13/11/2024
07/11/2024
Tôi có thể cưỡng lại mọi thứ, trừ sự cám dỗ.
Oscar Wilde (1854-1900) – nhà thơ, nhà viết kịch đồng tính (dù ông có vợ và 2 con) nguời Ireland, người cải đạo thành tín đồ
Thiên chúa vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Bản thân ông bị Nhà thờ
Thiên Chúa giáo coi là kẻ phóng đãng, đáng nguyền rủa nhưng những câu nói của
Ông lại được trích dẫn nhiều, trong đó có các Cha cố vì coi đó
là những cách ngôn sắc xảo, mang tính luân lý.
Một số
câu nói nổi tiếng của Oscar Wilde
– Tôi không thích thời kỳ hẹn hò kéo dài. Nó khiến cho người ta
biết hết mọi thứ về nhau trước khi kết hôn.
– Tôi có thể cưỡng lại mọi thứ, trừ sự cám dỗ.
– Chính là sự thú tội, chứ không phải các linh mục, khiến cho
chúng ta cảm thấy được tha thứ.
– Cách duy nhất để thoát khỏi sự cám dỗ là đầu hàng nó.
– Điều duy nhất tồi tệ hơn việc bị mọi người bàn tán là không còn
được ai bàn tán đến nữa.
- Cuộc sống bắt chước nghệ thuật chứ không
phải ngược lại.
– Trẻ con thường bắt đầu bằng tình yêu dành cho bố mẹ. Nhưng càng
lớn lên, chúng càng hay phán xét bố mẹ. Thỉnh thoảng, chúng mới tha thứ cho họ.
– Không có cách gì hiệu quả để làm mất giá trị một con người bằng
cách nói rằng, họ là kẻ phạm tội.
– Thế nào là một kẻ hoài nghi? Là người biết giá cả của mọi thứ
nhưng không biết giá trị của bất cứ thứ gì.
– Kinh nghiệm là cái mà người ta dùng để đặt tên cho sai lầm của
mình.
– Thật đáng buồn nếu trong cuộc đời, chúng ta chỉ nhận được những
bài học mà chúng không còn giá trị sử dụng nữa.
11/10/2024
Ấn vàng truyền quốc của chúa Nguyễn Phúc Chu năm 1709
Tập hợp từ nhiều nguồn trên net.
Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia hiện đang lưu giữ và trưng bày chiếc ấn vàng “Đại Việt Quốc
Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo”.
Đây là chiếc ấn có niên đại sớm nhất trong lịch sử tồn tại của vương triều Nguyễn. Ấn được đúc vào năm 1709, đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725). Ấn có hình vuông, với kích thước cao 6,3cm; dài cạnh10,84cm; dày 1,1cm; trọng lượng 2.350gr (gần 90 lạng - cây vàng) có kỹ thuật đúc và chạm khắc công phu, tỷ mỷ.
Núm ấn là tượng nghê vờn ngọc, đầu ngẩng cao, quay về bên trái, vây lưng nổi hình đao mác. Mặt ấn đúc chữ Hán (kiểu chữ Triện): Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo - 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶(vật báu của chúa Nguyễn nước Đại Việt trấn giữ lâu dài). Hai bên lưng ấn khắc 2 dòng lạc khoản, bên trái: Kê bát thập kim lục hốt tứ lạng tứ tiền tam phân - 計八十金六笏四両四錢三分 (cộng vàng 8 tuổi, nặng 6 thỏi, 4 lạng, 4 tiền, 3 phân), bên phải: Vĩnh Thịnh ngũ niên thập nhị nguyệt sơ lục nhật tạo - 永盛五年十二月初六日造 (chế tạo vào ngày 6 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh 5, tức năm 1709 dưới triều Vua Lê Dụ Tông). Cạnh dưới có dòng lạc khoản khắc 9 chữ Hán: Lại bộ Đồng Tri Qua Tuệ Thư giám tạo - 吏部同知戈穂書監造 (quan trông nom việc chế tạo là Đồng Tri bộ Lại Qua Tuệ Thư).
