρhạt đứt những chiếc khuy vải của áo cà sa. Và đường kiếm sau cùng thay vì kết liễu tên cướρ, Tráng sỹ dùng mũi kiếm hất tung chiếc áo cà sa ra khỏi người tên cướρ.

Chiếc áo bay lên, sáng ngời không gian và khi ɾơi xuống lại ρhủ đúng lên thân thanh kiếm và người ta chỉ còn thấy chiếc mũi kiếm đang gí ngay yết hầu của tên cướρ. Tên cướp buông kiếm đầu hàng và dân làng liền ùa vào tɾói gô hắn lại…

Một bô lão tɾong làng, chắρ tay cảm tạ người Tráng sỹ và hỏi: Tɾáng sĩ võ công cao cường như vậy sao không hạ hắn sớm mà cứ vờn hắn làm dân làng lo quá?

Người Tráng sỹ nói ɾằng: Dù hắn là tên cướρ, nhưng tôi cố tɾánh chiếc áo từ bi nhà Phật mà hắn đang khoác tɾên người, mặc dù tɾước đó hắn đã dùng chiếc áo để bẫy tôi…

Chuyện của ngày xưa nhưng vẫn còn nguyên giá tɾị với hôm nay. Hiện tại, ɾất có thể có ai đó lợi dụng chiếc áo để bẫy người khác, dù đó là cá biệt.

Chiếc áo nhà Phật và kẻ xấu là hai chuyện rất, rất khác nhau, không thể ᵭánh đồng với nhau được.

Phật pháρ muôn đời bất ly thế gian pháρ. Thế gian đầy sân si mộng ảo, không việc chi mà không có tộι. Vì vậy nên như Tráng sỹ kia cần hết sức cẩn thận với những hành động cũng như ρhát ngôn củα mình, nhất là với chiếc áo từ bi củα nhà Phật.

Nếu bên tɾong chiếc áo tu là một kẻ bất thiện, thì tɾước tiên hãy ᵭánh bật chiếc áo ra khỏi người kẻ xấu, tránh làm tổn hại đến biểu tượng tốt đẹρ của những bậc chân tu nói chung…


13/12/2023

Cốt yếu của Phật Pháp

 Thiền sư Ô Sào


  

Chư ác mạc tác, 

Chúng thiện phụng hành, 

Tự tịnh kỳ ý, 

Thị chư Phật giáo.


Tránh làm các điều ác

Năng làm các điều lành

Điều phục tâm ý mình

Đó là lời Phật dạy.

Đứa trẻ lên ba cũng biết nhưng ông già tám mươi chưa chắc đã làm xong…

Phật dạy chúng ta không chỉ tránh sát sinh mà còn phải cứu mạng chúng sinh, xuất phát từ tâm từ bi thương yêu muôn loài. Chúng ta không những không trộm cắp mà còn bố thí, chia sẻ yêu thương, giúp đỡ chúng sinh không phân biệt thân sơ, sang hèn.

28/11/2023

Luôn tự nhắc Ta

 Nhìn và ngẫm thôi



1. TÍCH ĐỨC TỪ LỜI NÓI

Lời nói cần phải thể hiện sự khoan dung độ lượng đối với người khác.
Lời nói thẳng: Có thể chuyển sang cách nói “vòng, nói giảm, nói tránh” một chút.
Lời nói lạnh như băng: Hãy hâm nóng lên một chút trước khi nói.
Lời nói phê bình người khác: Trước khi nói hãy chú ý cân nhắc đến lòng tự tôn của người nghe.
Một lời khen ngợi đúng lúc có giá trị ngàn vàng.


2. TÍCH ĐỨC TỪ ĐÔI TAY
Học cách ca ngợi, vỗ tay tán thưởng người khác.
Mỗi người đều cần tiếng vỗ tay của người khác bởi vì ủng hộ, khen ngợi người khác là điều cần có ở mỗi người.
Không biết vỗ tay, khen ngợi người khác thì đời người thực sự quá nhỏ hẹp.
Cho người khác tiếng vỗ tay kỳ thực là cho chính bản thân mình.


