Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng

06/09/2024

Nhà Văn hoá Hoàng Đạo Thuý bàn về chữ Lễ



Trong bài viết trên báo Thanh Nghị, số 44 ra ngày 1/9/1943nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy đã phân tích rất kỹ lưỡng về giá trị của chữ "Lễ" trong đời sống người Việt xưa và nay. Ông lập luận rằng giáo dục không chỉ là việc học kiến thức, mà còn là việc học Lễ, học cách làm người. Từ quan điểm đó, ông đi sâu vào việc phân tích và giải thích các nghi thức truyền thống trong văn hóa Việt Nam, đồng thời bày tỏ lo ngại về sự phai nhạt dần của những giá trị này trong xã hội hiện đại.

Tôi xin mạo muội tóm lược bài viết của Ngài, đăng ở đây nhân dịp năm học mới.

Các bạn có thể tìm được bài viết đầy đủ này của Ông trên net.

Ý Nghĩa Của Việc Học Lễ

Ông Hoàng Đạo Thúy bắt đầu bài viết bằng việc đặt ra câu hỏi: "Đi học để làm gì?" Câu trả lời của nhiều người thường rất đơn giản: "Đi học để học đọc, học viết và học tính". Tuy nhiên, ông nhận định rằng nếu việc học chỉ gói gọn trong ba yếu tố đó thì chưa đủ. Kiến thức kỹ thuật chỉ là phương tiện, còn mục đích thực sự của việc học là để biết Lễ, tức là để biết cách sống, biết cách ứng xử với chính mình và với xã hội.

Theo quan điểm của ông: "người khác loài vật là ở chỗ biết Lễ". Chính Lễ tạo nên sự khác biệt giữa con người và các loài khác. Lễ không phải chỉ là một loạt các quy tắc nghi thức mà người ta phải tuân theo một cách mù quáng, mà nó là sự thể hiện của phẩm giá, lòng tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác. Khi con người biết Lễ, họ có khả năng nhìn nhận và đánh giá đúng mực mọi việc, biết cư xử đúng đắn với người khác và biết sống sao cho hợp đạo lý.

Lễ Trong Quan Niệm Xưa

Hoàng Đạo Thúy dẫn chứng rằng trong lịch sử, Lễ từng có sức mạnh lớn đến mức có thể ngăn chặn cả chiến tranh. Ông kể lại câu chuyện về một vị vua không dám đánh nước Lỗ vì dân nước này "biết Lễ." Từ đó, ông khẳng định rằng Lễ không chỉ là một giá trị đạo đức cá nhân mà còn là yếu tố quyết định đến sức mạnh của cả một dân tộc. Dân tộc biết Lễ, biết yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn sẽ tạo nên sức mạnh vô địch, không dễ bị khuất phục.

Tuy nhiên, Hoàng Đạo Thúy cũng nhận thấy rằng nhiều người đã hiểu nhầm Lễ nghĩa, biến nó thành những hình thức giả dối. Ông nêu rõ rằng Lễ không phải là sự cầu cạnh, không phải là những hành động Lễ nghĩa hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân. Lễ chính là việc tự trọng, tự giữ gìn phẩm giá của mình và từ đó cư xử đúng đắn với người khác. Một người biết Lễ là người biết điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với đạo lý và đúng mực.

Bốn Lễ Trọng: Quan, Hôn, Tang, Tế

Trong bài viết, Hoàng Đạo Thúy đã giải thích rất chi tiết về bốn Lễ lớn trong đời sống người Việt: quan, hôn, tang, tế. Mỗi Lễ đều có ý nghĩa sâu sắc và được gắn liền với những giá trị nhân văn cao cả.

·  Quan: Lễ đội mũ (quan) là một nghi thức quan trọng, biểu hiện sự trưởng thành của người con trai. Khi một thanh niên được làm Lễ quan, tức là anh ta đã được công nhận là một người đàn ông trưởng thành, có đủ phẩm chất để tham gia vào đời sống xã hội. Lễ này không chỉ đánh dấu sự trưởng thành về thể chất mà còn nhấn mạnh sự trưởng thành về mặt đạo đức. Thật tiếc là ngày nay Lễ quan không còn được giữ gìn, điều này đã khiến cho sự suy thoái trong đạo lý và nhân cách của con người trở nên rõ rệt hơn.

·  Hôn: Lễ cưới (hôn) không chỉ là sự kết hợp giữa hai cá nhân, mà còn là sự liên kết giữa hai gia đình. Đó là một sự tiếp nối về mặt huyết thống, tiếp nối truyền thống gia đình. Hoàng Đạo Thúy nhận xét rằng nhiều nghi Lễ cưới hỏi ngày nay đã mất đi ý nghĩa ban đầu, trở thành những buổi Lễ hình thức, thiếu sự trang trọng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nó từng mang theo.

·  Tang: Lễ tang là lúc con cháu thể hiện lòng hiếu thảo đối với người đã khuất. Tuy nhiên, Hoàng Đạo Thúy lo ngại rằng Lễ tang hiện nay đã biến tướng thành những nghi thức phô trương hình thức, xa rời ý nghĩa nguyên thủy của nó. Tang Lễ truyền thống vốn là lúc con cháu thể hiện sự kính trọng và tưởng nhớ đối với tổ tiên, nhưng giờ đây lại trở thành dịp để nhiều gia đình thể hiện sự giàu có, danh tiếng.