Bảo ấn được vua Gia Long chọn làm báu
vật truyền ngôi của triều Nguyễn.
Về tổng thể, ấn có hình vuông, chiều cao cả quai 6,3cm, cạnh 10,84cm, dày 1,10cm, có quai đúc theo hình tượng lân vờn ngọc, đầu quay về trái. Đầu lân ngẩng cao, chân trước bên phải chống, chân trước bên trái đặt lên viên ngọc, 2 chân sau chùng.
Dọc lưng kỳ lân chạm khắc văn mây lửa.
Mặt trên của ấn khắc 2 dòng chữ Hán. Bên trái khắc 12 chữ: Kế bát thập kim, lục hốt, tứ lạng, tứ tiền, tam phân (Vàng 8 tuổi, nặng 6 thoi, 4 lạng, 4 tiền, 3 phân). Bên phải khắc 11 chữ: Vĩnh Thịnh ngũ niên thập nhị nguyệt sơ lục nhật tạo (Chế tạo vào ngày 6 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709), dưới triều Vua Lê Dụ Tông).
Mặt ấn đúc nổi 9 chữ triện phong cách thế kỷ 17 – 18, nét chữ vuông vức uốn nhiều góc. Xung quanh là đường viền rộng 1,20cm.
Mặt ấn đọc theo chiều từ trên xuống dưới và từ phải sang trái là Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn chi bảo (Bảo vật của Chúa Nguyễn nước Đại Việt trấn giữ lâu dài). Cạnh dưới khắc 1 dòng 9 chữ Hán: Lại bộ Đồng Tri Qua Tuệ Thư giám tạo (quan trông nom việc chế tạo là Đồng Tri bộ Lại Qua Tuệ Thư).
Trong 300 năm tồn tại, bảo ấn đã thất lạc nhiều lần trong các cuộc chiến tranh, từng lưu lạc tới tận Thái Lan cùng chúa Nguyễn Ánh.
Các nhà nghiên cứu đánh giá đây là một bảo vật vô giá của tiền nhân để lại.
Vào năm 2016, hiện vật đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.
08/10/2024
Cổ vật khảm xà cừ Việt Nam
Góp nhặt trên net.
Khảm xà cừ hay cẩn xà cừ là
một nghề thủ công của Việt
Nam đã thấy nhắc trong sử sách từ thế kỷ
thứ 3-5, thời kỳ Bắc thuộc. Sang triều
Trần thì nghề khảm vỏ ốc đã khá điêu luyện nên được triều đình trưng thu
làm cống phẩm gửi sang tặng nhà Nguyên năm 1289.
Khi người Âu Châu
sang đến Việt Nam thì trình độ hàng khảm địa phương được nhắc đến là một trong
những nghệ thuật cao, rất tinh vi, khéo léo. Điển hình là năm 1868 Thống soái
Pierre-Paul de La Grandière đã xin triều đình Huế gửi 2 người
thợ khảm giỏi vào Sài Gòn để truyền nghề. Sang năm 1877 thì hàng khảm
ốc Việt Nam được triều đình gửi sang Pháp dự Hội chợ Đấu xảo.
Chất liệu xà
cừ thông thường được lấy từ trai, ốc nên khảm xà cừ còn
được gọi là khảm trai hay khảm ốc.
Người thợ khảm trai
dùng những mảnh vỏ trai để khảm (gắn) lên các đồ vật. Các công đoạn cần phải
thực hiện khá tỉ mỉ: vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm lên tranh rồi lại
mài nhẵn và đánh bóng. Bước đầu tiên là chẻ vỏ thành mảnh rồi rọc theo thớ.
Mảnh vỏ ốc cắt xong thì đem ngâm nước rồi hơ đèn nóng để uốn phẳng vì vỏ ốc vốn
cong. Trong khi đó mặt vật dụng muốn khảm (thường là mặt gỗ) phải khoét lõm để
nhận lấy mảnh vỏ ốc. Người thợ dùng sơn ta để gắn. Gắn xong thì đem
mài. Trước mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại
đánh bằng vôi bột. Bước cuối cùng là đánh bằng lá ngái rồi
xoa bột gạo lên.
Nền các bức khảm xà cừ
thường có màu tối của lớp sơn đen, chứ không có thêm nhiều màu như
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác, do bản thân chất liệu xà cừ đã có đã tạo lên
nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí.
Ở Việt Nam ta có một số làng nghề truyền thống lâu đời
như:
· Làng nghề
Chuôn Ngọ, Chuyên Mỹ, Phú Xuyên,Hà Nội
· Làng
nghề Ninh Xá, Ý Yên, Nam Định.
· Làng
nghề Cao Xá, Ứng Hoà, Hà Nội
· Làng
nghề Địa Linh,xã Hương Vinh, H. Hương Trà, TT-Huế
Mời các bạn thưởng lãm một số cổ vật khảm xà cừ đẹp được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Hộp gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Các công đoạn để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh cần phải thực hiện khá tỉ mỉ: vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm lên tranh rồi lại mài nhẵn và đánh bóng. Ở bước khảm thì người nghệ nhân dùng những mảnh vỏ để khảm (gắn) lên các đồ vật.
Hộp đựng thức ăn khảm xà cừ triều Nguyễn.
Vỏ ốc để khảm được chẻ vỏ thành mảnh rồi rọc theo thớ. Mảnh vỏ ốc cắt xong thì đem ngâm nước rồi hơ đèn nóng để uốn phẳng vì vỏ ốc vốn cong. Trong khi đó mặt vật dụng muốn khảm thường là mặt gỗ phải khoét lõm để gắn mảnh vỏ ốc.
Hộp đựng thức ăn khảm xà cừ triều Nguyễn.
Người thợ dùng sơn ta để gắn vỏ ốc vào gỗ. Gắn xong thì đem mài. Trước mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại đánh bằng vôi bột. Bước cuối cùng là đánh bằng lá ngái rồi xoa bột gạo lên.
Kỷ thờ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Khảm xà cừ thường được dùng ở đồ trang sức, khuy áo, đũa, đồ gỗ như bàn, ghế, giường, sập, tủ, bình phong, tranh treo tường. Nó thường được kết hợp với đồ gỗ đánh bóng sơn mài mỹ nghệ.
Tráp đựng trầu khảm xà cừ triều Nguyễn.
Nền các bức khảm xà cừ thường có màu tối của lớp sơn đen, chứ không có thêm nhiều màu như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác, vì bản thân chất liệu xà cừ đã tạo lên nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí.
Hình chim và hoa đào trên một bức tranh khảm xà cừ triều Nguyễn.
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ, người ta có thể sử dụng máy móc trong quá trình khảm xà cừ.
Tranh gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Dù đã có máy móc thay thế nhưng một tác phẩm nghệ thuật thật sự với các chi tiết tinh xảo lại đòi hỏi bàn tay khéo léo, tài hoa, óc sáng tạo phong phú – điều chỉ có thể đạt được khi người thợ nhẫn nại làm thủ công ở tất cả các công đoạn.
Cuốn thư khảm chữ “Đan Thư” (sách hội tụ lời hay ý đẹp của cổ nhân) triều Nguyễn.
Cảnh rước rồng trên một bức tranh khảm xà cừ triều Nguyễn.
Một cảnh trên bình phong khảm xà cừ niên hiệu Thành Thái (1890).
Bề mặt tủ gỗ khảm xà cừ triều Nguyễn.
Cận cảnh một cánh cửa tủ gỗ khảm xà cừ.
