Thân thì trả về Đất
Của cải để cho Đời
Ngày Đi không báo trước
Trần gian chả giữ Người
Không còn Thân để thấy
Nhưng còn Nghiệp mang theo
Nam Mô A Di Đà.
Thân thì trả về Đất
Của cải để cho Đời
Ngày Đi không báo trước
Trần gian chả giữ Người
Không còn Thân để thấy
Nhưng còn Nghiệp mang theo
Nam Mô A Di Đà.
Hẳn các Phật tử đều biết, khoảng hơn 2500 năm trước đây, sau khi giác ngộ, Phật Thích Ca vì mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp. Thời bấy giờ ở Ấn Độ cổ, người ta thậm chí không biết xưng hiệu của Đức Phật, không có từ Phật, càng không có tượng Phật, chùa chiền hay kinh sách. Phật Pháp mà Đức Phật chứng ngộ được trong chân lý vô biên của vũ trụ cũng vì thế mà không xoay quanh những điều này.
Thời bấy giờ, Phật Thích Ca chủ yếu truyền dạy đạo của Ngài trong các hang đá, trong rừng hay ngoài thiên nhiên. Các đệ tử đi theo Đức Phật ngoài chuyện đi xin ăn, hóa duyên ra, thì sinh hoạt chủ yếu tại đó, và ngoài việc nghe Đức Phật giảng dạy thì phần lớn thời gian đều dành cho việc ngồi thiền.
Chi Viên tịnh xá và Trúc Lâm tịnh xá ở nước Xá Vệ được xem là những nơi sinh hoạt đầu tiên được xây cất phục vụ việc truyền đạo của Đức Phật. Trúc Lâm tịnh xá là do vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Đức Phật thuộc hàng Vua chúa, xây dựng để cung cấp một nơi an cư thuận tiện cho Đức Phật và đệ tử của Ngài.
Tuy nhiên vô luận là hang đá hay tịnh xá, mục đích chủ yếu của chúng là để những người tu hành sinh sống và có được một không gian biệt lập phục vụ mục đích tu hành. Điều này khác xa so với mục đích của chùa chiền ngày nay (thờ cúng tượng Phật, đón khách viếng thăm, v.v..).
Thời đó khi Đức Phật truyền giảng chân lý mà Ngài chứng ngộ được thì đều là truyền miệng, không có ai ghi chép lại. Các đệ tử chỉ là nghe, hỏi và ghi nhớ mà thôi. Kinh sách là do các đệ tử đời sau chỉnh lý lại trong quá trình truyền thừa. Cũng vì thế mà kinh sách này không thể hiện đầy đủ hoàn cảnh mà Đức Phật truyền dạy, thậm chí còn phát sinh sự mâu thuẫn, dẫn đến các môn phái khác nhau bên trong Phật giáo sau này.
Ngoài ra, thời bấy giờ Đức Phật cũng không dạy người ta các hình thức cúng bái.
Sau khi Đức Phật nhập niết bàn thì xảy ra một loạt các biến đổi. Một là liên quan đến việc phân chia chi phái như đã nói ở trên, mặt khác cũng xuất hiện việc thờ phụng xá lợi.
Bấy giờ sau khi nhục thân của Đức Phật được hỏa táng thì xuất hiện xá lợi. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật, nên phân thành 8 phần. Hai quốc vương nữa đến sau không nhận được xá lợi Phật, nên một người lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về.
Cho nên toàn thể Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo 10 tòa tháp, bao gồm 8 tòa tháp an táng xá lợi Phật, 1 tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và 1 tòa tháp an táng tro cốt Phật.
Vào thời kỳ vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật giáo, vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật các xá lợi tháp. Nhưng trong đó có các tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật có thể lấy ra một lần nữa được chia làm nhiều phần, phân chia khắp nơi.
Nghệ thuật tạc tượng xuất hiện tại Ấn Độ khá muộn, có thể là được lưu truyền từ Hy Lạp tới, cũng vào khoảng thời gian vua Ashoka. Các tượng Phật bắt đầu xuất hiện, và dần có sự chuyển đổi từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật.
Tượng Phật vào thế kỷ thứ 2-3, được tìm thấy tại Pakistan (thuộc Ấn Độ cổ), đã đạt đến trình độ khá tinh xảo. (Ảnh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain
Sau khi xuất hiện việc thờ phụng tượng Phật, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Trong các kiến trúc chùa chiền ngày nay thì tượng Phật chiếm một vị trí rất quan trọng.
Đại tháp giác ngộ tại Bồ Đề Đạo Tràng - nơi Đức Phật Thích ca mâu ni đắc đạo khi ngồi dưới cội bồ đề
Trên thực tế, bất luận là tượng Phật, kinh sách hay chùa chiền thì đều không phải là điều mà Đức Phật để lại. Thời bấy giờ khi Đức Phật chuẩn bị niết bàn, chúng đệ tử có hỏi Ngài về việc dựa vào điều gì để tiếp tục tu hành, Đức Phật đã để lại giới luật. Giới luật này trong quá trình truyền thừa tới Phật giáo Đại Thừa đã tăng thêm rất nhiều, nhưng về cơ bản là đã bảo lưu lại được, chỉ là lẫn thêm vào giới luật nghiêm khắc hơn mà thôi. Như vậy có thể thấy trong Phật giáo ngày nay, điều chân chính được truyền thừa lại chỉ có giới luật.