·  Tế: Lễ tế, hay việc thờ cúng tổ tiên, là một nét đẹp văn hóa, gắn kết giữa các thế hệ. Theo quan điểm của Hoàng Đạo Thúy, tế không chỉ đơn giản là việc cúng bái mà còn là biểu hiện của lòng thành kính, sự ghi nhớ công ơn tổ tiên. Khi Lễ tế được thực hiện đúng đắn, nó sẽ giúp gia đình duy trì được sự gắn bó, truyền thụ những giá trị văn hóa và đạo đức qua các thế hệ.

Tầm Quan Trọng Của Lễ Trong Xã Hội Hiện Đại

Hoàng Đạo Thúy nhận định rằng sự phai nhạt của các Lễ nghĩa truyền thống là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức trong xã hội. Ông cảnh báo rằng nếu Lễ nghĩa không được coi trọng, xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng. Các giá trị về lòng trung thành, hiếu thảo và tinh thần cộng đồng sẽ bị lãng quên, thay vào đó là sự ích kỷ, vụ lợi cá nhân.

Bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của Lễ trong đời sống xã hội, Hoàng Đạo Thúy mong muốn khôi phục lại những giá trị tốt đẹp của truyền thống. Ông cho rằng hình thức Lễ có thể thay đổi theo thời gian, nhưng tinh thần của Lễ phải luôn được giữ gìn. Điều này không chỉ giúp cá nhân sống đúng đạo lý mà còn góp phần xây dựng một xã hội hòa bình, thịnh vượng.

Kết Luận

Chữ "Lễ" trong văn hóa Việt Nam không chỉ là một khái niệm về hình thức, mà là một hệ giá trị toàn diện, bao gồm đạo đức, tư tưởng và cách ứng xử của con người. Hoàng Đạo Thúy, thông qua bài viết của mình, đã khẳng định rằng sự suy đồi của Lễ nghĩa không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề của cả xã hội. Ông kêu gọi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần phải ý thức rõ hơn về tầm quan trọng của Lễ, để từ đó biết cách sống, biết cách hành xử sao cho xứng đáng với các giá trị truyền thống mà cha ông đã truyền lại.

Như vậy, Lễ không phải là thứ chỉ để đọc, học và nói cho biết, mà Lễ là nền tảng để con người hoàn thiện bản thân và đóng góp cho xã hội. Trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng như bây giờ, việc giữ gìn và phát huy những giá trị của chữ "Lễ" là điều hết sức cần thiết để giữ cho chúng ta một bản sắc, một giá trị đạo đức bền vững.

TL.

05/09/2024

Văn hoá rượu

 Kẻ nghiện rượu



Người Việt, ngoài truyền thống yêu nước, còn có truyền thống uống rượu. Rượu và trà từ lâu đã trở thành một phần của văn hóa dân tộc. Qua bài viết này, tôi mong giúp các bạn hiểu đúng về rượu và khôi phục lại khái niệm "văn hóa rượu" thay vì coi rượu là "tệ nạn xã hội".

Rượu vốn là thức uống quan trọng trong lễ nghi, "vô tửu bất thành lễ", và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, đặc biệt khi gặp gỡ bạn bè, tri kỷ. Nguyễn Du đã từng ca ngợi rượu trong cuộc sống tao nhã. 

Khi chén rượu, khi cuộc cờ

Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên


(nên mới có chăng “bầu rượu, túi thơ”)

Chén rượu của cổ nhân là chén rượu hòa với đất trời, với văn hóa và với tri kỷ.

Nhưng ngày nay, uống rượu đã biến tướng thành "nhậu rượu", mất đi nét văn hóa thi vị của thưởng thức rượu, biến rượu thành thước đo bản lĩnh đàn ông. Tuy vậy, người ta cũng đã nhắc nhở về việc uống điều độ:

Rượu nhạt uống lắm cũng say,

Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

Các cụ ngày xưa mời rượu nhau gọi là “chén tạc, chén thù”: Chủ rót rượu mời khách gọi là “tạc”, khách đáp lễ gọi là “thù”. Chứ chả ai ép ai mà tùy hứng thì nâng chén nhấp môi thôi hoặc sảng khoái cạn ly, tiêu sái.

Mà bây giờ, khi đi uống rượu ta thường thấy những cảnh kiểu “lúc nãy anh mời chú rồi, bây giờ chú mời lại anh đi”. 

Cái gọi là "ép uống" thực ra là do bản thân không tự chủ. Uống rượu là tự mình quyết định, và khi không kiểm soát được thì đừng đổ lỗi cho rượu hay bạn bè. Chỉ cần giữ mức uống vừa phải, không cần say mèm, vẫn có thể duy trì sự giao tiếp vui vẻ và chia sẻ.

Vấn đề chưa bao giờ là “rượu” hay “chuyện uống rượu”, mà là ở “NGƯỜI UỐNG RƯỢU”. Chúng ta hay đổ lỗi cho rượu nhưng thực sự vấn đề là ở ý thức uống rượu ở mỗi người. 

Hãy uống rượu có trách nhiệm và biến nó trở lại thành nét đẹp văn hóa, chứ không phải là tệ nạn xã hội.

04/09/2024

Chút chuyện về ấm và thú uống trà

Mấy mẫu ấm Tử sa  cổ

Cũng là người mê trà, nghiện trà và sưu tầm đồ pha trà nên mình có vài suy nghĩ lan man, chia sẻ cùng các đồng đạo.

Ấm Tử sa (cát - sét tím) có thể độ chục năm gần đây mới nhận được sự quan tâm, chú ý của giới trà đạo Việt. Có lẽ nhiều lý do, nhưng chắc có phần là hàng Trung Quốc vào nhiều, giá hợp lý; kiểu dáng đẹp, mẫu mã phong phú hơn so với hàng trong nước nên được yêu thích, sưu tầm. 

Chứ ngày xưa, các cụ nhà ta khá giả dùng ấm cổ thường khoe ấm gan gà Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần cơ. Cũng là tử sa Nghi Hưng  nhưng nay không còn làm nữa.

Đất làm ấm là loại đất sét, đá, có chứa thạch anh, mica, cao lanh, sắt... gì đó tuỳ thuộc vào vùng gốm nhưng làm ra đất là một quá trình vô cùng cầu kỳ, mất thời gian lại dựa vào bí truyền của từng nghệ nhân: Đất mỏ các loại đem ngâm vào nước trong bể to theo một tỷ lệ nào đó trong thời gian từ 3 đến 6 tháng, thậm chí lâu hơn; hỗn hợp này bị nát ra được đánh tan trộn đều cho vào bể lắng, đất sét được lắng xuống đáy còn tạp chất nổi lên trên và bị loại bỏ; Chắt lọc ra đất tinh đem phơi trong râm khoảng 3 đến 5 ngày rồi cho vào bể ủ để đất lên men. Thời gian ủ càng lâu thì đất càng tốt, làm ra các sản phẩm tinh tế.

Ấm Tử sa là loại ấm đất, không tráng men được nung ở nhiệt độ cao trên 1.000 độ và thường có màu tím - Nó xuất sứ từ vùng Nghi Hưng, Trung Quốc. Ấm xuất hiện từ thế kỷ 15 và nổi danh dưới thời nhà Thanh cho đến nay.

Ở Việt nam mình, cũng có loại ấm tương tự này gọi là ấm da chu (ấm đất nung, không tráng men màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm - nhỏ khoảng hơn 100ml) nhưng thường đi với bộ chén hạt mít từ 3 đến 7 cái; chứ ấm Tử sa thường dùng  chén sứ - nay cải lương nên có cả chén tử sa. Ngày xưa, ấm da chu thường có 2 lớp, về sau thất truyền. Nay ấm da chu ít được dùng và chỉ còn rải rác trong dân gian

Ấm da chu và ấm đất của Việt Nam có thiết kế giản dị, chú trọng đến sự tinh tế và công năng hơn là yếu tố trang trí. Những chiếc ấm này có bề mặt mộc, thường không trang trí, vẽ hình, phản ánh phong cách thưởng trà thanh nhã của người Việt. Ấm có dáng vẻ trầm lắng, cổ điển, phù hợp với phong cách uống trà mạn của dân ta. Ấm uống trà nhiều, lâu đời có vẻ ngoài mịn bóng.


Bộ ấm da chu 2 lớp do các Cụ truyền lại cho mình.


Ấm Tử sa được làm ra từ các nguyên liệu và cách nung khác nhau. Ví dụ như đất là: Đế Tào Khang, Tử Nê, Thanh thuỷ Nê, Ngọc sa liệu, Ngũ sắc thổ, Tử kim sa, Tử ngọc kim sa... nên tạo ra các sắc màu khác nhau cho ấm.

  

Một vài mẫu đất đá làm nguyên liệu tạo ấm Tử sa.

Ấm Tử sa có nhiều dáng kiểu, điển hình và phổ biến như: Tây thi, Thạch biều, Văn đán, Chuyết cầu, Đức chung, Phan hồ, Tiếu anh, Thuỷ bình, Long đán...



Nhưng nói thật với các bạn, qua tìm hiểu, tôi thấy: Với giá tiền tầm vài triệu trở xuống thì đều là ấm đất sét tím mà thôi chứ đừng mong có đất khoáng tử sa đâu ạ.


Ấm tử sa Phỏng cổ và bộ chén sứ Thanh Hoa - Cảnh đức 
mình đang dùng.



Nói ấm Tử sa pha trà là ngon nhất là điều cần phải nghĩ, bàn. Vì tuỳ nền văn hoá, phong cách uống trà và loại trà ta pha và cách pha trà sẽ có các đánh giá khác nhau. 

Mà muốn thưởng thức trà ngon ta phải quan tâm lần lượt: Nhất nước, nhị trà, tam pha, tứ ấm. Tỷ dụ như trà móc câu Tân Cương, thì nên ưu tiên ấm sứ, ấm có tráng men trước - còn ấm Tử sa là để dành cho những người sành trà hoặc pha các loại trà Tàu. 

Về nước pha trà, được nước mưa, nước giếng là tốt chứ nước nguồn thì chỉ có lên non mới có; nước máy muốn pha ngon phải để qua đêm ngoài sân mới dùng; chớ lấy nước đóng chai, bình pha mà nhạt thếch.

