Tôi chưa phải là Phật tử, tôi cũng chưa quy y nhưng tôi kính Phật, thích nghe giảng và
tìm hiểu về đạo Phật. Tôi chưa ăn chay được vì chưa thích với có vẻ không hợp do tôi không thích ăn rau. Đôi lúc nhìn sự việc xung quanh của đạo pháp, có những cái tôi
thấy chưa đúng của những người trong đạo hay có những sự việc người ta làm hơi
mâu thuẫn với Phật pháp... Tôi vẫn giữ vững niềm tin vào Phật và chỉ tin Phật
mà thôi.
Có khi tìm hiểu và đọc thêm những phân tích và phê bình dù đúng
hay không tôi vẫn tiếp tục tin Phật. Nếu có những gì mới lạ mà tôi post lên chỉ
để các bạn nghiên cứu và suy nghĩ, nhưng phải giữ vững niềm tin nếu bạn là Phật
tử.
Phật là chân lý, là người thầy hướng dẫn chứ không phải làm cho ta mê tín. Đó là điều tôi luôn ghi nhớ và hy vọng các bạn cũng đã biết.
Ta chắp tay thành tâm lễ Phật là kính biết ơn Phật Tổ và các chư Phật đã bao bọc và chỉ đường, dẫn lối cho ta đi theo con đường sáng - Ví thế, ngày nào tôi cũng thắp hương lên ban Phật và bữa ăn nào tôi cũng thầm khấn biết ơn .
Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thật - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chân chính, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian.
Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với
tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết
đâu.
Ở đây, tôi xin trích giới
thiệu bài nói của ngài Minh Đức Triều Tâm Ảnh tại Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015:
Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda,
tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật
giáo để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:
1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng
đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao
hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng
đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước
mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra
từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ
không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán”
rồi “đoán” như của Tây phương.
4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ
không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ
Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ
cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu.
Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã
đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh
hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc
đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao
cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ
nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả
Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật
là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các
giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học
thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao
đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền
tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật
đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến
hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham
sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực
lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói
đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp
môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng
lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm
giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch
lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn
pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4
ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng,
có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín
ngưỡng Ấn Độ cổ thôi. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một
bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày
giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng
Pāli có đoạn: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ
đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó
gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và
nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt.
Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi
sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát
đạt có thể có thêm nghĩa nhiều ích).
9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả
nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả
đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ
cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc
định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh
nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ,
siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả.
Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc
những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các
nước Phật giáo Theravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có
thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức
người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử
nghiệp” tốt cho mình.
- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi
khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh
hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu
thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực
cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp
đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy
cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức
Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố
là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài
không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan
mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở
đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh
như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi
không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với
chữ “linh” này cả!
13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một
cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian
này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông
rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế
gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố
giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới
giác ngộ bài học được.
Những vị
đệ tử chưa chứng ngộ thường thắc mắc về Niết Bàn và đặt những câu hỏi về Niết
Bàn. Đức Phật có nhiều lần đã im lặng trước những câu hỏi đó. Sự im lặng của
Phật tổ cũng đã là một cách trả lời. Tìm hiểu về Niết Bàn là một việc làm mất thì
giờ lại còn dễ đưa người tới những tưởng tượng hư vọng. Niết Bàn là một thực thể
cần được thực chứng chứ không phải là đối tượng của những suy luận duy lý (đoạn này tôi thêm vào).
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là
bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15- Tu để được cái gì! Có nhiều người
nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc?
Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.
16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái
ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa
thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa
đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và
giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào
phước báu nhân thiên.
17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn,
phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ
cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7
khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại
nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc -
phần thân – luôn nương tựa vào nhau.
Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc,
như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này
không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên.
Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng
ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả!
Và cũng thật là“đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn
hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng
sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen
thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí
tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực
Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ
với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không
có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.
19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người
Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ
lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người
Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có
người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được
gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh
nên gọi là Chánh Đẳng Giác.
Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể
nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng
sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh,
thượng đế.
Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu
lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm,
tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái
ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây
khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét