Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị - Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị - Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng

06/09/2024

Nhà Văn hoá Hoàng Đạo Thuý bàn về chữ Lễ



Trong bài viết trên báo Thanh Nghị, số 44 ra ngày 1/9/1943nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy đã phân tích rất kỹ lưỡng về giá trị của chữ "Lễ" trong đời sống người Việt xưa và nay. Ông lập luận rằng giáo dục không chỉ là việc học kiến thức, mà còn là việc học Lễ, học cách làm người. Từ quan điểm đó, ông đi sâu vào việc phân tích và giải thích các nghi thức truyền thống trong văn hóa Việt Nam, đồng thời bày tỏ lo ngại về sự phai nhạt dần của những giá trị này trong xã hội hiện đại.

Tôi xin mạo muội tóm lược bài viết của Ngài, đăng ở đây nhân dịp năm học mới.

Các bạn có thể tìm được bài viết đầy đủ này của Ông trên net.

Ý Nghĩa Của Việc Học Lễ

Ông Hoàng Đạo Thúy bắt đầu bài viết bằng việc đặt ra câu hỏi: "Đi học để làm gì?" Câu trả lời của nhiều người thường rất đơn giản: "Đi học để học đọc, học viết và học tính". Tuy nhiên, ông nhận định rằng nếu việc học chỉ gói gọn trong ba yếu tố đó thì chưa đủ. Kiến thức kỹ thuật chỉ là phương tiện, còn mục đích thực sự của việc học là để biết Lễ, tức là để biết cách sống, biết cách ứng xử với chính mình và với xã hội.

Theo quan điểm của ông: "người khác loài vật là ở chỗ biết Lễ". Chính Lễ tạo nên sự khác biệt giữa con người và các loài khác. Lễ không phải chỉ là một loạt các quy tắc nghi thức mà người ta phải tuân theo một cách mù quáng, mà nó là sự thể hiện của phẩm giá, lòng tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác. Khi con người biết Lễ, họ có khả năng nhìn nhận và đánh giá đúng mực mọi việc, biết cư xử đúng đắn với người khác và biết sống sao cho hợp đạo lý.

Lễ Trong Quan Niệm Xưa

Hoàng Đạo Thúy dẫn chứng rằng trong lịch sử, Lễ từng có sức mạnh lớn đến mức có thể ngăn chặn cả chiến tranh. Ông kể lại câu chuyện về một vị vua không dám đánh nước Lỗ vì dân nước này "biết Lễ." Từ đó, ông khẳng định rằng Lễ không chỉ là một giá trị đạo đức cá nhân mà còn là yếu tố quyết định đến sức mạnh của cả một dân tộc. Dân tộc biết Lễ, biết yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn sẽ tạo nên sức mạnh vô địch, không dễ bị khuất phục.

Tuy nhiên, Hoàng Đạo Thúy cũng nhận thấy rằng nhiều người đã hiểu nhầm Lễ nghĩa, biến nó thành những hình thức giả dối. Ông nêu rõ rằng Lễ không phải là sự cầu cạnh, không phải là những hành động Lễ nghĩa hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân. Lễ chính là việc tự trọng, tự giữ gìn phẩm giá của mình và từ đó cư xử đúng đắn với người khác. Một người biết Lễ là người biết điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với đạo lý và đúng mực.

Bốn Lễ Trọng: Quan, Hôn, Tang, Tế

Trong bài viết, Hoàng Đạo Thúy đã giải thích rất chi tiết về bốn Lễ lớn trong đời sống người Việt: quan, hôn, tang, tế. Mỗi Lễ đều có ý nghĩa sâu sắc và được gắn liền với những giá trị nhân văn cao cả.

·  Quan: Lễ đội mũ (quan) là một nghi thức quan trọng, biểu hiện sự trưởng thành của người con trai. Khi một thanh niên được làm Lễ quan, tức là anh ta đã được công nhận là một người đàn ông trưởng thành, có đủ phẩm chất để tham gia vào đời sống xã hội. Lễ này không chỉ đánh dấu sự trưởng thành về thể chất mà còn nhấn mạnh sự trưởng thành về mặt đạo đức. Thật tiếc là ngày nay Lễ quan không còn được giữ gìn, điều này đã khiến cho sự suy thoái trong đạo lý và nhân cách của con người trở nên rõ rệt hơn.

·  Hôn: Lễ cưới (hôn) không chỉ là sự kết hợp giữa hai cá nhân, mà còn là sự liên kết giữa hai gia đình. Đó là một sự tiếp nối về mặt huyết thống, tiếp nối truyền thống gia đình. Hoàng Đạo Thúy nhận xét rằng nhiều nghi Lễ cưới hỏi ngày nay đã mất đi ý nghĩa ban đầu, trở thành những buổi Lễ hình thức, thiếu sự trang trọng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nó từng mang theo.

·  Tang: Lễ tang là lúc con cháu thể hiện lòng hiếu thảo đối với người đã khuất. Tuy nhiên, Hoàng Đạo Thúy lo ngại rằng Lễ tang hiện nay đã biến tướng thành những nghi thức phô trương hình thức, xa rời ý nghĩa nguyên thủy của nó. Tang Lễ truyền thống vốn là lúc con cháu thể hiện sự kính trọng và tưởng nhớ đối với tổ tiên, nhưng giờ đây lại trở thành dịp để nhiều gia đình thể hiện sự giàu có, danh tiếng.

·  Tế: Lễ tế, hay việc thờ cúng tổ tiên, là một nét đẹp văn hóa, gắn kết giữa các thế hệ. Theo quan điểm của Hoàng Đạo Thúy, tế không chỉ đơn giản là việc cúng bái mà còn là biểu hiện của lòng thành kính, sự ghi nhớ công ơn tổ tiên. Khi Lễ tế được thực hiện đúng đắn, nó sẽ giúp gia đình duy trì được sự gắn bó, truyền thụ những giá trị văn hóa và đạo đức qua các thế hệ.

Tầm Quan Trọng Của Lễ Trong Xã Hội Hiện Đại

Hoàng Đạo Thúy nhận định rằng sự phai nhạt của các Lễ nghĩa truyền thống là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức trong xã hội. Ông cảnh báo rằng nếu Lễ nghĩa không được coi trọng, xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng. Các giá trị về lòng trung thành, hiếu thảo và tinh thần cộng đồng sẽ bị lãng quên, thay vào đó là sự ích kỷ, vụ lợi cá nhân.

Bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của Lễ trong đời sống xã hội, Hoàng Đạo Thúy mong muốn khôi phục lại những giá trị tốt đẹp của truyền thống. Ông cho rằng hình thức Lễ có thể thay đổi theo thời gian, nhưng tinh thần của Lễ phải luôn được giữ gìn. Điều này không chỉ giúp cá nhân sống đúng đạo lý mà còn góp phần xây dựng một xã hội hòa bình, thịnh vượng.

Kết Luận

Chữ "Lễ" trong văn hóa Việt Nam không chỉ là một khái niệm về hình thức, mà là một hệ giá trị toàn diện, bao gồm đạo đức, tư tưởng và cách ứng xử của con người. Hoàng Đạo Thúy, thông qua bài viết của mình, đã khẳng định rằng sự suy đồi của Lễ nghĩa không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề của cả xã hội. Ông kêu gọi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần phải ý thức rõ hơn về tầm quan trọng của Lễ, để từ đó biết cách sống, biết cách hành xử sao cho xứng đáng với các giá trị truyền thống mà cha ông đã truyền lại.

Như vậy, Lễ không phải là thứ chỉ để đọc, học và nói cho biết, mà Lễ là nền tảng để con người hoàn thiện bản thân và đóng góp cho xã hội. Trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng như bây giờ, việc giữ gìn và phát huy những giá trị của chữ "Lễ" là điều hết sức cần thiết để giữ cho chúng ta một bản sắc, một giá trị đạo đức bền vững.

TL.

01/09/2024

Một dự đoán thành hiện thực?

 


Xưa nay tôi không muốn dự đoán về chính trị, vì rằng nó tựa như xổ số vậy.

Nhưng lần này tôi khẳng định rằngKamala Harris sẽ trở thành Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới.

Mọi người hẳn ngạc nhiên.

Vì rằng hiện nay, tất thảy hệ thống truyền thông đều PR cho ứng cử viên đảng Dân chủ này.

26/02/2024

16/01/2024

Trung Quốc không có tư cách nước lớn

 Trần Đình Hiếu - NNVN



Nhà văn, dịch giả Trần Đình Hiến sinh năm 1933, quê ở Đình Chu, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Ông có bút danh là Thiên Lý. Ông là Hội viên Hội nhà văn năm 2003.

Cụ đã từng làm ở Bộ ngoại giao, là tuỳ viên văn hoá của đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc. 

Hiện ông đang thường trú tại số 45 Phan Bội Châu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

* Giải thưởng: Ông nhận được Giải B (không có giải A) của Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm dịch "Đàn hương hình" năm 2003.