Những người có thú uống trà đã đưa ra 5 chuẩn mực như “Sắc-thanh-khi-vị-thần” để thưởng thức nhưng không phải lúc nào cũng tròn vị. Nói vậy thôi chứ, tìm bạn cùng thưởng trà còn khó hơn tìm bạn rượu nhiều.

Vậy nên, có trà, có ấm,... có bạn tri kỷ cùng nâng chén không dễ các bạn nhỉ.

Mời các bạn tham khảo thêm bài Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân:

https://trabavan.com/chen-tra-trong-suong-som/

01/09/2024

Triết lý từ một trò chơi đơn giản trên lớp

Nhặt đâu đó trên Đời, nhân khai giảng sắp tới nên biên ở đây.

 

Một giáo viên cấp ba đã dùng một trò chơi rất đơn giản nhưng lại rất sâu sắc để dạy cho các em học sinh về ý nghĩa của thế mạnh và dòng chảy của xã hội.

Ban đầu, thầy giáo cho mỗi học trò một tờ giấy, sau đó bảo các em vo tròn tờ giấy lại.

Tiếp theo, thầy giáo đặt một thùng rác ở phía trên chính giữa lớp học.

Thầy nói với các học trò rằng: “Trò chơi này rất đơn giản. Mỗi em đại diện cho một phần của quốc gia, đều có cơ hội trở nên vô cùng giàu có, có thể chen chân vào tầng lớp thượng lưu”.

“Chỉ cần các em có thể ngồi tại vị trí của mình, ném cục giấy trên tay vào trong thùng rác này, người nào ném trúng có thể trở thành người thuộc tầng lớp thượng lưu”.

Sau đó, các em học sinh ngồi phía cuối lớp bắt đầu phản đối: “Như vậy là không công bằng ạ”. Họ biết rằng các bạn ngồi phía trước sẽ có nhiều cơ hội ném cục giấy vào thùng hơn.

Tiếp đó, tất cả học sinh đều bắt đầu thử ném giấy, kết quả đúng như dự đoán, đa phần các học sinh ngồi hàng trên đều ném giấy vào thùng thành công (nhưng không hoàn toàn trúng 100%), còn các em ngồi ở hàng sau lại chỉ có một số ném vào được.

Và thầy giáo đã giải thích rằng: “Các bạn ngồi càng gần thùng rác thì tỉ lệ ném vào càng cao. Đây chính là cái mà người ta xem là thế mạnh trong xã hội. Các em có chú ý hay không, tất cả những người nghi ngờ về tính công bằng đều là những bạn ngồi ở phía dưới lớp?”.

Ngược lại, các học sinh ngồi phía trên cũng gần như không ý chú đến thế mạnh “bẩm sinh” của mình, những gì các em nhìn thấy chỉ có khoảng cách ngắn ngủi giữa các em và chính mục tiêu của mình.

Thầy nói tiếp: “Vì thế nên là một học sinh được đi học, điều mà các em phải làm chính là để ý đến những ưu thế mà các em có. Sau đó vận dụng thế mạnh được gọi là “giáo dục” này để cố gắng cống hiến cho xã hội cũng như tiếp tục không ngừng để bảo vệ những người bị lãng quên ở phía sau các em do họ không có thế mạnh”.

Một trò chơi đơn giản nhưng lời giải thích đơn giản của thầy giáo lại là một bài học sâu sắc cho các em học sinh. Quan niệm này thật sự là điều rất cần trong xã hội, không được xem nhẹ thế mạnh mình có mà phải biết sử dụng chúng và cố gắng để xã hội trở nên tốt hơn.

Nếu mỗi người đều nghĩ một chút cho xã hội này chứ không chỉ cầu mong cho sự giàu có và thành đạt của bản thân thì xã hội này sẽ tốt đẹp hơn.

19/08/2024

Truyền thuyết "Long sinh cửu phẩm"

 Từ Địa lý Lạc Việt


     Rồng vốn là con vật trong truyền thuyết, là hình ảnh tượng trưng cho sự quyền uy, cao quý và là loài đứng đầu trong muôn thú. Trong văn hóa châu Á, con người luôn tôn thờ loài rồng và chỉ có hoàng tộc mới được sử dụng hình ảnh con rồng làm biểu trưng cho quyền lực cũng như thân phận cao quý của họ.

    Theo truyền thuyết chín Rồng thần sinh được 9 con trai nhưng không con nào là Rồng cả. Chín người con của Rồng đều là các loài thần thú và có tính cách khác nhau. Tùy vào tính cách mà người ta dùng hình ảnh của chúng để trang trí ở những lĩnh vực như mái hiên, nóc nhà, lan can, vũ khí, chiến thuyền,...

    Tuy nhiên, cũng do văn hóa dân gian mỗi nơi một khác mà sinh ra nhiều dị bản về “Long sinh cửu phẩm”. Bởi vậy mà danh sách những linh vật được coi là con của rồng cũng có sự khác biệt.

    Hiện nay, nhìn chung chia làm hai thuyết:

  • Thuyết 1: Bị Hí, Si Vẫn, Bồ Lao, Bệ Ngạn, Thao Thiết, Công Phúc, Nhai Xế, Toan Nghê, Tiêu Đồ
  • Thuyết 2Tù Ngưu, Nhai Xế, Trào Phong, Bồ Lao, Toan Nghê, Bị Hí, Bệ Ngạn, Phụ Hí, Si Vẫn

    Bởi vậy, ở bài viết này sẽ liệt kê nhiều hơn 9 con của Rồng.