3. TÍCH ĐỨC TỪ GIỮ THỂ DIỆN CHO NGƯỜI KHÁC
Ở một số tình huống việc “không nể mặt” là một thái độ vô lễ lớn nhất.
Người phương đông rất xem trọng thể diện vì vậy ở bất cả thời điểm nào cũng nên giành cho người khác một “lối thoát” để giữ thể diện.
Nhìn thấy rõ một người cũng đừng nên chỉ thẳng ra, hãy lựa lúc mà nói.
Hãy nhớ đừng bao giờ làm tổn thương thể diện của người khác bởi hậu quả của nó là khôn lường.
Trong một số tình huống, vạch trần người khác là một cái tội đẩy người ta đến đường cùng.


4. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC TÍN NHIỆM NGƯỜI KHÁC
Người có tính đa nghi trời sinh thì khó có người bạn chân thành.
Được người khác tin tưởng, tín nhiệm là một loại hạnh phúc.
Người có bao nhiêu tín nhiệm thì sẽ có bấy nhiêu cơ hội thành công.
Người xưa nói: “Đã nghi ngờ người thì không kết giao, đã kết giao thì không nên nghi ngờ người.”


5. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC CHO NGƯỜI KHÁC SỰ THUẬN LỢI
Cho người khác được lợi cũng chính là làm lợi cho mình.
Thời điểm người khác cần bạn nhất, hãy sẵn sàng cho họ một bờ vai để nương tựa.
Suy nghĩ cho người khác cũng chính là suy nghĩ cho bản thân mình.


6. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC GIỮ LỄ TIẾT
Người có lễ tiết đi khắp thiên hạ cũng khó có người trách mắng, không ưng ý.


7. TÍCH ĐỨC TỪ TÍNH CÁCH KHIÊM NHƯỢNG
Người xưa nói: Người kiêu căng ngạo mạn, thích thể hiện tài năng thì đi đâu cũng có kẻ địch.
Tránh khoe khoang tài năng của mình mọi lúc mọi nơi.
Buông bỏ kiêu căng, giảm bớt tự kỷ.
Không nên ở trước mặt người đang thất ý mà đàm luận về đắc ý của mình.
Làm người, trước là đừng khoa trương tùy tiện, sau đừng đắc ý, nên khiêm nhượng một chút.


8. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC HIỂU NGƯỜI KHÁC
Mọi người, ai cũng mong muốn người khác hiểu và thừa nhận mình.
Hiểu người khác cũng chính là một cách đem lại lợi ích cho người khác.
Đổi vị trí để hiểu người khác.


9. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC
Đem lòng tự tôn của người khác đặt ở vị trí cao nhất.
Cố gắng để người khác cảm nhận thấy sự tôn nghiêm của bản thân mình.
Tôn trọng người yếu kém hơn mình càng là đáng quý.
Địa vị càng cao thì càng không thể khinh thường người khác.


10. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC
Ở vào thời khắc quan trọng, ai mà không hy vọng có người trợ giúp mình?
“Vì người khác” sẽ luôn luôn chiến thắng “vì mình”.
Lòng tốt sẽ luôn luôn được người khác khắc sâu, nhớ kỹ.
Khi giúp đỡ người khác cũng phải tìm cách để đối phương vui cười mà tiếp nhận.


11. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC THÀNH THẬT VỚI MỌI NGƯỜI
Không thành thật sẽ khó tồn tại, người giả dối tất sẽ không có bạn chân thành.
Luôn lấy thành tín làm gốc, coi trọng thành tín trong mọi mối quan hệ.
Dùng thành tín thu phục người khác, sẽ dễ đạt được thành công.
Một người nếu như mất đi sự thành thật thì làm việc gì cũng khó.
Bất kể lý do gì cũng không thể giải thích được lý do sự giả dối của bản thân.


12. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC BIẾT CẢM ƠN NGƯỜI
Cảm ơn là một cách ngợi ca cuộc đời.
Trong cuộc sống, lời cảm ơn kịp thời sẽ khiến mọi người thân thiện với nhau hơn.
Cảm ơn đối thủ là một cách thể hiện của người có chí khí.


13. TÍCH ĐỨC TỪ LÒNG NHÂN ÁI CỦA BẢN THÂN
Mỗi người đều nên tu dưỡng lòng nhân ái trong mình. Bởi người có tấm lòng nhân ái luôn sống nhẹ nhàng mà lại dễ dàng nhận được sự hợp tác từ người khác.