Sau khi cụ dịch một loạt các tác phẩm văn học của Trung Quốc như Báu vật của đời, Đàn hương hình… của Mạc Ngôn tờ Thể thao & Văn hoá ví von “Ở Việt Nam có ba bồ chữ Trung Quốc thì Trần Đình Hiến gánh hai bồ bằng đòn gánh trên đôi vai của mình, còn một bồ cho những kẻ buôn thúng bán mẹt

* Các tác phẩm tiêu biểu:

- Khát vọng (Lý Hiểu Minh, năm 1995);

- Cây tỏi nổi giận (Mạc Ngôn, năm 2002);

- Gieo hạt tình yêu (Từ Hoài Trung, năm 1961);

- Đàn hương hình (Mạc Ngôn, năm 2002);

- Báu vật của đời (Mạc Ngôn, năm 2001);

- Tửu quốc (Mạc Ngôn, năm 2004);

- Cây hợp hoan (Trương Hiền Lượng, năm 2001);

- Tuyển tập kịch Lão Xá (năm 1961);

- Rừng xanh lá đỏ (Mạc Ngôn, năm 2003);

- Cây không gió (Lý Nhuệ, năm 2004)

Nói về Trung Quốc, cụ cho rằng có mấy điểm cần phải biết:

- Đừng bao giờ nghĩ đến việc cấm truyền bá văn hóa Trung Quốc bởi muốn làm bạn với người Tàu hay cạnh tranh với họ trước hết phải hiểu văn hóa nước họ đã”.

- Người Việt ta nói đến Trung Quốc là nghĩ họ là những kẻ lật lọng, nói một đằng làm một nẻo từ đó sinh ra tâm lý ghét Tàu. Ta cho đó là bản chất xấu xa, lưu manh nhưng với họ lại là kế sách. Cứ đọc “binh pháp Tôn Tử và 36 kế sách” sẽ thấy.

Ta đừng bị ám thị về chuyện này, sống với thằng hàng xóm nó mạnh, côn đồ như thế, ta cứ hục hặc ấm ức với nó là ta thua nó. Nó có kế sách, thì ta cũng phải có kế sách, nó mưu hèn, kế bẩn ta phải cao sang quảng đại, như kiều Singapore ứng xử với Trung Quốc. Ta phải hữu hảo, bang giao với các cường quốc lớn khác một cách thật lòng làm đối trọng.

- Nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc, nói Trung Quốc là con hổ giấy cũng có lý của nó. Trong lịch sử, Trung Quốc chỉ bị các các nước lớn thôn tính, mất đất, chưa bao giờ đem quân ra nước ngoài mà chiến thắng.

Trung Quốc, mềm thì nắn, rắn thì buông, mang tiếng là thiên triều, nhưng đấy chỉ là thiên triều với các nước chư hầu trong thời kỳ Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy, loạn xứ quân, không có quốc gia nào xung quanh Trung Quốc coi Trung Quốc là thiên triều.

Bản chất lịch sử Trung Quốc là lịch sử nội trị, để thống nhất được đất nước vấn đề nội trị chính là điểm yếu cốt tử, khiến Trung Quốc không thể trở thành nước mạnh.

Nếu Trung Quốc đem quân đi chinh phạt nước ngoài, trong nước sẽ ắt có binh biến, phản loạn. Trung Quốc rất sợ một cuộc chiến tranh kéo dài ngoài biên giới. Cuộc chiến biên giới 1979 Trung Quốc đánh ta có hơn một tháng rồi vội vàng rút quân có một phần vì lý do nội bộ.

Trung Quốc gây sự với lân bang, là trong nội bộ có biến, lấy việc ngoại trị làm cớ dẹp nội trị.

Để thống nhất và nội trị được đất nước, Trung Quốc có hai thứ được coi là quốc sách:

- Trung Quốc có QUỐC PHÁP, bất cứ kẻ nào dù là hoàng thân quốc thích, thậm chí cả vua cũng bị xử trảm. Thế nào là quốc pháp được cụ thể ghi trong luật có từ hàng nghìn năm trước và vẫn tồn tại cho đến bây giờ.

Vụ làm sữa kém chất lượng gây hại đến sức khỏe của người dân, chủ doanh nghiệp bị tử hình, đấy là quốc pháp.

Không giống như ở ta tội như thế này chỉ xử phạt hành chính, cùng lắm vài năm tù.
Thế nào là Quốc Pháp, đây là một đề tài rất hay, sẽ có dịp chia sẻ về vấn đề này.

- Giữ gìn và đề cao văn hoá truyền thống đất nước, tuyên truyền văn hoá Trung Hoa, biến văn hoá Trung Hoa là một trong chiếc nôi văn hoá loài người. Còn văn hoá là còn dân tộc, riêng việc này Trung Quốc không nói một đàng, làm một nẻo, họ làm rất nghiêm túc làm đâu ra đấy.

Ta cần học họ hai thứ quốc sách này của Trung Quốc.

̣còn tiếp 


03/08/2023

Ý NGHĨA NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC KHẮC TRÊN "CỬU ĐỈNH" Ở HUẾ

 st trên net

 

 Mới đây, sau hai năm nghiên cứu và xây dựng hồ sơ, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đã hoàn thành hồ sơ di sản tư liệu cho Cửu đỉnh, trình Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xem xét trước khi đệ trình UNESCO công nhận Cửu đỉnh là Di sản tư liệu thế giới.


Bộ 9 chiếc đỉnh đồng lớn được đúc tại kinh thành Huế dưới thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn được bắt đầu vào tháng 10 năm Ất Mùi 1835, kéo dài tới đầu năm 1837 mới hoàn thành. Ngày 4/3/1837, triều đình nhà Nguyễn tổ chức lễ khánh thành và an vị cho Cửu đỉnh dưới sự chủ lễ của vua Minh Mạng.

Cửu đỉnh được coi như biểu trưng và là pháp khí của triều đình nhà Nguyễn đương thời. Sau khi đúc xong, 9 chiếc đỉnh này được an vị tại sân chầu trước Thế Tổ Miếu, phía sau Hiển Lâm Các trong Hoàng Thành (Đại Nội) - kinh thành Huế. Các đỉnh được đặt tên lần lượt là: Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Chương đỉnh, Anh đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh.

9 đỉnh được xếp một hàng ngang, đối diện 9 gian thờ trong Thế Tổ Miếu, tương ứng với 9 vua được thờ trong miếu. Riêng chiếc đỉnh lớn nhất (Cao đỉnh) là chiếc đỉnh ứng với vua Gia Long - vua sáng lập triều Nguyễn - được đặt chính giữa và nhích về phía trước so với 8 chiếc còn lại.


Cửu đỉnh được đúc theo phương thức thủ công truyền thống. Khuôn đúc bằng đất sét cũng được tạo tác thủ công vô cùng tỉ mỉ. Sau khi hoàn thành, tất cả khuôn đúc được phá bỏ để tránh sự sao chép. Tạo hình các đỉnh, cũng như các hình khắc, hoa văn, họa tiết trên Cửu đỉnh vô cùng tinh xảo, và là một sự đa dạng trong thống nhất, chưa từng có ở các công trình, tác phẩm mỹ thuật đã tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy Cửu đỉnh là độc bản, không lặp lại ở bất kỳ nơi đâu. 9 chiếc đỉnh được coi là bộ bách khoa thư của Việt Nam được các học sĩ thời phong kiến soạn ra một cách tổng quát, phong phú, tài tình.

Trên mỗi đỉnh có 18 (là bội của 9) hình khắc theo cách chạm nổi, ngoại trừ một hình khắc tên của đỉnh thì 17 hình còn lại là những hình ảnh mô tả cảnh vật, sản vật của đất nước. Tổng cộng có 153 hình ảnh đậm tính dân tộc, tính dân gian cùng tên gọi được khắc trên 9 đỉnh. Các hình này được phân thành các nhóm, mỗi nhóm có 9 hình khắc trên 9 đỉnh như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền...


Cửu đỉnh cũng được coi là bộ sách địa chí của Việt Nam, với những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu được giới thiệu đủ trên khắp 3 miền, thể hiện một tư tưởng hoà bình, thống nhất đất nước. Đặc biệt, triều đình nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền lãnh hải quốc gia Việt Nam trên Cửu đỉnh ở 3 chiếc đỉnh lớn nhất. Đó là hình ảnh của Đông Hải (Biển Đông - khắc trên Cao đỉnh), và cả các vùng biển Nam Hải (biển phía nam đất nước, khu vực các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau - khắc trên Nhân đỉnh), Tây Hải (biển phía tây đất nước, khu vực các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, giáp vịnh Thái Lan - khắc trên Chương đỉnh).

Trên hình là Đông Hải (Cao đỉnh) là vùng biển phía đông đất nước.



Trên hình là Ngự Bình Sơn khắc trên Nhân đỉnh - núi Ngự Bình là ngọn núi phía trước Kinh thành Huế, được coi là "tiền án" của Kinh thành.


Hương Giang khắc trên Nhân đỉnh - sông Hương, dòng sông lớn ở Thừa Thiên Huế, chảy qua trước Kinh thành Huế và đổ ra biển ở cửa Thuận An.


Hồng Sơn khắc trên Anh đỉnh - núi Chim Hồng còn gọi là Hồng Lĩnh là dãy núi lớn ở Hà Tĩnh.


Bạch Đằng Giang khắc trên Nghị đỉnh - sông Bạch Đằng là con sông lớn ở đông bắc Tổ quốc, chảy qua các tỉnh thành Quảng Ninh, Hải Phòng. Sông Bạch Đằng ghi dấu lịch sử với những trận thuỷ chiến chống quân xâm lược.


Tản Viên Sơn khắc trên Thuần đỉnh - núi Tản Viên, ngọn núi thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Ba Vì - Hà Nội. Tản Viên là ngọn núi gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh trị thuỷ.


Hoành Sơn khắc trên Huyền đỉnh - núi Hoành Sơn hay Đèo Ngang, dãy núi ranh giới giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ; xưa kia là ranh giới Đại Việt - Chăm Pa. Trên núi có một trấn ải là Hoành Sơn Quan đến nay vẫn tồn tại.


Đà Nẵng Hải Khẩu khắc trên Dụ đỉnh - cửa biển Đà Nẵng (còn gọi là cửa Hàn, vịnh Hàn), nơi sông Cẩm Lệ chảy về vũng Hàn rồi đổ ra biển.


Đại Lĩnh khắc trên Tuyên đỉnh - núi Đại Lĩnh (Đại Lãnh), dãy núi lớn là ranh giới giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà.


Hậu Giang - Tiền Giang khắc trên Huyền đỉnh - sông Tiền và sông Hậu, hai con sông chảy qua và có ảnh hưởng lớn với nhiều tỉnh thành Nam Bộ.

22/04/2023

Nói về môn Sử

 



Thuở phong kiến và có chút lan sang thời thực dân, các cụ nhà ta, cụ thể là các nhà Nho, có quan niệm dạy học là dạy Làm Người. Anh ra đời, có thể làm thầy, có thể làm thợ…nhưng đã được học thì anh phải là Con người trước đã.

Vì thế, trong trường xưa (có thể chỉ 1 người, vài người, cũng có thể là Quốc Tử Giám…), anh ta đã được trang bị các kiến thức về Nho – Y – Lý - Số; Cầm – Kỳ - Thi – Hoạ. Tuỳ trường mà còn được học thêm về Kị - Cung – Quyền – Kiếm… Nên dân ta mới có các bậc tài giỏi như Hưng Đạo Vương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Đào Duy Từ…

Con người, với tư cách là một  tiểu vũ trụ duy nhất nên không thể nuôi họ thành công cụ kiếm tiền – dù rằng để tồn tại, anh ta phải kiếm sống, nhưng kiếm sống với tư cách  Con người. Vì vậy, ngoài kỹ năng kiếm tiền, anh ta phải cần được giáo dục để có được tâm hồn cao thượng, nhân ái; một vốn trí thức phong phú về sử - văn – nhạc – hoạ… giúp anh ta sống như con người có nhân cách.

Theo mình nghĩ, giáo dục phổ thông là dạy làm người, dạy cho lớp trẻ những hiểu biết về Văn – Sử – Thể - Mỹ, kiến thức khoa học cơ bản ở trình độ phổ thông để cho các em hình thành nhân cách con người và vốn tri thức phổ thông.

Ở đại học và các trường dạy nghề, căn cứ trên nền kiến thức phổ thông đã có mà tạo ra năng lực kiếm sống, kiếm tiền.

Vì vậy, các em dốt một môn nào trong thời kỳ phổ thông đều là một thiệt thòi cho tương lai – mà dốt Sử là một thảm hoạ lớn nhất.

Bời lẽ, Sử là môn dạy cho các em biết về cội nguồn, về vinh quang và cả nỗi tủi nhục của dân tộc để từ đó hình thành nên tình cảm, tình yêu chân thật với Dân tộc – Đất nước mình. Chính tình yêu này hình thành nên nhân cách và chỉ dẫn cho anh ta trong cuộc sống để làm Con người. Không hiểu, không yêu Lịch sử Dân tộc thì anh ta chỉ là con người thờ ơ, chả quan tâm gì đến dân tộc, đất nước mình mà chỉ quan tâm đến cá nhân và quyền lợi của anh ta mà thôi.

Bản thân tôi cũng như nhiều người rất quan tâm, thật sự buồn khi hiện nay, học sinh phổ thông của ta lại dốt Sử.

Liệu có không biện pháp nào khắc phục?

 

16/04/2023

Văn hoá của bác sĩ và bệnh viện

 st và biên tập.

Giáo sư Viên Chung diễn thuyết tại hội nghị.


Trong “Hội nghị quốc tế thường niên về quản lý khoa lâm sàng”, giáo sư Viên Chung (TQ), Giám đốc nhà xuất bản đại học Y khoa Dung Hợp đã có bài nói mang tên “Bác sĩ làm việc thích ứng với văn hóa”. Ở đây, tôi chỉ xin trích một phần bài này để giới thiệu tới các bạn:

"Một người tìm anh xem bệnh, họ đem hết những việc riêng tư của mình nói cho anh biết, cởi hết quần áo cho anh kiểm tra, đem hết những thống khổ kể cho anh, đem cả sinh mệnh mà giao cho anh, những người này (bác sĩ) chỉ đứng thứ hai sau Thần, chứ không còn là một người bình thường.

Bởi vì có thương yêu mới có việc chữa bệnh và bệnh viện, nếu như sự yêu thương này mất đi thì không thể gọi là chữa bệnh mà nó trở thành giao dịch, một giao dịch sẽ không có sự tôn nghiêm.

Chúng ta đã quên mất cái gì gọi là bệnh viện, chẳng phải giá trị quan đã gặp bất trắc. Cũng có bác sĩ nói cho tôi biết, bản thân anh ta làm bác sĩ là để kiếm tiền. Điều này vốn không sai, nhưng tôi muốn nói cho các vị rằng, nếu chỉ muốn kiếm tiền thì đừng bao giờ làm bác sĩ. Có nhiều công việc trong xã hội này so với nghề bác sĩ vẫn kiếm được rất nhiều tiền, buôn bán bất động sản, khai thác mỏ, tài chính, IT… Thế nhưng, chỉ có hai nghề vừa kiếm ra tiền vừa được sự tôn nghiêm, một là bác sĩ, hai là giáo viên. Ở Nhật Bản, chỉ có hai nghề có thể được gọi là “tiên sinh”, đó chính là hai nghề này, bác sĩ và giáo viên.

…Cơ Đốc Giáo có hai điều rất quan trọng, một là quan niệm thần thánh, hai là tinh thần bác ái. Quan niệm thần thánh cho tôi biết bác sĩ là tập thể những người ưu tú. …Bác sĩ nếu có được quan niệm thần thánh, họ sẽ là những người ưu tú nhất, bất kể là ở phương diện nào, dù cho là thầy thuốc làng, họ cũng sẽ là những người ưu tú nhất nơi đó.

…Cái gì là chữa bệnh? Chữa bệnh khởi nguyên là một tấm lòng đồng cảm, con người quý ở chỗ có tâm đồng cảm, lòng thương xót. Vì chứng kiến thấy người khác bị đau khổ, chịu khổ chịu nạn mà mình cũng cảm thấy  thương xót mà giúp đỡ người ta, đây mới gọi là chữa bệnh. Cái gì là bệnh viện? Trong thời trung cổ, xã hội của Cơ Đốc giáo có rất nhiều người nghèo là ăn mày lang thang khắp nơi, không ai quản đến. Vì thế, họ đã bố trí một nơi để họ giảm bớt khổ cực, cuối cùng từ từ tạo thành bệnh viện. Bởi vì yêu thương mới có chữa bệnh và bệnh viện, nếu mất đi tinh thần này thì không thể gọi là bệnh viện, mà gọi là giao dịch, nó không có tôn nghiêm.

Giá trị của cỏ là vì để cho dê bò sống tốt, giá trị của dê bò là để cho con người sống tốt, giá trị của con người là khiến cho những sinh vật khác sống tốt. Xã hội này vì có bạn mới có thêm 1 phần tốt đẹp, đừng vì có bạn mà lại thêm lại một phần thống khổ hoặc bất hảo."

Vậy, tất thảy chúng ta đều mong rằng và muốn có: Bác sĩ không phải doanh nhân và bệnh viện không phải là công ty kinh doanh kiếm lợi như những con kền kền.

 


08/03/2023

Thiên hạ có 5 việc chẳng lành

 Khổng Tử - Lý Hiểu Mai - NTDTV



Trong “Khổng Tử gia ngữ” có một điển cố như sau: Một lần, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Nghe nói mở rộng dinh thự về phía đông sẽ không tốt, có thật vậy không?

Khổng Tử trả lời rằng: “Thiên hạ có năm việc chẳng lành, nhưng việc ‘mở rộng nhà về phía đông’ không phải là một trong số đó”.

Năm điều chẳng lành đó là gì?

Thứ nhất: Tổn nhân nhi tự ích, thân chi bất tường dã. - Làm tổn hại người để lợi ích cho mình, đó là chuyện chẳng lành của bản thân)

Ý nghĩa là làm gây tổn hại cho người khác để lấy lợi cho bản thân, sẽ mang lại điều xui xẻo cho chính mình.

Thứ hai: Khí lão nhi thủ ấu, gia chi bất tường dã. (Ruồng bỏ người già và chỉ chăm sóc nuông chiều trẻ con, đó là chuyện chẳng lành của gia đình)

Ý nghĩa là gia đình nào bỏ mặc người già, chỉ quan tâm đến con trẻ là điều đáng lo ngại của gia đình đó.

Tại sao nó đáng ngại? Có người ví mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái như một cái cây lớn, quả của cây này là con, thân cây là cha mẹ của con, gốc cây là ông bà của con v.v. Muốn cây sai trái xum xuê thì phải tưới nước và chất dinh dưỡng vào lên gốc rễ của cây.

Nhưng ngày nay, hầu hết các bậc cha mẹ đều trực tiếp tưới nước và chất dinh dưỡng này lên trái cây, dẫn đến trái cây không thể tiếp nhận các chất dinh dưỡng này và bị thối. Đây chính là mấu chốt của những vấn đề trong giáo dục trẻ em hiện nay.

Tấm gương dạy dỗ của cha mẹ thông qua hành động có sức mạnh hơn nhiều lời nói. Người lớn ở nhà nói lời tử tế với cha mẹ, rất kính trọng cha mẹ, con trẻ nhìn thấy điều đó, và chúng sẽ tự nhiên làm theo mà người lớn không cần phải nói.

Thứ ba: Thích hiền nhi dụng bất tiếu, quốc chi bất tường dã. (Ruồng bỏ người hiền lương, trọng dụng kẻ vô đức, đó là chuyện chẳng lành của quốc gia)

Ý nghĩa là một nước không trọng người hiền tài, chỉ bổ nhiệm kẻ xấu bất tài, chính là điều xui xẻo của quốc gia.

Thứ tư: Lão giả bất giáo, ấu giả bất học, tục chi bất tường dã. (Người già không muốn dạy bảo, trẻ con không muốn học tập, đó là chuyện chẳng lành của phong tục)

Ý nghĩa là người già trí tuệ không muốn dạy bảo, người trẻ không chịu học, đó là một phong tục đáng ngại.

Tại sao lại như vậy? Dựa vào kinh nghiệm phong phú của mình, những người lớn tuổi dạy cho con cháu những phong tục truyền thống tốt đẹp, để chúng học làm người tốt, đây là bài học bắt buộc đối với một gia đình. Nhưng hiện nay nhiều gia đình đã mất đi những điều này. Điều đó có nghĩa là gia phong, gia đạo tốt đẹp đang bị mất đi, điều đó thật đáng sợ.

Khổng Tử đã từng cảnh báo: “Thiếu nhi bất học, trường vô năng dã, lão nhi bất giáo, tử mạc chi tư dã”.

Ý nghĩa là: “Một người khi trẻ không học tập, lớn lên sẽ không có năng lực; người lớn không dạy bảo con trẻ, sau khi qua đời sẽ không ai tưởng nhớ”.

Giáo dục gia đình chủ yếu là dạy con cái cách làm người, một khi mất đi sự giáo dục đó thì tai họa sẽ không còn xa.Khổng Tử.

Thứ năm: Thánh nhân phục nặc, ngu giả thiện quyền, thiên hạ bất tường dã. (Thánh nhân ẩn tích, kẻ ngu chuyên quyền, đó là chuyện chẳng lành của thiên hạ)

Ý nghĩa là khi người có tài và đức rút lui về, và kẻ ngu dốt và thiếu trí huệ, đức hạnh lên nắm quyền, đây là một điềm xấu trong thiên hạ.

Tại sao? Bởi vì người tài đức không được trọng dụng, không được quốc gia coi trọng, lời khuyên của họ không được tiếp nhận, nên họ sống ẩn dật và không ra làm quan. Nhưng những kẻ ngu ngốc nắm quyền lực và thao túng các vị trí. Đây chính là điều xui xẻo cho thiên hạ.


17/02/2023

NƯỚC VIỆT NAM

Trích Việt Nam Sử lược (1919 - 1920) 

Trần Trọng Kim (1883 - 1953) 

Bản lưu tủ sách gia đình


1. Quốc-hiệu

2. Vị-trí và diện-tích

3. Địa-thế

4. Chủng loại

5. Gốc-tích

6. Người Việt-nam

7. Sự mở-mang bờ-cõi

8. Lịch-sử Việt-nam

1. QUỐC-HIỆU.

Nước Việt-nam ta về đời Hồng bàng (2897-258 tr. Tây-lịch) gọi là Văn-lang , đời Thục An-dương-vương (257-207 tr. Tây-lịch?) thì gọi là Âu-lạc . Đến nhà Tần (246-206 tr. Tây-lịch?) lược định phía nam thì đặt làm Tượng-quận , sau nhà Hán (202 tr. Tây-lịch 220 sau Tây-lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng-quận ra làm ba quận là Giao-chỉ , Cửu-chân và Nhật-nam . Đến cuối đời nhà Đông-Hán, vua Hiến-đế đổi Giao-chỉ làm Giao-châu . Nhà Đường (618-907) lại đặt là An-nam Đô-hộ-phủ .

Từ khi nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn Thập-nhị Sứ-quân, lập nên một nước tự-chủ, đổi quốc-hiệu là Đại-cồ-việt . Vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt , đến đời vua Anh-tông, nhà Tống bên Tàu mới công-nhận là An-nam quốc .

Đến đời vua Gia-long, thống-nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An-nam, Việt là Việt-thường  mới đặt quốc-hiệu là Việt-nam . Vua Minh-mệnh lại cải làm Đại-nam .

Quốc-hiệu nước ta thay-đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An-nam , nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần-phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt-nam mà gọi nước nhà.

2. VỊ-TRÍ VÀ DIỆN TÍCH.

Nước Việt-nam ở về phía đông-nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung thì eo hẹp lại.

Đông và Nam giáp bể Trung-quốc (tức là bể Nam-hải); Tây giáp Ai-lao và Cao-miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam.

Diện-tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:

Bắc Việt  : 105.000 km2

Trung Việt : 150.000 km2

Nam Việt  : 57.000 km2

3. ĐỊA-THẾ.

Nước ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc-Việt, Trung-Việt và Nam-Việt. Đất Bắc-Việt có sông Hồng-hà (tức là sông Nhị-hà) và sông Thái-bình. Mạn trên gọi là Thượng-du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung-châu, đất đồng bằng, người ở chen-chúc đông lắm.

Đất Trung-Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Tràng-sơn chạy dọc từ Bắc-Việt vào gần đến Nam-Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Đất Nam-Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê-kông (tức là sông Cửu-long), lại có sông Đồng-nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân-gian trù-phú và dễ làm ăn hơn cả.

4. CHỦNG-LOẠI.

Người Việt-nam có nhiều dân-tộc ở, như là ở về miền thượng-du Bắc-Việt thì có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung-Việt thì có dân Mọi, và Chàm, (tức là Hời), ở về miền Nam-Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà-và và Khách, vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân-tộc Việt-nam ở hết cả.

Số người Việt-nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc-Việt  : 8.700.000 người

Trung-Việt : 5.650.000 người

Nam-Việt  : 4.616.000 người

Cả thảy cọng lại được độ chừng non 19 triệu người[1].

5. GỐC-TÍCH.

Theo ý-kiến của những nhà kê-cứu của nước Pháp, thì người Việt-nam và người Thái đều ở miền núi Tây-tạng xuống. Người Việt-nam theo sông Hồng-hà lần xuống phía đông-nam, lập ra nước Việt-nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm-la (tức là Thái-lan) và các nước Lào.

Lại có nhiều người Tàu và người Việt-nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam-miêu ở, sau giống Hán-tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía tây-bắc đến đánh đuổi người Tam-miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng-hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam-miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt-nam ta bây giờ.

Những ý-kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích-xác. Chỉ biết rằng người Việt-nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao-chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam-miêu.

Dẫu người mình thuộc về chủng-loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai-trị hàng hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt-nam ngày nay.

6. NGƯỜI VIỆT-NAM.

Người Việt-nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm-lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm-ngăm đen, người nào nhàn-hạ phong-lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng-trắng như màu ngà cũ.

Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn-lẳn con người, chứ không to-béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn-bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng-điệu đi-đứng thì nhẹ-nhàng và xem ra bộ vững-vàng chắc-chắn.

Áo-quần thì dài rộng, đàn-ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn-bà ở Bắc-Việt và phía bắc Trung-Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành-thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung-Việt và Nam-Việt thì đàn-bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí-tuệ và tính-tình, thì người Việt-nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại-khái thì trí-tuệ minh-mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tình vặt, cũng có khi quỉ-quyệt, và hay bài-bác nhạo-chế. Thường thì nhút-nhát, hay khiếp-sợ và muốn sự hòa-bình, nhưng mà đã đi trận-mạc thì cũng có can-đảm, biết giữ kỹ-luật.

Tâm-địa thì nông-nổi, hay làm liều, không kiên-nhẫn, hay khoe-khoang và ưa trương-hoàng bề ngoài, hiếu danh-vọng, thích chơi bời, mê cờ-bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự  lễ-bái, nhưng mà vẫn không nhiệt-tin tông-giáo nào cả. Kiêu-ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Đàn-bà thì hay làm-lụng và đảm-đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia-đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt-nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong-tục, nói một thứ tiếng[2] cùng giữ một kỷ-niệm, thật là cái tính đồng-nhất của một dân-tộc từ đầu nước đến cuối nước.

7. SỰ MỞ-MANG BỜ-CÕI.

Người nòi-giống Việt-nam ta mỗi ngày một nẩy-nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường-thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm-ấp, dứt Chiêm-thành, chiếm đất Chân-lạp, mở ra bờ-cõi bây giờ.

8. LỊCH-SỬ VIỆT-NAM.

Từ khi người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai-trị mấy lần, chịu khổ-sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự-chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc-biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí-lực của người mình không đến nỗi kém-hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẻ-vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy-vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường-thịnh.

Vậy ghi-chép những cơ-hội gian-truân, những sự biến-cố của nước mình đã trải qua, và kể những công-việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt-nam sử.

Nay ta nên theo từng thời-đại mà chia sách Việt-nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê-cứu:

Phần I : Thượng-cổ thời-đại.

Phần II : Bắc-thuộc thời-đại.

Phần III : Tự-chủ thời-đại.

Phần IV : Nam-bắc Phân-tranh thời-đại.

Phần V : Cận-kim thời-đại.

Chú thích cuối trang

▲ Số này là theo sách Địa-lý của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã đúng số nhất-định của người mình.

▲ Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ-âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại-để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.