KIM sinh THỦY
Thật ra, nguyên lý Kim
sinh Thủy của cổ nhân là vì lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, mà Trời sinh ra
mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy được phát sinh từ Trời. Mà quẻ CÀN có hành
Kim nên mới nói Kim sinh Thủy là vậy. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của
Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nếu không có Thủy thì vạn
vật không thể phát sinh trên trái đất. Cho nên khi lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM
(THỦY) cũng chính là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống
trên trái đất là bắt nguồn từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế. Do đó, trong các
nguyên lý tương sinh của Ngũ hành, Kim sinh Thủy là 1 nguyên lý tâm linh, triết
lý và vô hình, và cũng là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh,
vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật. Còn những nguyên lý
tương sinh còn lại chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau trên trái
đất để duy trì sự sống mà thôi, nên cũng dễ hiểu và dễ hình dung hơn.
- Mối quan hệ ngũ hành
tương khắc: Mọi vật thể khi bị sát phạt, khắc chế sẽ đi đến chỗ tàn tạ, thoái
hóa. Do đó, quan hệ tương khắc là để biểu hiện quá trình suy vong và hủy diệt
của sự vật.
Như vậy,
trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả
triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời, nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn
vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá
trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.
- Ngũ hành phản sinh:
Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi
lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho
nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật
hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.
Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh,
nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc
sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có
Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có
Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.
- Ngũ hành phản
khắc: Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành
bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc
được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.
Nguyên lý của Ngũ hành phản
khắc là:
- Kim khắc được
Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được
Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được
Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
- Thủy khắc được
Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được
Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.
Chính vì
vậy trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh
hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra
nữa. Biết rõ được các mỗi quan hệ đó sẽ biết được sự tinh
tế trong mối quan hệ của vạn vật, của trời đất, và con người..
"Theo Dịch lý thì âm
dương có tính cách tương đối, không có vật gì độc âm hay cô dương mà tồn tại,
vì độc âm thì bất sanh, cô dương thì bất trưởng. Âm Dương lại hổ căn chuyển hóa
lẫn nhau, hễ Dương cực thì Âm sinh, Âm cực thì Dương sinh, trong Thái âm có Thiếu
dương, trong Thái dương có Thiếu âm ... Nên mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng,
cũng chỉ là sự đấu tranh, chuyển hóa và thống nhất, giữa hai mặt đối lập là âm
dương. Đây là phép biện chứng của triết học Đông phương."
“Hoàng đế nội kinh tố vấn, âm dương ứng
tượng đại luận” có nói:“Dương thắng tắc âm bệnh, âm thắng tắc dương
bệnh. Dương thắng tắc nhiệt, âm thắng tắc hàn.Trọng hàn tắc nhiệt, trọng nhiệt
tắc hàn”.
Có nghĩa là trong cơ thể con người nếu dương
khí quá mạnh thì âm khí sẽ yếu, ngược lại nếu âm khí quá mạnh thì dương khí
cũng yếu. Dương khí mạnh sẽ sinh bệnh về nhiệt, âm khí mạnh sẽ sinh chứng bệnh
về hàn, hàn đến cực điểm sẽ sinh bệnh về nội nhiệt, nhiệt đến cực điểm cũng
sinh chứng nội hàn.
Thiên địa là tự nhiên, vô vi vô tạo, vạn vật
tự có sự kết nối. Cơ thể người cũng như vậy, cũng giống như tự nhiên, nếu giữ
được sự cân bằng thì làm sao mà có bệnh? Ngươi luyện Dịch Cân kinh, quả thật là
phương pháp rèn luyện dưỡng sinh đã qua thiên chuy bách luyện của đạo gia
Thái âm phế kinh ở tay là từ Trung Phủ, Thiếu
Thương ở ngón tay, tổng cộng mười một huyệt đạo.
Thái Uyên huyệt này là nguyên huyệt phế kinh,
bổ trung khí lực cực mạnh, trung phủ tên cũng như ý nghĩa, chính là phủ trong
khí, là nơi trung khí hội tụ, cũng là yếu huyệt điều bổ trung khí, xoa bóp ngải
cứu đều có hiệu quả bổ khí. Có thể xoa bóp hai huyệt đạo này thường xuyên, đối
với thân thể phục hồi như cũ có lợi thật lớn, trung khí đầy đủ, lệ khí khó lưu
Mộc khắc thổ là tài, thủy sinh mộc là quý, mộc
gặp mộc là vượng, mộc sinh hỏa là loạn, kim khắc mộc là sát.
Thái Uyên huyệt vốn là nguyên huyệt phế kinh,
huyệt tính thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, năng lực bổ trung khí cực mạnh. Dùng
ngải cứu có thểấm cơ tán hàn, sơ phong giải biểu, nếu có thể đối chứng thi pháp,
có thể sinh hiệu quả rất lớn Vô cực thế hư khí trung lý, thái cực thái hư
lý trung khí, thiên địa chi đạo, lấy hai khí âm dương tạo hóa vạn vật, thiên
địa, nhật nguyệt, lôi điện, mưa gió... Vạn sự vạn vật, cái nào cũng phân âm
dương, đạo lý của cuộc sống cũng là lấy hai khí âm dương trường dưỡng bách hài,
kinh mạch, xương thịt, lưng bụng, lục phủ ngủ tạng, thậm chí bảy hại tám lợi.
Trong một cơ thể, cái nào không hợp lý lẽ của âm dương....
Hùng thức có thể cường tỳ vị, tăng thể lực;
Hạc thức điều khí huyết, thông kinh mạch; Hổ thức điền tinh ích tháo, giúp thận
khỏe; Lộc thức có thể giãn gân, giãn cốt; Viên thức giúp tứ chi linh
hoạt.
Mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, miệng nhìn tim,
lương thiện chẳng khác nào lão tăng nhập định.
"hai viên" này có thể tăng cường sức
mạnh ở tay, kích thích mạch máu, tăng cường khí huyết.
Tứ chi và toàn thân của con người là một chỉnh
thể.
Mười bốn điều trong đại kinh mạch, trừ hai
mạch nhâm đốc ra, mười hai kinh mạch liên hệ chân tay với các phần ngự,c bụng
và đầu của cơ thể, trong đông y hậu thế, gọi là nội liên tạng phủ, ngoại lạc tứ
chi. Tục ngữ nói rất hay, tay đứt ruột xót. Ý chỉ mười đấu ngón tay có liên hệ
chặt chẽ với các tạng phủ khí quan trong cơ thể. Bằng cách kích thích học vị
trên tay, có thể truyền lại đến tạng khí tương ứng, cũng ảnh hưởng đến toàn
thân. Còn song hoàn này hoàn toàn có thể đạt tới hiệu quả thần kỳ.
Thiên Cương- Địa Sát: Tam Viên 60 chòm hơn
220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm
thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm
Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9
vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên
cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không
phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa.
Đồng môn là bằng, cùng lý tưởng là hữu.
Tất cả chỉ đơn giản có ba điều: Luyện tinh hóa khí,
luyện khí hóa thần và luyện thần hoàn hư. Lại có ba bước công phu là dịch cốt,
dịch cân và tẩy tủy. Còn có ba loại luyện pháp đó là Minh kính, ám kình và hóa
kình. Nhưng cơ sở này có thể nói là một bước vô cùng quan trọng.
Khí đi vào qua da, kinh lạc, gân, kinh mạch.
Lực xuất phát từ cơ bắp, xương cốt.
Người bên ngoài có lực gọi là hình. Người có
khí nội liễm trong gân mạch gọi là tượng.
Có câu trăm ngày Trúc Cơ, mười tháng Dịch cốt,
ba năm dịch cân.
Con người
có tứ hải ngũ tạng, mười hai kinh mạch. Tứ hải phân thành tủy hải, huyết hải,
khí hải và thủy cốc chi hải, thì não chính là tủy hải
'Tâm
tàng thần, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí.'
Ngũ
Hành được gọi là ngũ tạng, lá gan thuộc mộc, tâm thuộc hỏa, tỳ thuộc thổ, phổi
thuộc kim, thận thuộc thủy. Ngũ Hành thiếu thủy là nói thận của đại nhân yếu.
Tử Phủ là
cung bảo mệnh, ấn đường, thiên đình, và đan điền đối ứng với nhau tạo thành một
huyệt khiếu