Danh sách đầy đủ chín đứa con của rồng

    Bị Hí

    Bị Hí (tên khác là Bí Hí, Bá Hạ, Bát Phúc, Thạch Long Quy) là con trưởng của rồng. Có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Chỉ duy nhất có Bí Hí chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc  được gọi là "con thú mang bia".

Một số người nhầm lẫn khi cho rằng các con vật đội bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám là loài Rùa, thật ra đó là Bí Hí vì ngoài đặc tính thích mang vật nặng nó cũng rất thích văn chương nên người xưa dùng nó để đặt bia Tiến sĩ. 

Con Bị Hí (Bí Hí)

    Si Vẫn

    Si Vẫn (Tên gọi khác là Si Vĩ, Li Vẫn, con Kìm) là con thứ hai của Rồng. Sống ở biển, có đầu giống hoặc gần như đầu rồng, đuôi, vây, miệng rộng và thân ngắn. Mỗi khi nó đập đuôi xuống nước thì nước bắn lên tận trời và mù mịt cả trời đất.

Si Vẫn ở bảo tàng quốc gia Việt Nam

    Tương truyền Li Vẫn thích ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài... ngụ ý cầu trấn hỏa, đề phòng hỏa hoạn. Là một linh vật dùng trong trang trí kiến trúc, đây là một trong những hiện vật quý hiếm đang được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Việt Nam.

Thông tin thêm:

Chuyên gia phong thuỷ Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Người đứng đầu Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương) đã tổng hợp tất cả những hình tượng Si Vẫn trên các di sản còn lại ở các đình chùa miếu mạo và những tài liệu nói về linh vật này để tạo ra Si Vẫn phiên bản bàn đặt trong nhà đem lại sự tiện lợi, bình an.

Si Vẫn để bàn

    Bồ Lao

    Bồ Lao là con thứ ba của Rồng. Sống ở biển, thích âm thanh lớn và thích gầm rống. Người xưa thường đúc trên quai chuông hình Bồ Lao, còn dùi thì làm theo hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa. Do đó, Bồ Lao cũng được dùng để nói đến tiếng chuông chùa.

Linh vật Bồ Lao

Bồ Lao trên quả chuông chùa Thanh Long (Thái Bình), chất liệu đồng thời Lê Trung Hưng

    Bệ ngạn

    Bệ Ngạn (tên gọi khác là Bệ Lao, Hiến Chương) là con thứ tư của Rồng. Có hình dáng giống hổ, răng nanh dài, sắc, có sức thị uy lớn, thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công.

    Nhờ vậy Bệ Ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.

Linh vật Bệ Ngạn

Bệ ngạn ở cổng 1 nhà lao.

    Thao Thiết

    Thao Thiết là con thứ năm của Rồng. Có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Linh vật này tham ăn vô độ. Vì vậy, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.

Linh vật Thao Thiết

Cái vạc nấu ăn trong quân cổ

    Công Phúc

    Công Phúc là con thứ sáu của Rồng. Linh vật này thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như: cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè… với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ nhân dân.

Linh vật Công Phúc

    Nhai Xế

    Nhai Xế (tên gọi khác là Nhai Xải, Nhai Tí) là con thứ bảy của Rồng. Linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh nên thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm… ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.

Linh vật Nhai Xế (Nhai Xải)

    Toan Nghê

    Toan Nghê (còn gọi là Kim Nghê) là con thứ tám của Rồng. Có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút nên được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.

Linh vật Toan Nghê

    Tiêu Đồ

    Tiêu Đồ (hay còn gọi là Thô Phủ) là con thứ chín của Rồng. Linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình nên thường được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.

Linh vật Tiêu Đồ

    Như đã trình bày ở trên, ngoài chín con của Rồng ở trên, theo một số dị bản thì gia đình Rồng còn có một số linh vật khác như:

    Tù Ngưu

    Tù Ngưu (hay còn có tên gọi khác là Tỳ Hưu, Kỳ Hưu, Tỳ Ngưu, Tu Lì, Tu Lỳ,…), có hình dạng như một con rồng nhỏ, màu vàng, có sừng như sừng lân. Đây là linh vật giỏi về âm nhạc nên được khắc trên các nhạc cụ, nhạc khí,...

Linh vật Tù Ngưu (Tỳ Hưu)

Đặc biệt lưu ý:

Hiện nay có rất nhiều người mua vật phẩm Tỳ Hưu (tượng tạc, trang sức đeo lên người)  như một vật khí phong thuỷ với mong muốn cầu tìm tài lộc. Tuy nhiên, Địa Lý Lạc Việt sau thời gian nghiên cứu khuyến cáo tuyệt đối không nên sử dụng

Tỳ Hưu

  • Trong phong thủy, mọi hình tượng dùng làm vật khí trấn yểm đều phải là hình tượng tốt đẹp. Và quan trọng là phải thuận lẽ trời đất: có vô thì có ra, có còn thì có mất, có đầy thì có vơi. Chỉ có lòng tham con người là muốn cái gì cũng vĩnh viễn, thêm mà không bớt, có mà không hết.
  • Lẽ tự nhiên không theo lòng người. Nhà Minh có để Tỳ Hưu rồi cũng khánh tận. Hòa Thân có để Tỳ Hưu to hơn Tỳ Hưu của vua rồi thì cũng bị giết và tài sản cũng bị tịch thu vào tay kẻ khác.
  • Hơn nữa hai chữ Tỳ Hưu đã thể hiện cái không hay, không tốt. Thử xem xét lý trong chữ sẽ thấy.
    • Tỳ (lách) là một trong năm tạng, biểu lý với Vị (bao tử).
    • Hưu là hết chức năng.
  • Thực phẩm vào Vị phải nhờ tỳ chuyển hóa, nhưng Vị muốn chuyển hóa được thành các chất bổ dưỡng và ô trọc thì phải nhờ Tỳ khí hóa. Ấy vậy mà Tỳ lại mất hết chức năng, thực phẩm bị ôi thiu trương sình trong bụng... thì ắt sẽ có bệnh. Nhẹ thì bệnh trướng bụng, nặng thì cơ thể lần hồi suy kiệt mà tiêu.

Vì vậy hai chữ Tỳ Hưu làm thành tên thì cũng là chỉ điểm báo nguy cho định mạng. Và Tỳ Hưu, trong việc cầu tìm tài lộc thì cũng chỉ là một yếu tố. Yếu tố tương tác cho cái lợi trước mắt nhưng tiềm ẩn nguy cơ cao là tán tài.

    Trào Phong

    Trào Phong thích sự nguy hiểm, thích nhìn ra xa nên thường chọn chỗ cao, cheo leo như đầu cột, góc mái của ngôi nhà, điểm cao một số công trình kiến trúc,… làm chỗ leo trèo hoặc đứng nhìn. Bởi vậy, nó là linh vật thường được chạm khắc trên nóc nhà (thường đặt ở bốn góc mái nhà) với ngụ ý chống hoả hoạn và thị uy kẻ xấu (gần giống với Si Vẫn).

Linh vật Trào Phong

    Ngoài ra, hình tượng Trào Phong trên góc mái còn tượng trưng cho điều tốt lành, may mắn, tạo giá trị trang trí đẹp mắt và uy nghi. Vì thế chỉ các cung điện của hoàng gia mới được phép tạc hình Trào Phong trên nóc.

    Phụ Hí

    Phụ Hí có hình dáng như Rồng, dáng vẻ thanh nhã, thường nằm cuộn mình trên bia đá. Nó rất thích vẻ đẹp của chữ khắc trên các văn bia, nên thường cuộn mình trên đó mà ngắm nghía. Vì vậy, người ta thường khắc một đôi Phụ Hí trên các bia mộ, bài vị với ngụ ý bảo vệ bia mộ.

Linh vật Phú Hí

    Trên đây là toàn bộ tổng hợp những đứa con của rồng trong văn hóa Việt Nam, hi vọng sẽ giúp ích được cho các bạn một vài thông tin bổ ích.

31/07/2024

Bộ ghế trắc khảm Bát tiên cách đây khoảng 150 năm

 Ảnh từ Cổ học tinh hoa.


Tay nghề dân mộc mỹ nghệ và thợ khảm xà cừ của xứ Việt giỏi lắm. Hồi mình vào miền Tây Nam bộ, được đến thăm 1 gia đình người Việt ở vùng sâu, không hiểu lẽ gì mà còn tồn tại toàn vẹn căn nhà và đồ đạc từ hồi ông cụ cố tạo dựng. Hiếm lắm. 

Vì lý do tế nhị, gia đình họ không muốn phô ảnh và nêu địa chỉ.

Đồ gỗ của nhà, nghe người chắt Cụ Cố kể, toàn do người Bắc được mời vào tạo nên. Đẹp và hiếm lạ vô cùng. Lòng cứ ước ao, sẽ còn nhiều, còn nhiều những bảo vật như vậy vẫn tồn tại để các thế hệ sau này biết và tự hào.

Lang thang trên net, tình cờ tìm thấy một cổ vật gần nguyên vẹn nên giới thiệu tới mọi người.

Ban đầu, bộ ghế trắc khảm tích bát tiên là của một gia đình có quyền thế ở Thanh Hóa thời Nguyễn. Sau cải cách ruộng đất, nhà ông may mắn có được và giữ gìn và coi như một vật gia bảo trong nhà cho đến nay, nhà sưu tầm chia sẻ.

Hiện vật gồm 4 ghế gỗ trắc rất dày dặn, nét đục sắc nét, khuyết mất chiếc bàn. Sau hơn 100 năm, ghế khảm lành nguyên, giữ được nét đẹp nguyên bản từ vân gỗ cho đến chi tiết khảm ốc.

Mỗi ghế khảm một tích Bát tiên riêng, chung quanh khảm tứ quý với các chữ Phúc – Lộc – Thọ. Đó là họa vị tiên Hòa Hợp, tiên Yên Hài, Vương Mẫu… có sự tích được viết trong sách đông du bát tiên. Tích Bát tiên là biểu trưng của sự trường sinh và những điềm lành.