Kinh Phật không hoàn chỉnh và ngày càng sai khác trong quá trình truyền thừa, phiên dịch. Thêm vào đó, người đời sau đọc hiểu không được cổ ngữ, nên rất nhiều điều đã trở nên sai lệch, thậm chí méo mó. Người đời sau lại còn đề xướng “Phật học”, viết sách giải thích, đưa ra định nghĩa, nhưng cảnh giới của người viết có phải là Phật chăng? Cũng giống như học sinh cấp 1 muốn giải thích sách đại học vậy, làm cho người đọc đều hiểu sai cả. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Phật giáo suy vi, thật giống như Đức Phật đã tiên tri về thời “mạt Pháp” khi Pháp của Ngài không còn hiệu nghiệm nữa.
Đức Phật niết bàn. (Tranh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain)
Con người luôn mong muốn dùng những hình thức vật chất để biểu đạt tín ngưỡng. Tuy vậy điều này lại dẫn tới sự lầm lẫn giữa chân chính tu Phật với các hoạt động tôn giáo như tìm hiểu nghiên cứu kinh sách, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền.
Người mang tâm tu Phật, nhưng lại chỉ chú trọng đến chuyện đọc vài quyển kinh, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền, cúng dường, v.v.. kỳ thực chỉ giống như “mò trăng đáy nước” mà thôi.
Do đó, người thực tâm tín Phật, chân chính tìm kiếm sự giác ngộ và ý nghĩa của sự giải thoát, thì phần lớn đã không còn ở trong chùa chiền đạo quán nữa rồi.
Vì tu Phật đến Giác ngộ để giải thoát khỏi Khổ cần Trí tuệ - Từ bi và Nghị lực.
Các vị Chân tu nhiều đời nay muốn hoằng dương Phập Pháp trở lại Thế gian nhưng đành bất lực.
rezoman
Nhà của bạn không phải khách sạn. Không phải phòng trị liệu. Cũng không phải sân khấu để người khác can dự vào.
Nhà của bạn là ngôi đền linh thiêng – và những ngôi đền xứng đáng được tôn trọng.
Nhưng có những vị khách vô ý muốn can dự vào, sửa đổi nó. Không thể chấp nhận được.
Đừng để ai chỉ trích lối sống của bạn.
Dù nhà bạn sạch bóng hay bừa bộn với đồ chơi, dù bữa tối là trứng với cơm hay cá hồi với bơ—đó không phải việc của ai cả.
Đừng để năng lượng tiêu cực bước qua cửa.
Khách đến nhà nên mang theo sự bình yên, không phải bão tố. Nếu họ mang theo “độc tố” trên đầu lưỡi, hãy để họ bỏ nó ngoài cửa.
Đừng để ai bình phẩm về người yêu, con cái hoặc cuộc sống độc thân của bạn.
Họ không trả hóa đơn, không sống cuộc đời của bạn – ý kiến của họ không có chỗ ở đây.
Đừng để sự so sánh len lỏi vào nhà bạn.
“Nhìn người kia kìa, cô ấy đã có cái này, cái kia rồi...” – là thứ độc tố ngụy trang.
Hãy dập tắt nó bằng câu: “Tốt cho cô ấy. Tôi có con đường riêng của mình.”
Đừng để người vô ơn ngồi ăn trên bàn ăn của bạn.
Lòng biết ơn không tốn một xu. Nếu ai đó ăn cơm bạn nấu mà vẫn nhăn nhó, họ không xứng đáng ăn bữa tiếp theo.
Đừng để ai biến bạn thành chuyên gia tâm lý miễn phí.
Lắng nghe là một sự tử tế. Nhưng ai đó trút rác cảm xúc vào phòng khách của bạn mà không thèm hỏi bạn ra sao – đó là hành vi lạm dụng.
Đừng để chuyện ngồi lê đôi mách bước qua ngưỡng cửa.
Ai mang chuyện của người khác đến hôm nay, sẽ mang chuyện của bạn đi ngày mai.
Đừng để ai coi thường những chiến thắng của bạn.
Bạn đã trả hết nợ? Nuôi con một mình? Vẫn đứng vững sau giông bão? Đó là điều tuyệt vời.
Nếu họ không biết vỗ tay, hãy để họ yên lặng.
Đừng để “niềm tin” trở thành cái cớ cho sự thiếu tôn trọng.
Tin tưởng không có nghĩa là cho phép thô lỗ và hỗn láo.
Đừng để ai hành xử như thể họ sở hữu ngôi nhà của bạn.
Nếu họ không tôn trọng ranh giới, hãy chỉ cho họ lối ra.
Tôn trọng không phải là thứ bạn phải van xin, nó là điều bạn PHẢI yêu cầu.
Nhà bạn không phải nơi chứa rác cảm xúc của người khác.
Đó là không gian thiêng liêng, nơi bạn và người thân xứng đáng được bình yên.
Hãy học cách đóng cửa với những ai không biết cư xử…
Vì đôi khi, sự sạch sẽ không nằm ở sàn nhà, mà ở chính những con người bạn loại ra khỏi cuộc sống của mình.