26/04/2022

NGŨ HÀNH

Nguyên lý ngũ hành tương sinh là:
Hình ảnh có liên quan

KIM sinh THỦY 
 THỦY sinh MỘC 
 MỘC sinh HỎA 
 HỎA sinh THỔ 
 THỔ sinh KIM.
    Kim sinh Thủy không phải là vì Kim bị đốt nóng sẽ chảy ra thành nước, vì Kim lúc đó tuy ở dạng thể mền lỏng, nhưng đỏ chói, nóng bỏng nên sao có thể gọi là “Thủy” được.

Thật ra, nguyên lý Kim sinh Thủy của cổ nhân là vì lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, mà Trời sinh ra mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy được phát sinh từ Trời. Mà quẻ CÀN có hành Kim nên mới nói Kim sinh Thủy là vậy. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nếu không có Thủy thì vạn vật không thể phát sinh trên trái đất. Cho nên khi lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM (THỦY) cũng chính là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống trên trái đất là bắt nguồn từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế. Do đó, trong các nguyên lý tương sinh của Ngũ hành, Kim sinh Thủy là 1 nguyên lý tâm linh, triết lý và vô hình, và cũng là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh, vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật. Còn những nguyên lý tương sinh còn lại chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau trên trái đất để duy trì sự sống mà thôi, nên cũng dễ hiểu và dễ hình dung hơn.

Mối quan hệ ngũ hành tương khắc: Mọi vật thể khi bị sát phạt, khắc chế sẽ đi đến chỗ tàn tạ, thoái hóa. Do đó, quan hệ tương khắc là để biểu hiện quá trình suy vong và hủy diệt của sự vật.


     Nguyên lý của Ngũ hành tương khắc là:



 KIM khắc MỘC. 

 MỘC khắc THỔ. 

 THỔ khắc THỦY. 

 THỦY khắc HỎA. 
 HỎA khắc KIM.
    Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. 

   Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời, nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

   - Ngũ hành phản sinh: Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành. 

 Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là: 

  - Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.

- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than. 

 - Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt. 

 - Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt. 

 - Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc: Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc. 

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là: 

-  Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy. 

-  Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu. 

-  Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt. 

-  Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn. 

-  Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.

   Chính vì vậy trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa.      Biết rõ được các mỗi quan hệ đó sẽ biết được sự tinh tế trong mối quan hệ của vạn vật, của trời đất, và con người..



"Theo Dịch lý thì âm dương có tính cách tương đối, không có vật gì độc âm hay cô dương mà tồn tại, vì độc âm thì bất sanh, cô dương thì bất trưởng. Âm Dương lại hổ căn chuyển hóa lẫn nhau, hễ Dương cực thì Âm sinh, Âm cực thì Dương sinh, trong Thái âm có Thiếu dương, trong Thái dương có Thiếu âm ... Nên mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng, cũng chỉ là sự đấu tranh, chuyển hóa và thống nhất, giữa hai mặt đối lập là âm dương. Đây là phép biện chứng của triết học Đông phương."

Hoàng đế nội kinh tố vấn, âm dương ứng tượng đại luận” có nói:“Dương thắng tắc âm bệnh, âm thắng tắc dương bệnh. Dương thắng tắc nhiệt, âm thắng tắc hàn.Trọng hàn tắc nhiệt, trọng nhiệt tắc hàn”.

Có nghĩa là trong cơ thể con người nếu dương khí quá mạnh thì âm khí sẽ yếu, ngược lại nếu âm khí quá mạnh thì dương khí cũng yếu. Dương khí mạnh sẽ sinh bệnh về nhiệt, âm khí mạnh sẽ sinh chứng bệnh về hàn, hàn đến cực điểm sẽ sinh bệnh về nội nhiệt, nhiệt đến cực điểm cũng sinh chứng nội hàn.

Thiên địa là tự nhiên, vô vi vô tạo, vạn vật tự có sự kết nối. Cơ thể người cũng như vậy, cũng giống như tự nhiên, nếu giữ được sự cân bằng thì làm sao mà có bệnh? Ngươi luyện Dịch Cân kinh, quả thật là phương pháp rèn luyện dưỡng sinh đã qua thiên chuy bách luyện của đạo gia

Thái âm phế kinh ở tay là từ Trung Phủ, Thiếu Thương ở ngón tay, tổng cộng mười một huyệt đạo.

Thái Uyên huyệt này là nguyên huyệt phế kinh, bổ trung khí lực cực mạnh, trung phủ tên cũng như ý nghĩa, chính là phủ trong khí, là nơi trung khí hội tụ, cũng là yếu huyệt điều bổ trung khí, xoa bóp ngải cứu đều có hiệu quả bổ khí. Có thể xoa bóp hai huyệt đạo này thường xuyên, đối với thân thể phục hồi như cũ có lợi thật lớn, trung khí đầy đủ, lệ khí khó lưu

Mộc khắc thổ là tài, thủy sinh mộc là quý, mộc gặp mộc là vượng, mộc sinh hỏa là loạn, kim khắc mộc là sát.

Thái Uyên huyệt vốn là nguyên huyệt phế kinh, huyệt tính thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, năng lực bổ trung khí cực mạnh. Dùng ngải cứu có thểấm cơ tán hàn, sơ phong giải biểu, nếu có thể đối chứng thi pháp, có thể sinh hiệu quả rất lớn Vô cực thế hư khí trung lý, thái cực thái hư lý trung khí, thiên địa chi đạo, lấy hai khí âm dương tạo hóa vạn vật, thiên địa, nhật nguyệt, lôi điện, mưa gió... Vạn sự vạn vật, cái nào cũng phân âm dương, đạo lý của cuộc sống cũng là lấy hai khí âm dương trường dưỡng bách hài, kinh mạch, xương thịt, lưng bụng, lục phủ ngủ tạng, thậm chí bảy hại tám lợi. Trong một cơ thể, cái nào không hợp lý lẽ của âm dương.... 

Hùng thức có thể cường tỳ vị, tăng thể lực; Hạc thức điều khí huyết, thông kinh mạch; Hổ thức điền tinh ích tháo, giúp thận khỏe; Lộc thức có thể giãn gân, giãn cốt; Viên thức giúp tứ chi linh hoạt. 

Mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, miệng nhìn tim, lương thiện chẳng khác nào lão tăng nhập định.

"hai viên" này có thể tăng cường sức mạnh ở tay, kích thích mạch máu, tăng cường khí huyết.

Tứ chi và toàn thân của con người là một chỉnh thể.

Mười bốn điều trong đại kinh mạch, trừ hai mạch nhâm đốc ra, mười hai kinh mạch liên hệ chân tay với các phần ngự,c bụng và đầu của cơ thể, trong đông y hậu thế, gọi là nội liên tạng phủ, ngoại lạc tứ chi. Tục ngữ nói rất hay, tay đứt ruột xót. Ý chỉ mười đấu ngón tay có liên hệ chặt chẽ với các tạng phủ khí quan trong cơ thể. Bằng cách kích thích học vị trên tay, có thể truyền lại đến tạng khí tương ứng, cũng ảnh hưởng đến toàn thân. Còn song hoàn này hoàn toàn có thể đạt tới hiệu quả thần kỳ.

Thiên Cương- Địa Sát: Tam Viên 60 chòm hơn 220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9 vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa.

Đồng môn là bằng, cùng lý tưởng là hữu.

Tất cả chỉ đơn giản có ba điều: Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần và luyện thần hoàn hư. Lại có ba bước công phu là dịch cốt, dịch cân và tẩy tủy. Còn có ba loại luyện pháp đó là Minh kính, ám kình và hóa kình. Nhưng cơ sở này có thể nói là một bước vô cùng quan trọng.

Khí đi vào qua da, kinh lạc, gân, kinh mạch. Lực xuất phát từ cơ bắp, xương cốt.

Người bên ngoài có lực gọi là hình. Người có khí nội liễm trong gân mạch gọi là tượng.

Có câu trăm ngày Trúc Cơ, mười tháng Dịch cốt, ba năm dịch cân.


Căn bệnh tấn công mạnh dân văn phòng và người trẻ tuổi: Đây là giải pháp! - Ảnh 2.

Con người có tứ hải ngũ tạng, mười hai kinh mạch. Tứ hải phân thành tủy hải, huyết hải, khí hải và thủy cốc chi hải, thì não chính là tủy hải

'Tâm tàng thần, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí.'

Ngũ Hành được gọi là ngũ tạng, lá gan thuộc mộc, tâm thuộc hỏa, tỳ thuộc thổ, phổi thuộc kim, thận thuộc thủy. Ngũ Hành thiếu thủy là nói thận của đại nhân yếu.

Tử Phủ là cung bảo mệnh, ấn đường, thiên đình, và đan điền đối ứng với nhau tạo thành một huyệt khiếu


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét