Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

24/07/2024

Vài nét về gốm sứ cổ

Theo truyền thống gia đình, mình cũng là người ham mê đồ cổ như tranh vẽ, văn thơ, vũ khí, tiền cổ,... trong đó quan tâm nhiều nhất là gốm sứ Tàu. 

Cũng chịu khó tìm hiểu, thưởng lãm, sưu tầm (một ít thôi, do kinh tế chưa phù hợp), còn có đồ gia truyền nên cũng có chút hiểu biết về gốm sứ.

Nói thật với các bạn, để biết và hiểu gốm sứ Tàu, có nhẽ chỉ có các bậc tựa ông Vương Hồng Sển mới có thành tựu chứ bây giờ mấy ai dám vỗ ngực.

Danh từ “ceramics” nghĩa là gốm sứ, xuất phát từ chữ “keramos” tiếng Hy Lạp nghĩa là “vật nung”. Ngày nay ở thủ đô Athens, Hy Lạp vẫn còn một khu phố tên là Kerameikos, nơi ngày xưa người ta sản xuất đồ gốm. Kỹ thuật làm đồ gốm Hy Lạp và Etruria được người La Mã tiếp nhận và phát triển mạnh mẽ.

Gốm được cho là xuất hiện cách đây khoảng 10.000 năm, tuy nhiên cũng có nguồn thông tin cho rằng đồ gốm đầu tiên được con người tạo ra cách đây khoảng 28.000 năm trước công nguyên trong thời kỳ đồ đá cũ, là tượng một người phụ nữ tên là thần vệ nữ của Dolní Věstonice ở gần Brno thuộc Cộng hòa Séc.


Gốm thì được làm từ đất sét, có độ kết dính và dẻo cao. Khả năng thấm hút nước yếu, khi đánh vào phát ra âm thanh rè rè. 

Sứ thì được làm từ đất sét, fenspar và thạnh anh. Không hút nước, chống ăn mòn và có kết cấu cứng, chắc, khi gõ vào sẽ phát ra âm thanh giòn.

Ở Trung quốc, thời kỳ đồ đá, đã có đồ gốm sơ thô và đồ gốm đen đơn giản.

Đến thời nhà Thương (tk XVI TCN – XI TCN), đồ gốm tráng men và gốm tráng men cứng bắt đầu xuất hiện với những đặc tính cơ bản của đồ sứ.

Đến thời nhà Ngụy và Tấn (220 – 429 sau CN), Trung Quốc đã hoàn thành phát minh quan trọng là dùng lửa nhiệt độ cao để làm ra đồ sứ rắn.

Vào thời nhà Đường (618 – 907), công nghệ sản xuất gốm sứ và sáng tạo nghệ thuật gốm sứ đã đạt đến trình độ rất cao.

Vào thời nhà Minh và Thanh (1368 – 1911), công nghệ gốm sứ tráng men đều vượt trội hơn nhiều so với các thế hệ trước.

Thời Tống có 5 loại sứ “ Nhữ, Quân, Quan, Ca, Định” nổi tiếng và ảnh hưởng nhất định đến các dòng sứ sau này như sứ Cảnh Đức, Giang Tây...

Đồ gốm sứ Trung Quốc nổi bật do có chất lượng tốt. Tạo hình tinh xảo, hoa văn trang trí đa dạng, chủng loại phong phú và độc đáo.

Đồ gốm sứ Trung Quốc cũng vô cùng nổi tiếng với gốm sứ trắng, dòng sứ tưởng chừng như dễ nhưng lại khó đẹp và đạt chất lượng nhất. Cần phải đạt tới tiêu chí “trắng như ngọc, sáng như gương, mỏng như giấy và vang như chuông”.

Trung Quốc nổi tiếng với 4 loại gốm sứ trứ danh: Sứ thanh hoa, Sứ linh lung. Sứ men hồng (hồng nhung và hồng sậm) và Sứ men màu (đỏ, xanh, lam, vàng và đen).

Bôi uống rượu huynh đệ Mai Tử – Long Tuyền , sứ Thanh hoa màu ngọc bích
Sắc màu sứ Thanh hoa thời Nam Tống

Bát sứ Linh lung Cảnh Đức trấn
Lọ sứ Lung linh
Nai thuý hồng - sứ men hồng

Bình Mai men ngọc đời Đường
Nậm rượu sứ đời Càn Long
Bát sứ thời Minh
Chậu sứ đời Ung Chính


Ấm sứ tứ phương đời Thanh
Ấm sứ cổ mất nắp có giá tương đương 18 tỷ VND
"Bảo nguyệt bình" của vua Càn Long
Bát vẽ chim yến
v.v. 
Nhưng nói chung, về mặt giá cả, những thứ minh hoạ ở trên đều cao ngất ngưởng mà đa số nhà sưu tầm không với tới được.

Như trên mình đã nói, để hiểu về gốm sứ Tàu cổ ta phải chịu khó tham quan các bảo tàng, các triển lãm, các bộ sưu tập đồ cổ, các chợ...; được mạnh dạn tiếp xúc nhiều món cổ vật, kể cả đồ giả; phải vô cùng kiên trì tìm hiểu, ví dụ như các đường dẫn sau tạm để các bạn tham khảo. Còn thực tế, khó hơn nhiều lắm...:

   https://covattinhhoa.vn/news/detail/1203/dac-trung-cua-5-loai-su-nha-tong-va-phuong-phap-giam-dinh.cvth

https://nghethuatxua.com/hieu-de-tren-do-su-ky-kieu/

https://nguyenhadesign.wordpress.com/2024/03/23/van-tu-de-khoan-tren-vai-mon-su-co/

- ...

Gốm Việt Nam có một lịch sử lâu đời trải dài từ vài nghìn năm trước đây, bao gồm một thời gian dài trước thời kỳ Bắc thuộc thông qua các chứng cứ khảo cổ học.

Ở Việt Nam mình, ngoài gốm, sứ thì còn có đồ sành (dù không phải chỉ riêng ta có và phát minh ra nhưng hay nói đến: sành sứ) vì nó được sử dụng nhiều, phổ biến trong dân gian cách đây chưa xa như các đồ gia dụng như chum, vại, chậu... và trang trí cùng đồ sứ trong các công trình kiến trúc như chùa, điện, phủ...

Nhiều đồ gốm sành sứ Việt Nam trong và sau thời kỳ Bắc thuộc bị ảnh hưởng nhiều bởi kỹ thuật, kiểu dáng gốm TQ nhưng nguyên liệu chế tạo xương và men của đồ gốm thời kỳ này được khai thác tại chỗ; nhiều loại hình nồi, vò, vẫn giữ được nguyên dáng của truyền thống gốm Đông Sơn trước đó. 

Do vậy, gốm Việt Nam giai đoạn 10 thế kỷ sau CN, các nhà nghiên cứu quốc tế đã thừa nhận rằng, họ không nhìn thấy sự giống nhau giữa gốm thời Đông Hán ở Trung Nguyên với gốm Việt. Đây quả là sự tài tình của cha ông ta, vừa giữ gìn bản sắc, vừa lựa chọn tiếp thu kỹ thuật bên ngoài, để tạo nên nền móng vững chắc cho kỹ thuật gốm men truyền thống VN. Người Việt còn thêm vào những nét đặc sắc đến từ các nền văn hóa khác như là Kh'me, Ấn Độ và Chăm Pa...

Ở VN mình có các làng gốm truyền thống như Kim Lan, Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Phước Tích, Bạch Liên, Gia Thuỷ, Bàu Trúc, Chu Đậu, Biên Hoà...

Nhưng do mình ham thích đồ sứ Tàu nên không có nhiều kiến thức về đồ Việt Nam ta, thành ra cũng chả dám bi bô.

 

Vò gốm, thế kỷ 5 - 6 của VN
Liễn và ấm men trắng, thế kỷ 11 - 13 của VN

Ấm men trắng, thế kỷ 12 - 13 của VN

Bát men lục, thế kỷ 13 - 14của VN

Ấm men nâu, thế kỷ 13 - 14 của VN

Lư hương gốm men lam xám, thế kỷ 16 của VN
Cổng đồng ở hai đầu cầu Trung Đạo trong Hoàng thành Huế được trang trí bằng các ô Pháp lam.
Đồ sứ sử dụng kỹ nghệ Pháp lam thời Nguyễn đang được trưng bày trong Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế

Ảnh minh hoạ là mình nhặt từ nhiều nguồn của các viện bảo tàng, các cuộc triển lãm, đấu giá... đăng trên net.

21/05/2024

Cây hương đá chùa Tứ Kỳ

st trên net

 

Với tạo hình mang đậm triết lý Phật giáo, cây hương đá chùa Tứ Kỳ thể hiện sự phát triển của đạo Phật và đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê Trung Hưng.

Vào năm 1959, trên một gò đất nhỏ thuộc khuôn viên chùa Tứ Kỳ (nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội), người ta đã tìm thấy một cây hương đá có kích thước to lớn, chạm khắc rất tinh xảo.

Sau đó, cây hương đá chùa Tứ Kỳ được đưa về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Theo đo đạc, hiện vật cao 270 cm, rộng 87 cm, được chia thành ba phần: Đỉnh, thân và bệ.

Phần đỉnh cây hương đá gồm hai phần: Đế và bát hương. Phần đế hình bát giác, phía dưới chạm băng cánh sen, phía trên chạm hoa cúc, sen.

