Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng

08/12/2025

Và Con Tim Đã Vui Trở Lại - Đức Huy

 

Bài hát gốc tiếng Anh là The Old Rugged Cross (Cây Thập Giá Cũ), một bài thánh ca do anh sáng tác, rồi Đức Huy đã viết lời Việt trên nền giai điệu đó, truyền tải thông điệp về sự thay đổi trong tâm hồn khi tìm thấy một tình yêu vĩnh cửu - TL.

 

Tìm một con đường, tìm một lối đi

Ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi

Lạc loài niềm tin, sống không ngày mai

Sống quen không ai cần ai

Cứ vui cho trọn hôm nay

Rồi cuộc vui tàn, mọi người bước đi

Một mình tôi về nhiều lần ướt mi

Chợt tình yêu đến trong ánh nắng mai

Xoá tan màn đêm u tối

Cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới

Và con tim đã vui trở lại

Tình yêu đến cho tôi ngày mai

Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời

Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi

Và con tim đã vui trở lại

Và niềm tin đã dâng về người

Trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi

Và bây giờ, ngày buồn đã qua

Nhiều lỗi lầm cũng được thứ tha

Tình yêu đã đến trong ánh nắng mai

Xoá tan màn đêm u tối

Cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới

Và con tim đã vui trở lại

Tình yêu đến cho tôi ngày mai

Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời

Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi

Và con tim đã vui trở lại

Và niềm tin đã dâng về người

Trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi

Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối

Tôi sẽ không sợ hãi gì

Vì người gần bên tôi mãi

Và con tim đã vui trở lại

Tình yêu đến cho tôi ngày mai

Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời

Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi

Và con tim đã vui trở lại

Và niềm tin đã dâng về người

Trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi

Và con tim đã vui trở lại

Tình yêu đến cho tôi ngày mai

Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời

Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi

Và con tim đã vui trở lại

Và niềm tin đã dâng về người

Trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi

Và con tim đã vui trở lại

Tình yêu đến cho tôi ngày mai

  


30/11/2025

An Nam Tứ Đại Khí

 ST

 


 Ảnh do Gemini tạo

 

Từ những ngày đầu lập quốc, nhà Lý đã nung nấu khát vọng xây dựng một vương triều vững mạnh, sánh vai với các cường quốc phương Bắc. Triều đại Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, rồi Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, quân sự mà còn đề cao Phật giáo, xem đó là quốc giáo, là nền tảng tinh thần cho dân tộc. Chính trong thời kỳ hưng thịnh ấy, bốn công trình vĩ đại, được đúc bằng đồng, mang sức mạnh và linh khí của non sông, đã ra đời. Người đời gọi đó là "An Nam Tứ Đại Khí".

1. Tháp Báo Thiên - Trấn Giữ Thăng Long (Đời Lý Thánh Tông)

Năm 1057, dưới thời vua Lý Thánh Tông, tại phường Báo Thiên (nay là khu vực quanh Nhà Thờ Lớn Hà Nội), một công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ đã được khởi dựng: Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp (thường gọi tắt là Tháp Báo Thiên).

Lý do để tháp được coi là tứ đại khí là vì tầng trên cùng của đỉnh tháp đều được đúc bằng đồng. Toà tháp cao tới 20 trượng (khoảng 70m, có tài liệu ghi 12 tầng, có tài liệu ghi 30 tầng), sừng sững giữa kinh thành Thăng Long, được xem là trụ cột chống trời của Đại Việt. Tương truyền, trên đỉnh tháp còn có tượng tiên nhân đứng hứng mưa làm thuốc cho vua, thể hiện lòng tin vào sự che chở của thần linh. Tháp Báo Thiên không chỉ là công trình kiến trúc đỉnh cao mà còn là biểu tượng cho uy thế và niềm kiêu hãnh của quốc gia độc lập. Nó trấn giữ long mạch, bảo vệ kinh thành khỏi tai ương.

Trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ! Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất 2 tầng về góc bên Đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng 6 năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương, nghĩa là 84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai, đỉnh tháp lại bị đổ, mặc dù không gặp phải sự cố mưa bão hoặc sấm chớp gì.

Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được trổ đất thành gò cao để dựng tràng.

2. Chuông Quy Điền - Tiếng Chuông Không Ngân (Đời Lý Nhân Tông)

Vào năm Canh Thân (1080), dưới triều vua Lý Nhân Tông, triều đình cho đúc một chiếc chuông cực lớn cho chùa Diên Hựu (chùa Một Cột ngày nay). Chuông được đúc bằng  đồng khoảng 7,3 tấn với hy vọng tiếng chuông sẽ vang vọng khắp cõi, mang lại an lành.

Tuy nhiên, chuông quá lớn, không treo được lên gác chuông đã xây, và khi đánh thì lại không phát ra tiếng kêu vang. Vua lấy làm tiếc, bèn cho vần chiếc chuông khổng lồ này ra khu ruộng sau chùa. Khu ruộng ấy thấp trũng, lại có nhiều rùa sinh sống, nên người đời gọi chuông là chuông Quy Điền (chuông ở ruộng rùa). Dù không kêu, nó vẫn được xem là bảo vật lớn vì sự kỳ công và chất liệu quý giá.

Vào tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.

3. Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm - Đức Phật Khổng Lồ (Đời Lý Thánh Tông/Trần)

Tượng Phật tại chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) là pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng khổng lồ, được tạo dựng từ thời Lý Thánh Tông (năm 1057) và hoàn thiện, trùng tu lớn vào thời Trần, do Thiền sư Nguyễn Minh Không chủ trì đúc.

Tương truyền, tượng cao tới 6 trượng (khoảng 20m). Tượng lớn đến mức phải xây hẳn một tòa điện cao 7 trượng để đặt, và đứng cách xa chùa đến 10 dặm vẫn thấy được nóc điện che sát đầu pho tượng. Đây là minh chứng hùng hồn nhất cho sự phát triển rực rỡ và quy mô của Phật giáo Đại Việt, là biểu tượng của lòng sùng đạo và nghệ thuật đúc đồng tinh xảo.

Thời gian giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi (đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi)

4. Vạc Phổ Minh - Chiếc Vạc Hóa Rồng (Đời Trần)

Dù Tứ Đại Khí khởi nguồn từ nhà Lý, nhưng chiếc vạc đồng nổi tiếng lại được đúc vào thời nhà Trần. Năm Nhâm Tuất (1262), nhân dịp Thượng hoàng Trần Thái Tông về chơi quê hương Tức Mặc (Nam Định), triều đình đã cho đúc Vạc Phổ Minh tại chùa Phổ Minh.

Chiếc vạc này cũng vô cùng to lớn, sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân đồng. Truyền thuyết kể rằng, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Vạc Phổ Minh được xem là nơi hội tụ linh khí, là biểu tượng cho sự thịnh vượng, vững vàng của triều Trần sau những chiến công chống Nguyên Mông.

Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh đã được Quân Minh chuyển từ Thiên Trường (Nam Định) về Đông Quan (Hà Nội).

10/11/2025

Làng tôi lâu rồi không có hội

 *** Quốc Quân – 2016

 


Làng tôi lâu rồi không có hội

Trai đinh tứ tán tám phương

Gái gian díu theo phường đi mất nết

Đình chùa thánh phật liêu xiêu.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Điệu hò đi cấy buông xuôi

Giăng vẫn sáng nhưng sen thời chết tiệt

Gầu sòng tát cạn thế tình mỉa mai.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Yếm đào tơi tả giậu thưa

Mắt lúng liếng nhìn tơ hồng vương vãi

Trông ngóng người về xa xăm.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Trống đình bục cả đai hường

Bô lão đêm về hay dạ cổ

Vàng son khóc nỗi hoài lang.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Chuông chùa đánh tiếng than van

Người bỗng đâu mọc đầy như cỏ dại

Phật buồn đời đổ bóng xuống lòng sông.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Để tôi về tìm tôi

Tìm lại bà răng hạt na bỏm bẻm

Tìm em mũi dãi sụt sùi.

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Tôi đi hoang suốt cả tháng năm dài

Nụ hồng biếc tay không thèm hái

Biết để tặng ai?

 

Làng tôi lâu rồi không có hội

Tôi cũng không còn là tôi

Còn mỗi chút tình nhung nhớ

Nhưng làng tôi không có hội đã lâu rồi.

Làng tôi lâu rồi không có hội.

 

***

...Khi tôi lớn lên, làng tôi hẵng còn đẹp. Con đường chính kéo dài từ đầu làng đến xóm cuối đỏ ối những hàng râm bụt lúp xúp chen chân bên giậu cúc tần biếc xanh vương vấn bụi dây tơ hồng óng ả. Cả những thân cây rưới dại cổ thụ sù xì, bốn mùa cho quả chín mọng, ăn ngọt lật. Phía rìa sông, đầu bến, tre kẽo kẹt ru giấc mộng đêm hè. Trong các lối xóm, ngõ vào nhà cơ man những hàng rào trà mạn. Nhà kiểu cách xén tỉa phô trương, phường giá áo để mộc thô lố nhố. Vườn ai nấy ngập những sắc xanh, ngăn cách bởi phên tre đan vội. Ẩn hiện là những mái ngói thâm nâu, những mái gianh mục mốc và những cư dân còi cọc lắm điều nhưng cũng rất đỗi thân yêu.

Còn như bây giờ, làng tôi khác lắm. Người ta xây nhà tầng chóp nhọn hoặc mái bằng bê tông sống sít đến mức vãi đ*t. Đường làng đang đẹp đẽ như tranh người ta cũng mang cấp phối đá răm ra đổ đè lên. Những bờ rào dâm bụt, cúc tần, trà mạn phát tiệt đi cả, thay vào là tường gạch, tường vôi. Mà lại xây bao theo lối khôn ranh, mỗi nhà bành ra một tý. Đâm ra đường làng bỗng chốc thành con rắn hổ mang đang cố quanh co để lột xác trong mùa cải lão hoàn đồng. Những bụi tre rìa sông đầu bến cũng thôi kẽo kẹt. Thay vào đó là nơi người ta đổ rác rưởi và chôn lấp những cặn bã xấu xa. Và hơn tất cả, cư dân ngày càng thêm lắm điều. Thân yêu, may chăng, cũng chỉ là cái con tiều, mà thôi.

Bỗng chốc, làng tôi trở thành làng văn hóa. Vì những thứ thay đổi kia hay làng tôi có văn hóa thật? Thế còn những làng không được công nhận là văn hóa thì vô văn hóa hết sao? Hay chưa có văn hóa? Tôi chịu. Bởi ở cái xứ sở này, họ phát kiến ra nhiều điều hoang mang lắm, không đâu có và bì kịp.

Tôi may mắn thoát li. Mỗi bận nghĩ về làng là mỗi lần ái ngại. Nhưng đó vẫn là chốn tôi đi về và cũng có thể là nơi an nghỉ.

***