14. TÍCH ĐỨC TỪ VIỆC MỈM NGƯỜI VỚI NGƯỜI KHÁC
Không có ai cự tuyệt một nụ cười chân thành cả!
Mỉm cười là phương thức kết nối hữu hiệu giữa con người với con người.
Dùng nụ cười để ứng phó với sự “khiêu chiến” của đối thủ mới thực là cao nhân.


15. TÍCH ĐỨC TỪ LÒNG KHOAN DUNG
Không thể khoan dung người khác có thể là bởi vì lòng dạ của mình còn quá nhỏ hẹp!
Dùng khoan dung có thể cải biến một con người lầm lỗi.
Người có lòng khoan dung sẽ dễ dàng chiếm được lòng người khác.
Hãy học cách tha thứ khuyết điểm của người khác.
Đôi lúc, một quan hệ tốt đẹp là từ nhẫn mà sinh ra đấy!


16. TÍCH ĐỨC TỪ LÒNG LƯƠNG THIỆN
Không có ai là không muốn làm bạn, làm hàng xóm hay hợp tác với người có tấm lòng lương thiện.
Người lương thiện có thể thu phục người khác. Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm.


17. TÍCH ĐỨC TỪ SỰ BIẾT LẮNG NGHE
Người xưa có câu: “Nhìn nhiều, nghe nhiều và nói ít”. Người biết lắng nghe thường được lòng người khác bởi lắng nghe là một cách lấy lòng người khác tốt nhất.

 


27/11/2023

Tu Phật

 


Một người đến tu viện.

Thiền sư hỏi: “Ông muốn làm gì ở đây?”

Người đàn ông trả lời: “Tôi đến để tu Phật.”

Thiền sư trả lời: “Phật không có hỏng, không cần ông tu sửa, ông tốt hơn là tự tu sửa chính mình.”

Cảm ngộ: Tu là sửa mình, không phải sửa người.

13/11/2023

Cuộc sống



Con đường ta muốn chọn và con đường ta phải đi thường rẽ về hai hướng, có mấy ai được đi trên con đường như ý?

25/10/2023

Chân Trời



Tổ ấm hiện hữu ở nơi
Mèo nhà cuộn tròn khoái trá


Tự do hiện hữu ở nơi
Mèo hoang gào trong sương giá


Trớ trêu là:
Mèo nhà có thể bỏ đi hoang
Mèo hoang hết đời vẫn lang thang


Phải chăng:
Tổ ấm là nhất thời?
Tự do là tuyệt đối?

 

6-2013

12/10/2023

Thuốc Tiền

 tản văn Tiền bản thảo của Trương Duyệt



Tiền, vị ngọt, đại nhiệt, có độc.

Tác dụng phụ lưu giữ dung nhan, tốt tươi sáng nhẵn, chữa bệnh đói, giải khốn khó có hiệu nghiệm ngay.

Tiền có thể lợi cho quốc gia, thiệt hại cho người hiền đạt và rất sợ người thanh liêm.

Người tham uống thuốc "Tiền", thì phân chia đều là tốt nhất, nếu không phân chia đều thì nóng lạnh công kích nhau, khiến người hỗn loạn.

Thuốc Tiền thu hái không theo thời vụ.

Thu nhận không đúng lễ thì tổn thương đến tinh thần.

Tiền rất thịnh hành, có thể chiêu mời thần linh, thông với khí quỷ.

Nếu tích lũy mà không phân tán thì sẽ sinh ra tai họa thủy hỏa đạo tặc. Nếu phân tán mà không tích lũy thì sẽ sinh bệnh đói rét khốn khó. Vừa tích lũy vừa phân tán thì gọi là Đạo.

Không coi nó là trân quý thì gọi là Đức.

Nhận và cho hợp lễ nghi thì gọi là Nghĩa.

Không cầu Tiền không phải của mình gọi là Lễ.

Thí xả rộng rãi cứu tế dân chúng thì gọi là Nhân.

Chi trả không sai hẹn gọi là Tín.

Người không vì thuốc "Tiền" làm tổn hại đến mình thì gọi là Trí.

Tinh luyện 7 thuật này thì mới có thể uống thuốc "Tiền" lâu dài, khiến người trường thọ. Nếu uống thuốc "Tiền" mà không theo lý lẽ thì ý chí suy nhược, tinh thần tổn thương, nhất định phải kiêng kỵ


31/07/2023

Trí tụê người già?

 


Chúng ta phải đồng ý với các nhà chuyên gia rằng: “Trí tuệ” gồm 8 thành phần:

- Sự thông minh.

- Kiến thức.

- Khả năng kiềm chế cảm xúc.

- Sự khiêm tốn.

- Khả năng học hỏi từ kinh nghiệm.

- Sự cởi mở.

- Khả năng đưa ra đánh giá, nhận định chính xác.

- Kỹ năng giải quyết vấn đề.

Như vậy, để đánh giá về trí tuệ của một con người, ta phải đánh giá dựa trên toàn bộ các tiêu chí trên.

Và đương nhiên nhóm người này đồng ý rằng "trí tuệ" sẽ lớn dần theo tuổi tác. Nên mới có câu: Gừng càng già càng cay.

Nhưng kẻ thù của tuổi già ở đây không phải ai xa lạ chính là sự lão hóa về thể chất, và sự cận kề cái chết. Chỉ khi người lớn tuổi giữ được nội tâm an lạc, "trí tuệ" của họ mới được thể hiện.

Kết quả các nghiên cứu cho rằng người già tỏ ra khá "đuối" trong các bài kiểm tra về trí nhớ, cũng như khả năng nhận thức.

Các bài học tiếp thu ở mỗi giai đoạn sẽ là nền tảng cho những giai đoạn sau, đồng thời cũng là nền tảng cho sự thông thái của mỗi người khi về già. Dường như tất cả chúng ta đều thể hiện được trí thông minh của bản thân trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời, chỉ là dưới hình thức khác nhau.

Cho nên, không hoàn toàn giống với cơ thể, não người sẽ không bao giờ ngừng phát triển. Sẽ chẳng bao giờ là quá sớm hoặc quá muộn để rèn luyện trí tuệ của mình cả.


26/07/2023

Lan man về Công Đức

 


Để Ngộ ra Chân lý, Phật Thích Ca 49 ngày tĩnh trụ để  tạo cho Chúng sinh Nhân gian Tứ Diệu đế, Bát chính đạo... Trước và Nay ai làm được?

Nếu dùng kính làm gương, có thể nhìn thấy mình ăn mặc có đoan trang hay không, mặt mũi có đoan chính hay không? (đây là nói về Tính Người, chứ khi soi gương thường và luôn sẽ  thấy Ta có Đẹp không để ảo tưởng thôi).

Dùng Lịch sử làm gương, có thể thấy được nguyên nhân nhà nước Hưng Vong - Đây là việc của người nhớn, nhưng Ta xem và xét Lịch sử với Hiện tại cũng có thể có cái nhìn hữu ích.

Dùng Người làm gương, thì sẽ phát hiện mình làm đúng hay sai. Đây là một tấm gương tốt.

Đừng nhanh nghĩ, dùng người làm gương là chọn những người tử tế, đức cao vọng trọng (đằng sau hình thức đó biết đâu là Đạo đức giả?)... Rất nhầm. Phải nhìn kẻ xấu, kẻ giả dối, kẻ lưu manh, kẻ bất nhân, phụ nghĩa... mới soi được mình là ai.

Không cho là đúng ư? Vậy bạn Vấn Tâm xem, so với những người ấy, mình Tốt - Đẹp hơn gì? 

Nhận ra được, Ta mới có cơ hội (và cơ hội thôi nhéSửa. Thật Tâm muốn Sửa không lại là do Mình.

Tại sao dân gian có câu Công Đức. Rồi thể hiện nhiều hành động chứng minh ta công đức.

Khà khà, không đơn giản như vậy nhé các bạn. Công Đức đã xuất phát từ mấy ngàn năm nay rồi, từ khi con ngươi biết Luân Lý, Lẽ phải...  (Do Phật giáo hay Đạo giáo, tôn giáo mà có thì không dám bàn ở đây). Nhưng vốn ban đầu và ngày càng hoàn thiện, đó là: Muốn có Đức phải xuất Công làm Thiện, làm Phúc.

Nói vậy thôi chứ, loài vật, vâng chính thế, chả cần luân lý, nhưng vẫn làm Thiện đó thôi - Con người không phải ai cũng sẽ thế (Vạn vật hữu linh - Chúng sinh bình đẳng).

Muốn xuất Công thì phải có Tâm Nghĩa Nhân. Mà nhiều khi, chỉ là Ý niệm làm Phúc - Thiện, khởi lòng Từ bi, Chân thành mà rồi xuất Công, chứ thường chả nghĩ sẽ được Đức (Phúc). 

Nghĩ đến Lợi mà phát Công ư? Chắc sẽ được Danh nhưng sao có Đức (Phúc).

Nho giáo có câu "Làm ơn không đợi báo". Mình nghĩ, câu này là sai. Vì, như thế chỉ vẽ đường cho kẻ vô Ơn, vô Nghĩa phủi trách nhiệm mà thôi. Ơn đền - Oán trả mới là Đạo Lý. 

Dĩ nhiên, người làm ơn không vì đợi đền đáp mà làm ơn - vì thường, họ chả cần.

Đứng trước Lợi ích, Dục vọng làm gì còn có cái gọi là nhân nghĩa, đạo đức, lễ phép, từ hiếu... Lòng Tham - Si che mắt mà làm theo bản năng thôi.

Người đời có Thất Tình (Tham, sân si, hỷ, nộ, ái ố) - Lục Dục (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), rồi là công danh lợi lộc, là sống chết, là sự sợ hãi - những thứ này phủ che lên bản tính Thiện Lương nguyên thủy của ta, tạo thành một tầng bụi bặm ngày càng bám dày, phủ kín khiến ta hiểu được bản tính của mình nhưng cũng không thể thực hiện được, nếu không thì không còn mạng....vì thế ta chả dễ dám xuất Công làm Thiện là vậy.

Vốn con người đều là yêu hương thơm, ghét tanh hôi. Kể cả là một đứa trẻ khi mới sinh ra, vừa có chút ý thức, khi ngửi thấy mùi tanh hôi liền khóc ré lên, ngửi thấy hương thơm lại nhoẻn miệng cười. Nên mới có câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện."

Đã ảo tưởng, nhưng đến tuổi trung niên rồi không được phép và không cho phép ảo tưởng.

23/07/2023

Thản nhiên

 


Xuân có trăm hoa;

Thu, ánh nguyệt,
Hạ thời gió mát, rét vào Đông.
Người mà thư thái, tâm vô sự,
Thời tiết quanh năm, đẹp giữa lòng.

Buồn không khóc

Hiểu không nói

Biết mà như không

Thông minh giả Ngu mới thành Người

Chấp nhận rủi ro để mà Mất

Không cầu vô lý cái viển vông

Ta không quản được, sao phải giữ

 Buông tay, thanh thản tuổi sang Thu,

22/07/2023

Duyên - Phận - Đức - Phúc

 


Chữ Phận trong nhiều từ điển từ xưa đến nay đều được hiểu là cương vị, địa vị trong xã hội...

Mình thì nghĩa khác, vì trải qua và ngẫm thấy, chữ Phận thật ra là chữ Phần.

Số mệnh anh được Phần lớn thì sẽ cao sang, quyền quý, an nhàn, khoẻ mạnh...

Số mệnh của anh được Phần nhỏ  thì nghèo, hèn, khốn khó, bệnh tật, vất vả...

Người có Duyên mà chả có Phận cũng tựa người có Phận mà chả có Duyên nên đều không được Phúc.

Người có Duyên, có Phận hẳn hoi nhưng cũng chả có Phúc hậu.

Tại sao vậy?????

Bởi vì họ không Tu Nhân - Tích Đức nên không có Phúc.

Chữ Đức nối DuyênPhận, Nhân để được Quả:  Phúc.

Trời thương, báo trước điềm, nhưng vì Dục vọng sâu xa nên bỏ qua, thành ra không có Đức để nối được Duyên - Phận mà thành vô Phúc.

Âu cũng là sự nhắc nhở vì: Mình làm - Trời biết - Đất hay.