Về phong cách tạo hình, ở đây có sự kết hợp giữa 3 phong cách Việt, Trung Hoa và phong cách Louis XIV của Pháp. Ta thấy nét đục đẹp cùng tạo hình gậy như ý theo lối Trung Hoa, trong khi lối khảm ốc Việt chi li, rất đẹp. Ngoài ra, ghế có tay vịn và chân tạo dáng nai vuốt rất đẹp mang phong cách đồ thời Louis XIV của Pháp (còn gọi là phong cách Baroque vì sự lộng lẫy huy hoàng và vinh quang). Đây là 1 trong 3 thời vua làm nền tảng cho phong cách nội thất cổ điển Pháp.

Đây là một hiện vật quý hiếm, gỗ cổ, khảm cổ được nhiều người yêu thích cổ ngoạn và nhà sưu tầm lâu năm, khó tính đánh giá đẹp nhất ở Hà Nội hiện nay, chủ nhân cho biết.

 















26/07/2024

Tính cách người thể hiện trên bàn ăn


Đọc cuốn “Lễ ký” của Khổng Tử có câu: “Bắt đầu của lễ là ăn uống”. Ăn uống tưởng chừng như chuyện nhỏ, nhưng lại là bước khởi đầu của lễ nghi và phép tắc. Khi mọi người đang ăn, họ ở trạng thái thoải mái và tự nhiên nhất, như vậy họ sẽ bộc lộ những thói quen thường ngày và toàn bộ nhân cách.

Trên bàn ăn, mỗi lời nói và hành vi đều có thể phản ánh sự tu dưỡng của một người. Nếu bạn muốn nhìn rõ một ai, cách trực tiếp nhất là cùng họ dùng bữa.

Ông bà ta để lại nhiều câu nhắc nhở tế nhị trên bàn ăn cho con cháu như:

- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

- Lựa cơm gắp mắm.

- Ăn miếng ngọt, trả miếng bùi.

- Trời đánh còn tránh miếng ăn.

- Ăn bớt bát, nói bới lời...

1. Người ăn uống đoan chính là người được giáo dục tốt

Có câu nói:“Đứng có tướng đứng, ngồi có tướng ngồi, ăn có tướng ăn”. Tướng ăn, có nghĩa là hình thức biểu hiện và thái độ ứng xử của một người trong bữa ăn. Một bữa ăn thường có thể tiết lộ sự giáo dưỡng thực sự của một người.

Một người có giáo dục thường ăn uống đúng mực. Họ biết tiết chế chính mình, cũng biết tôn trọng người khác.

Trước khi vào bàn ăn, họ dựa theo tôn ty, để bậc trên ngồi trước, rồi mới theo sau. Khi bắt đầu bữa ăn, họ để các bậc trên động đũa gắp trước, là vãn bối nên gắp sau, tỏ vẻ tôn kính. Khi gắp thức ăn, không tùy tiện gắp lật ngửa lựa chọn, không ưng liền gắp sang miếng khác mà gắp theo trật tự.

Khi ăn, họ ăn chậm, nhai kỹ, môi miệng, thức ăn và bát đũa gọn gàng lịch sự. Không chơi trò chơi trong điện thoại, không nói lảm nhảm, không cười nói bậy bạ. Sau khi ăn xong, nhẹ nhàng sắp xếp bát đũa ngay ngắn, lau miệng sạch sẽ, chào hỏi và rời bàn một cách lịch sự.

Đối với bậc lão niên, họ biết kính sợ, đối với thức ăn thì ăn với thái độ biết ơn, không coi nhẹ, phung phí, quý hạt cơm như vàng, cố gắng ăn hết lượng cơm trong bát và ăn hết phần thức ăn đã gắp, khăn ăn dù là đồ bỏ đi cũng chú ý để gọn gàng.

Trong “Đạo Đức Kinh” có câu: “Thiên hạ đại sự, tất tá ư tế”, tức là mọi việc lớn trong thiên hạ đều phải làm chi tiết. Phàm làm việc gì, chi tiết quyết định thành bại. Những sự việc diễn ra trên bàn ăn tuy vặt vãnh, nhưng lại chứa đựng quá nhiều quy tắc và lễ nghi. Nếu tướng ăn tốt, đồng nghĩa người này được giáo dục tốt, có thể được mọi người hoan nghênh, coi trọng và chúng ta nên kết bạn với họ.

2. Mời người gọi món, biết đặt mình vào vị trí của người khác để suy xét

Gọi món là phần quan trọng nhất của bữa ăn. Có vẻ như gọi món là cách dễ dàng, nhưng đó là cả một kiến ​​thức tuyệt vời.

Những địa điểm khác nhau có các món ăn khác nhau, và những người khác nhau có sở thích ăn uống khác nhau. Do đó, gọi món không chỉ có thể quyết định chất lượng bữa ăn mà còn bộc lộ khí chất của một người.

Có người khi mời người ta đi ăn thì niềm nở, hiếu khách. Nhưng khi gọi món thì tự họ đứng lên chọn món cho hết thảy mọi người. Họ tự cho mình là trung tâm bữa tiệc, chỉ quan tâm đến thị hiếu và sở thích cá nhân mà không quan tâm đến khẩu vị của người khác. Hoặc họ chỉ hỏi lấy lệ mà không cho người khác xem thực đơn tự chọn. Nói chung họ rất nhất thống, lộ vẻ kiêu ngạo và ích kỷ.

Một người thực sự lịch sự có thể đứng ở góc độ của đối phương mà dàn xếp một bữa ăn khiến mọi người đều thỏa mãn. Người này không chỉ hào phóng, mà còn chủ động yêu cầu mọi người chọn món. Họ tích cực giới thiệu các món ăn, các món đặc sản và đồ uống phù hợp, nhưng tùy ý để mọi người chọn lựa.

Ngay cả khi đối phương chân thành nói rằng: “Bạn có thể gọi bất cứ thứ gì bạn muốn”, người lịch thiệp cũng sẽ cân nhắc. Họ đặt mình vào vị trí của người khác, xem xét sở thích của nhau, thậm chí để ý cả quan niệm tiêu dùng để mọi người được chọn món ăn họ yêu thích.

Người xưa có câu: “Tá nhất ban dĩ khuy toàn báo, dĩ nhất mục tận tinh thần”; đại ý là nhìn thoáng qua để thấy toàn bộ con báo, và thấu tận tinh thần chỉ bằng một cái liếc mắt.

Người biết đặt mình vào vị trí của người khác, có trình độ văn hóa sẽ tôn trọng lựa chọn của người khác khi gọi món. Họ đủ nhạy bén để quan tâm đến sở thích và chú ý đến sự không thích của người khác. Người dùng trái tim để đặt món là những người chu đáo về mọi mặt, và họ là những người thực sự có trách nhiệm và ấm áp.

3. Người chủ động thanh toán hóa đơn, coi trọng tình bạn

Trên bàn ăn luôn có một số người ăn uống kiểu tranh thủ cơ hội. Họ nói về các món ăn, họ cho người ta cảm giác rằng họ sẽ là người thanh toán hóa đơn, nhưng họ không thật sự muốn chi trả. Khi bữa tiệc kết thúc, họ nhanh chóng tìm cớ để lẻn đi trước.

Những người như vậy tàn nhẫn, ích kỷ và đạo đức giả. Họ đặt lợi ích cá nhân lên trên mọi thứ, trên cả tình nghĩa và danh dự của bản thân. Bên cạnh một số người “khôn lỏi” như vậy thì luôn có những người – họ không những sẽ lần lượt thanh toán hóa đơn mà còn thể hiện thái độ tích cực thanh toán.

Những người này không ngốc, không thiển cận, không ham tiền, chỉ là họ coi trọng tình nghĩa và lẽ phải. Trong lòng họ, tình người quan trọng hơn tiền bạc, và họ không quan tâm đến giá trị nhỏ nhoi của một hai bữa ăn. Trong cuộc sống, mọi người sẽ luôn tương hỗ cho nhau và không có gì nên hay không nên.

Tuy nhiên, rốt cuộc, tiền không phải từ trên trời rơi xuống, vì vậy chúng ta không nên coi việc người khác trả hóa đơn là điều hiển nhiên. Nếu ai đó sẵn sàng chủ động thanh toán hóa đơn, chúng ta nên trân trọng họ và biết cách đền đáp tinh tế vào những dịp khác.

4. Người biết kiềm chế uống rượu có tính kỷ luật cao

Nhân gian có câu: “Không có rượu thì không thành tiệc”. Trong nhiều trường hợp, việc uống rượu là điều không thể tránh khỏi trên bàn ăn. Uống rượu không chỉ là một trò tiêu khiển, mà còn tăng thêm phần sôi động cho bầu không khí.

Nhưng một số người uống rượu là không còn quan tâm đến hình ảnh của bản thân, tửu lượng cũng như sức khỏe của người khác. Bản thân họ uống rất nhiều, họ cũng lại dùng đủ mọi lời lẽ thuyết phục đối phương phải uống theo họ, trong khi tay thì rót rượu hết chén này đến chén khác, như thể nếu không uống nhiều thì không vui, không uống là không nể mặt nhau.

Thậm chí vì uống quá nhiều rượu, kiểu người này sẽ nói năng bậy bạ hoặc bắt đầu gây sự. Một người như vậy nhất định thường ngày phải có rượu để uống. Họ không có tính kỷ luật, tự giác trong cuộc sống. Nhân cách của họ cũng không đạt tiêu chuẩn.

Không có gì sai khi uống rượu trong khi ăn, nhưng trước mặt mọi người, họ không có ý muốn kiềm chế bản thân. Cuối cùng, những kẻ say xỉn chỉ có thể khiến mọi người chê cười và tệ nhất hơn cả là gây ra các rắc rối cãi vã.

Có những người trong bữa tiệc, họ không từ chối uống rượu. Họ vẫn nâng cốc chung vui, nhưng không say mê mùi vị này. Họ cũng không cố thuyết phục người khác phải uống với họ. Người này vui vẻ từ trong tâm hồn của họ và nâng ly chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh. Khi dùng bữa với một người như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy vui vẻ.

Có câu nói rất hay: “Cách uống rượu cũng là nhân cách”, tửu lượng của một người chính là phong cách và tính cách của người đó. Những người trên bàn tiệc vui vẻ, đã uống rượu mà vẫn có khả năng tự kiểm soát mạnh mẽ và khí chất xuất chúng; sống bên cạnh người như vậy chúng ta sẽ luôn cảm thấy thoải mái, hạnh phúc và may mắn.