Phần bát hương hình tròn đặc, gờ miệng thẳng, cao, loe rộng trang trí băng cánh sen, trên mặt có 5 lỗ. Thân bát hương phình ra, được tạo bởi đôi rồng quấn thân vào nhau chầu mặt trời.

Phần thân cây hương là cột trụ đá cao 150 cm, gồm 8 mặt. Mỗi mặt cạnh đều thống nhất cách trang trí: Phần giữa là minh văn, trên và dưới trang trí hoa văn.

Ở phía trên phần thân là 8 hình chim phượng xen lẫn trong mây trên cụm mây hoa đao lửa cách điệu với 8 tư thế bay, đậu khác nhau.

Phía dưới trang trí đề tài rồng và rồng đuôi cá trên sóng nước, xen kẽ là hình hạc và đôi hổ vờn mây lửa.

Bài minh văn trên cây hương chùa Tứ Kỳ cho biết lý do và tên người cho dựng cây hương. Đó là một vị quan đương triều tên là Đỗ Lịch, vì tôn vua kính trời và để lại công đức về sau nên đã dựng “thạch đài” để truyền đến muôn đời.

Thời điểm dựng cây hương được ghi là năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền Tông, thời Lê trung hưng (1666). Bài minh văn cũng cho biết lượng ruộng đất được cung tiến để hàng năm lo việc cúng tế, giỗ chạp…

Phần bệ cây hương tạo hình chân quỳ trang trí vân mây, bên trên trang trí băng cánh sen và đường gờ nổi khối. Các ô trang trí trên bệ có các hình long mã vờn mây, hoa cúc, hoa sen cách điệu, hoa đao lửa cách điệu…

Theo hồ sơ bảo vật, cây hương chùa Tứ Kỳ có những nét khác biệt so với các cây hương cùng thời. Trước hết, đây là cây hương được tạo tác vào thời Lê Trung Hưng có kích thước lớn nhất từng biết. Hầu hết các cây hương khác được phát hiện cao dưới 200 cm, rộng dưới 50 cm.

Đa phần các cây hương thời Lê Trung Hưng đều có bệ vuông, phần cột trụ vuông 4 cạnh, rất ít trường hợp có 6 cạnh, còn 8 cạnh như cây hương chùa Tứ Kỳ là duy nhất được biết đến.

Cây hương chùa Tứ Kỳ cũng có nghệ thuật điêu khắc, tạo hình, đề tài trang trí rất phong phú, sinh động, trong khi đại đa số các cây hương cùng thời chủ yếu để trơn hoặc trang trí đơn giản.

Với tạo hình mang đậm triết lý Phật giáo, hiện vật đã thể hiện sự phát triển của đạo Phật và đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt thời Lê Trung Hưng.

Minh văn trên cây hương là tư liệu giá trị trong việc nghiên cứu chế độ ruộng đất thời Hậu Lê, thế kỷ 17. Cụ thể, đó là việc công đức ruộng đất vào chùa, lấy làm hương hỏa cho chùa (ruộng hậu) được kế thừa, phát huy.

Với những ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật, cây hương đá chùa Tứ Kỳ đã được công nhận là Bảo vật quốc gia của Việt Nam vào ngày 25/12/2021.

15/01/2024

Tranh về Viết Nam 1 thế kỷ trước

 st trên net


Họa sĩ người Pháp Joseph Inguimberty (1898-1971) làm giáo viên tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) ở Hà Nội từ năm 1926 đến 1945. Cùng xem những bức tranh được ông thực hiện trong thời gian làm việc tại Việt Nam.Việt Nam một thế kỷ trước qua tranh của Joseph Inguimberty

“Dãy núi Ba Vì nhìn từ cánh đồng lúa Sơn Tây”.

“Người lao động trên đồng ruộng”.

“Con đường trên cánh đồng lúa”.

“Phong cảnh ở Việt Nam”.

“Đồng lúa ở đồng bằng Bắc Bộ”.

“Ngôi đền” (Lăng vua Minh Mạng ở Huế).

“Vịnh Hạ Long”.

“Cảnh nông thôn”.

“Những người phụ nữ Bắc Bộ trên đồng ruộng”.

“Những người nông dân Bắc Bộ”.

“Cuộc hội ngộ của những người phụ nữ”.

“Người đàn bà nằm võng”.

“Chiếc võng”.

“Bên bờ ao”.

“Phụ nữ và trẻ em”.

“Studio”.

“Những người phụ nữ”.

“Các cô gái nghỉ ngơi với chiếc võng”.

“Những người phụ nữ Việt”.

“Chân dung thiếu nữ Đông Dương”.

“Hai cô gái Việt Nam trong một khung cảnh”.

“Thư giãn”.

Không đề.