28/09/2024
Nhạc phẩm bolero "Nắng chiều" của nhạc sỹ Nguyễn Trọng Nghĩa
Gần đây, chúng ta thường nghe thấy nói nhiều về dòng nhạc
Bolero. Có lẽ nhiều người sẽ liên tưởng đến dòng nhạc Vàng trước 1975 ở trong
Nam. Nhưng thật ra hai dòng nhạc này có sự khác biệt, các bạn chịu khó tìm hiểu
sẽ thấy.
Bolero xuất xứ từ Tây Ban Nha từ thế kỷ 18 và được các nhạc sỹ như Chopin (Ba Lan, 1810 – 1849), Bizet (Pháp, 1838 – 1875) và Debussy (Pháp, 1862 – 1918) sử dụng viết các chương trong các khúc hòa tấu và nhạc kịch của mình và chỉ hạn hẹp trong giới quý tộc thưởng thức.
Nhưng khi Bolero du nhập vào Nam Mỹ từ tk 19, nó đã được
đón nhận nồng nhiệt bởi tính lãng mạng, phóng khoáng và trở thành âm nhạc của
đại chúng. Ở đây, bolero biến tấu thành các điệu bolero, rumba, rumba bolero, mambo, calypso,
baiao; kể cả tango, tango habanera, chachacha.
Ở Việt Nam, nhạc sỹ tài hoa kiêm nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Trọng Nghĩa đã sáng tác bản rumba bolero đầu tiên năm 1952 với cái tên Nắng chiều. Bản nhạc thành công và nổi tiếng cho đến tận bây giờ, tạo thành một xu hướng sáng tác của nhiều nhạc sỹ miền Nam khi ấy.
Nó có sức thuyết phục và cuốn hút người nghe đến nỗi, năm
1958, nữ ca sĩ Nhật Bản Satsuki Midori gặp Lê Trọng Nguyễn và xin dịch bài hát
sang ca từ tiếng Nhật với tựa đề Việt
Nam tình ca, thu thanh ở Tokyo. Năm
1960, nữ ca sĩ Đài Loan Kỷ Lộ Hà cũng đã gặp ông xin phép,
hát và thu thanh với ca từ tiếng Quan thoại do Thận Chi viết; tựa đề ca khúc
là Tịch dương.
Sau đó, Nắng chiều còn được dịch qua tiếng Anh, tiếng
Thái và tiếng Khmer với nhiều ca sĩ hát, trở thành một bài Á châu tình ca!
Năm 1953 , Nguyễn Trọng Nghĩa soạn hoà âm và phối khí cho
dàn nhạc với giọng hát của danh ca Minh Trang bằng đĩa than 33 tours do Hãng
đĩa Việt Nam (Sài Gòn) sản xuất.
Xin trân trọng giới thiệu tới các bạn lời và giai điệu
của bài hát này:
Qua bến
nước xưa lá hoa về chiều
lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa
khi đến cuối thôn chân bước không hồn
Nhớ sao là nhớ đến người ngày thơ.
Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy
Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh.
Anh nhớ bước em khi nắng vương thềm
Má em mầu ngà tóc thề nhẹ bay
Nay anh về qua sân nắng
chạnh nhớ câu thề tim tái tê
chẳng biết bây giờ
người em gái duyên ghé về đâu
Nay anh về nương dâu úa
giọng hát câu hò thôi hết đưa
hình bóng yêu kiều
kề hoa tím biết đâu mà tìm.
Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh em nói: "Mến anh!"
Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi...
06/09/2024
Nhà Văn hoá Hoàng Đạo Thuý bàn về chữ Lễ
Trong bài viết trên báo Thanh Nghị, số 44 ra ngày 1/9/1943, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy đã phân tích rất kỹ lưỡng về giá trị của chữ "Lễ" trong đời sống người Việt xưa và nay. Ông lập luận rằng giáo dục không chỉ là việc học kiến thức, mà còn là việc học Lễ, học cách làm người. Từ quan điểm đó, ông đi sâu vào việc phân tích và giải thích các nghi thức truyền thống trong văn hóa Việt Nam, đồng thời bày tỏ lo ngại về sự phai nhạt dần của những giá trị này trong xã hội hiện đại.
Tôi xin mạo muội tóm lược bài viết của
Ngài, đăng ở đây nhân dịp năm học mới.
Các bạn có thể tìm được bài viết đầy đủ này của
Ông trên net.
Ý
Nghĩa Của Việc Học Lễ
Ông Hoàng Đạo
Thúy bắt đầu bài viết bằng việc đặt ra câu hỏi: "Đi học để làm gì?" Câu trả lời của nhiều người thường rất đơn
giản: "Đi học để học đọc, học viết và học tính". Tuy nhiên, ông nhận định rằng nếu việc học chỉ
gói gọn trong ba yếu tố đó thì chưa đủ. Kiến thức kỹ thuật chỉ là phương tiện,
còn mục đích thực sự của việc học là để biết Lễ, tức là để biết cách sống, biết cách ứng xử với chính mình và
với xã hội.
Theo quan điểm
của ông: "người khác loài vật là ở
chỗ biết Lễ". Chính Lễ tạo nên sự khác biệt giữa con người
và các loài khác. Lễ không phải chỉ
là một loạt các quy tắc nghi thức mà người ta phải tuân theo một cách mù quáng,
mà nó là sự thể hiện của phẩm giá, lòng tôn trọng bản thân và tôn trọng người
khác. Khi con người biết Lễ, họ có
khả năng nhìn nhận và đánh giá đúng mực mọi việc, biết cư xử đúng đắn với người
khác và biết sống sao cho hợp đạo lý.
Lễ
Trong Quan Niệm Xưa
Hoàng Đạo Thúy
dẫn chứng rằng trong lịch sử, Lễ
từng có sức mạnh lớn đến mức có thể ngăn chặn cả chiến tranh. Ông kể lại câu
chuyện về một vị vua không dám đánh nước Lỗ vì dân nước này "biết Lễ." Từ đó, ông khẳng định rằng Lễ không chỉ là một giá trị đạo đức cá
nhân mà còn là yếu tố quyết định đến sức mạnh của cả một dân tộc. Dân tộc biết Lễ, biết yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì
nghĩa lớn sẽ tạo nên sức mạnh vô địch, không dễ bị khuất phục.
Tuy nhiên,
Hoàng Đạo Thúy cũng nhận thấy rằng nhiều người đã hiểu nhầm Lễ nghĩa, biến nó thành những hình thức
giả dối. Ông nêu rõ rằng Lễ không
phải là sự cầu cạnh, không phải là những hành động Lễ nghĩa hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân. Lễ chính là việc tự trọng, tự giữ gìn phẩm giá của mình và từ đó cư
xử đúng đắn với người khác. Một người biết Lễ
là người biết điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với đạo lý và đúng
mực.
Bốn Lễ
Trọng: Quan, Hôn, Tang, Tế
Trong bài
viết, Hoàng Đạo Thúy đã giải thích rất chi tiết về bốn Lễ lớn trong đời sống người Việt: quan, hôn, tang, tế.
Mỗi Lễ đều có ý nghĩa sâu sắc và
được gắn liền với những giá trị nhân văn cao cả.
· Quan: Lễ đội mũ (quan) là một nghi thức quan trọng, biểu hiện sự trưởng
thành của người con trai. Khi một thanh niên được làm Lễ quan, tức là anh ta đã được công nhận là một người đàn ông
trưởng thành, có đủ phẩm chất để tham gia vào đời sống xã hội. Lễ này không chỉ đánh dấu sự trưởng
thành về thể chất mà còn nhấn mạnh sự trưởng thành về mặt đạo đức. Thật tiếc là
ngày nay Lễ quan không còn được giữ
gìn, điều này đã khiến cho sự suy thoái trong đạo lý và nhân cách của con người
trở nên rõ rệt hơn.
· Hôn: Lễ cưới (hôn) không chỉ là sự kết hợp giữa hai cá nhân, mà còn là
sự liên kết giữa hai gia đình. Đó là một sự tiếp nối về mặt huyết thống, tiếp
nối truyền thống gia đình. Hoàng Đạo Thúy nhận xét rằng nhiều nghi Lễ cưới hỏi ngày nay đã mất đi ý nghĩa
ban đầu, trở thành những buổi Lễ
hình thức, thiếu sự trang trọng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nó từng mang
theo.
· Tang: Lễ tang là lúc con cháu thể hiện lòng hiếu thảo đối với người đã
khuất. Tuy nhiên, Hoàng Đạo Thúy lo ngại rằng Lễ tang hiện nay đã biến tướng thành những nghi thức phô trương
hình thức, xa rời ý nghĩa nguyên thủy của nó. Tang Lễ truyền thống vốn là lúc con cháu thể hiện sự kính trọng và tưởng
nhớ đối với tổ tiên, nhưng giờ đây lại trở thành dịp để nhiều gia đình thể hiện
sự giàu có, danh tiếng.
· Tế: Lễ tế, hay việc thờ cúng tổ tiên, là một nét đẹp văn hóa, gắn kết
giữa các thế hệ. Theo quan điểm của Hoàng Đạo Thúy, tế không chỉ đơn giản là
việc cúng bái mà còn là biểu hiện của lòng thành kính, sự ghi nhớ công ơn tổ
tiên. Khi Lễ tế được thực hiện đúng
đắn, nó sẽ giúp gia đình duy trì được sự gắn bó, truyền thụ những giá trị văn
hóa và đạo đức qua các thế hệ.
Tầm
Quan Trọng Của Lễ Trong Xã Hội Hiện Đại
Hoàng Đạo Thúy
nhận định rằng sự phai nhạt của các Lễ
nghĩa truyền thống là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức trong xã hội.
Ông cảnh báo rằng nếu Lễ nghĩa không
được coi trọng, xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng. Các
giá trị về lòng trung thành, hiếu thảo và tinh thần cộng đồng sẽ bị lãng quên,
thay vào đó là sự ích kỷ, vụ lợi cá nhân.
Bằng cách nhấn
mạnh tầm quan trọng của Lễ trong đời
sống xã hội, Hoàng Đạo Thúy mong muốn khôi phục lại những giá trị tốt đẹp của
truyền thống. Ông cho rằng hình thức Lễ
có thể thay đổi theo thời gian, nhưng tinh thần của Lễ phải luôn được giữ gìn. Điều này không chỉ giúp cá nhân sống
đúng đạo lý mà còn góp phần xây dựng một xã hội hòa bình, thịnh vượng.
Kết Luận
Chữ "Lễ" trong văn hóa Việt Nam không
chỉ là một khái niệm về hình thức, mà là một hệ giá trị toàn diện, bao gồm đạo
đức, tư tưởng và cách ứng xử của con người. Hoàng Đạo Thúy, thông qua bài viết
của mình, đã khẳng định rằng sự suy đồi của Lễ nghĩa không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề của cả xã
hội. Ông kêu gọi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần phải ý thức rõ hơn về
tầm quan trọng của Lễ, để từ đó biết
cách sống, biết cách hành xử sao cho xứng đáng với các giá trị truyền thống mà
cha ông đã truyền lại.
Như vậy, Lễ không phải là thứ chỉ để đọc, học và nói cho
biết, mà Lễ là nền tảng để con người hoàn thiện bản thân và đóng góp cho xã hội.
Trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng như bây giờ, việc giữ gìn và phát
huy những giá trị của chữ "Lễ"
là điều hết sức cần thiết để giữ cho chúng ta một bản sắc, một giá trị đạo đức
bền vững.
05/09/2024
Văn hoá rượu
Kẻ nghiện rượu
Người Việt,
ngoài truyền thống yêu nước, còn có truyền thống uống rượu. Rượu và trà từ lâu
đã trở thành một phần của văn hóa dân tộc. Qua bài viết này, tôi mong giúp các
bạn hiểu đúng về rượu và khôi phục lại khái niệm "văn hóa rượu" thay
vì coi rượu là "tệ nạn xã hội".
Rượu vốn là thức uống quan trọng trong lễ nghi, "vô tửu bất thành lễ", và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, đặc biệt khi gặp gỡ bạn bè, tri kỷ. Nguyễn Du đã từng ca ngợi rượu trong cuộc sống tao nhã.
Khi chén rượu, khi cuộc
cờ
Khi xem hoa nở khi chờ
trăng lên
(nên mới có chăng “bầu rượu, túi thơ”)
Chén rượu của cổ nhân là chén rượu hòa với đất trời, với văn
hóa và với tri kỷ.
Nhưng ngày nay, uống rượu đã biến tướng thành "nhậu rượu", mất đi nét văn hóa thi vị của thưởng thức rượu, biến rượu thành thước đo bản lĩnh đàn ông. Tuy vậy, người ta cũng đã nhắc nhở về việc uống điều độ:
Rượu nhạt uống lắm cũng
say,
Người khôn nói lắm dẫu
hay cũng nhàm.
Các cụ ngày xưa mời rượu nhau gọi là “chén tạc, chén thù”: Chủ rót rượu mời khách gọi là “tạc”, khách đáp lễ gọi là “thù”. Chứ chả ai ép ai mà tùy hứng thì nâng chén nhấp môi thôi hoặc sảng khoái cạn ly, tiêu sái.
Mà bây giờ, khi đi uống rượu ta thường
thấy những cảnh kiểu “lúc nãy anh mời chú
rồi, bây giờ chú mời lại anh đi”.
Cái gọi là
"ép uống" thực ra là do bản thân không tự chủ. Uống rượu là tự mình
quyết định, và khi không kiểm soát được thì đừng đổ lỗi cho rượu hay bạn bè.
Chỉ cần giữ mức uống vừa phải, không cần say mèm, vẫn có thể duy trì sự giao
tiếp vui vẻ và chia sẻ.
Vấn đề chưa bao giờ là “rượu” hay “chuyện uống rượu”, mà là ở
“NGƯỜI UỐNG RƯỢU”. Chúng ta hay đổ lỗi cho rượu nhưng thực sự vấn đề là ở ý thức
uống rượu ở mỗi người.
Hãy uống rượu
có trách nhiệm và biến nó trở lại thành nét đẹp văn hóa, chứ không phải là tệ
nạn xã hội.
04/09/2024
Chút chuyện về ấm và thú uống trà
Cũng là người mê trà, nghiện trà và sưu tầm đồ pha trà nên mình có vài suy nghĩ
lan man, chia sẻ cùng các đồng đạo.
Ấm Tử sa (cát - sét tím) có thể độ chục năm gần
đây mới nhận được sự quan tâm, chú ý của giới trà đạo Việt. Có lẽ
nhiều lý do, nhưng chắc có phần là hàng Trung Quốc vào nhiều, giá hợp lý; kiểu
dáng đẹp, mẫu mã phong phú hơn so với hàng trong nước nên được yêu thích, sưu
tầm.
Chứ ngày xưa, các cụ nhà ta khá giả dùng ấm cổ thường khoe ấm gan gà Thế
Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần cơ. Cũng là tử sa Nghi Hưng nhưng nay
không còn làm nữa.
Đất làm
ấm là loại đất sét, đá, có chứa thạch anh, mica, cao lanh, sắt... gì đó tuỳ thuộc vào vùng gốm nhưng làm
ra đất là một quá trình vô cùng cầu kỳ, mất thời gian lại dựa vào bí truyền
của từng nghệ nhân: Đất mỏ các loại đem ngâm vào nước trong bể to theo
một tỷ lệ nào đó trong thời gian từ 3 đến 6 tháng, thậm chí lâu hơn; hỗn hợp này bị nát
ra được đánh tan trộn đều cho vào bể lắng, đất sét được lắng xuống đáy còn tạp
chất nổi lên trên và bị loại bỏ; Chắt lọc ra đất tinh đem phơi trong râm khoảng 3 đến 5
ngày rồi cho vào bể ủ để đất lên men. Thời gian ủ càng lâu thì đất càng tốt,
làm ra các sản phẩm tinh tế.
Ấm Tử
sa là loại ấm đất, không tráng men được nung ở nhiệt độ cao
trên 1.000 độ và thường có màu tím - Nó xuất sứ từ vùng Nghi Hưng,
Trung Quốc. Ấm xuất hiện từ thế kỷ 15 và nổi danh dưới
thời nhà Thanh cho đến nay.
Ở Việt
nam mình, cũng có loại ấm tương tự này gọi là ấm da chu (ấm
đất nung, không tráng men màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm - nhỏ khoảng hơn 100ml)
nhưng thường đi với bộ chén hạt mít từ 3 đến 7 cái; chứ ấm Tử sa thường dùng chén sứ - nay cải lương nên có cả chén tử sa. Ngày xưa, ấm da chu thường có 2
lớp, về sau thất truyền. Nay ấm da chu ít được dùng và chỉ còn
rải rác trong dân gian
Ấm da chu và ấm đất của Việt Nam có thiết kế giản dị,
chú trọng đến sự tinh tế và công năng hơn là yếu tố trang trí. Những chiếc ấm
này có bề mặt mộc, thường không trang trí, vẽ hình, phản ánh phong cách thưởng
trà thanh nhã của người Việt. Ấm có dáng vẻ trầm lắng, cổ điển, phù hợp với
phong cách uống trà mạn của dân ta. Ấm uống trà nhiều, lâu đời có vẻ ngoài mịn
bóng.
Ấm Tử sa được làm ra từ các nguyên liệu và cách nung khác
nhau. Ví dụ như đất là: Đế Tào Khang, Tử Nê, Thanh thuỷ Nê, Ngọc sa
liệu, Ngũ sắc thổ, Tử kim sa, Tử ngọc kim sa... nên tạo ra các sắc màu khác
nhau cho ấm.
Ấm Tử sa có nhiều dáng kiểu, điển hình và phổ biến như: Tây thi, Thạch biều, Văn đán, Chuyết cầu,
Đức chung, Phan hồ, Tiếu anh, Thuỷ bình, Long đán...
Nhưng nói thật với các bạn, qua tìm hiểu, tôi thấy: Với
giá tiền tầm vài triệu trở xuống thì đều là ấm đất sét tím mà thôi chứ
đừng mong có đất khoáng tử sa đâu ạ.
Nói ấm Tử sa pha trà là ngon nhất là điều cần phải nghĩ,
bàn. Vì tuỳ nền văn hoá, phong cách uống trà và loại trà ta pha và cách pha trà
sẽ có các đánh giá khác nhau.
Mà muốn thưởng thức trà ngon ta phải quan tâm lần lượt: Nhất nước, nhị trà, tam pha, tứ ấm. Tỷ dụ như trà móc câu Tân Cương, thì nên ưu tiên ấm sứ, ấm có tráng men trước - còn ấm Tử sa là để dành cho những người sành trà hoặc pha các loại trà Tàu.
Về nước pha trà, được nước mưa, nước giếng là tốt chứ nước nguồn thì chỉ có lên non mới có; nước máy muốn pha ngon phải để qua đêm ngoài sân mới dùng; chớ lấy nước đóng chai, bình pha mà nhạt thếch.
Những người có thú uống trà đã đưa ra 5 chuẩn mực như “Sắc-thanh-khi-vị-thần” để thưởng thức nhưng không phải lúc nào cũng tròn vị. Nói vậy thôi chứ, tìm bạn cùng thưởng trà còn khó hơn tìm bạn rượu nhiều.
Vậy nên, có trà, có ấm,... có bạn tri kỷ cùng nâng chén không dễ các bạn nhỉ.
Mời các bạn tham khảo thêm bài Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân: