Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

30/11/2025

An Nam Tứ Đại Khí

 ST

 


 Ảnh do Gemini tạo

 

Từ những ngày đầu lập quốc, nhà Lý đã nung nấu khát vọng xây dựng một vương triều vững mạnh, sánh vai với các cường quốc phương Bắc. Triều đại Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, rồi Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, quân sự mà còn đề cao Phật giáo, xem đó là quốc giáo, là nền tảng tinh thần cho dân tộc. Chính trong thời kỳ hưng thịnh ấy, bốn công trình vĩ đại, được đúc bằng đồng, mang sức mạnh và linh khí của non sông, đã ra đời. Người đời gọi đó là "An Nam Tứ Đại Khí".

1. Tháp Báo Thiên - Trấn Giữ Thăng Long (Đời Lý Thánh Tông)

Năm 1057, dưới thời vua Lý Thánh Tông, tại phường Báo Thiên (nay là khu vực quanh Nhà Thờ Lớn Hà Nội), một công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ đã được khởi dựng: Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp (thường gọi tắt là Tháp Báo Thiên).

Lý do để tháp được coi là tứ đại khí là vì tầng trên cùng của đỉnh tháp đều được đúc bằng đồng. Toà tháp cao tới 20 trượng (khoảng 70m, có tài liệu ghi 12 tầng, có tài liệu ghi 30 tầng), sừng sững giữa kinh thành Thăng Long, được xem là trụ cột chống trời của Đại Việt. Tương truyền, trên đỉnh tháp còn có tượng tiên nhân đứng hứng mưa làm thuốc cho vua, thể hiện lòng tin vào sự che chở của thần linh. Tháp Báo Thiên không chỉ là công trình kiến trúc đỉnh cao mà còn là biểu tượng cho uy thế và niềm kiêu hãnh của quốc gia độc lập. Nó trấn giữ long mạch, bảo vệ kinh thành khỏi tai ương.

Trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ! Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất 2 tầng về góc bên Đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng 6 năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương, nghĩa là 84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai, đỉnh tháp lại bị đổ, mặc dù không gặp phải sự cố mưa bão hoặc sấm chớp gì.

Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được trổ đất thành gò cao để dựng tràng.

2. Chuông Quy Điền - Tiếng Chuông Không Ngân (Đời Lý Nhân Tông)

Vào năm Canh Thân (1080), dưới triều vua Lý Nhân Tông, triều đình cho đúc một chiếc chuông cực lớn cho chùa Diên Hựu (chùa Một Cột ngày nay). Chuông được đúc bằng  đồng khoảng 7,3 tấn với hy vọng tiếng chuông sẽ vang vọng khắp cõi, mang lại an lành.

Tuy nhiên, chuông quá lớn, không treo được lên gác chuông đã xây, và khi đánh thì lại không phát ra tiếng kêu vang. Vua lấy làm tiếc, bèn cho vần chiếc chuông khổng lồ này ra khu ruộng sau chùa. Khu ruộng ấy thấp trũng, lại có nhiều rùa sinh sống, nên người đời gọi chuông là chuông Quy Điền (chuông ở ruộng rùa). Dù không kêu, nó vẫn được xem là bảo vật lớn vì sự kỳ công và chất liệu quý giá.

Vào tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.

3. Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm - Đức Phật Khổng Lồ (Đời Lý Thánh Tông/Trần)

Tượng Phật tại chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) là pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng khổng lồ, được tạo dựng từ thời Lý Thánh Tông (năm 1057) và hoàn thiện, trùng tu lớn vào thời Trần, do Thiền sư Nguyễn Minh Không chủ trì đúc.

Tương truyền, tượng cao tới 6 trượng (khoảng 20m). Tượng lớn đến mức phải xây hẳn một tòa điện cao 7 trượng để đặt, và đứng cách xa chùa đến 10 dặm vẫn thấy được nóc điện che sát đầu pho tượng. Đây là minh chứng hùng hồn nhất cho sự phát triển rực rỡ và quy mô của Phật giáo Đại Việt, là biểu tượng của lòng sùng đạo và nghệ thuật đúc đồng tinh xảo.

Thời gian giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi (đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi)

4. Vạc Phổ Minh - Chiếc Vạc Hóa Rồng (Đời Trần)

Dù Tứ Đại Khí khởi nguồn từ nhà Lý, nhưng chiếc vạc đồng nổi tiếng lại được đúc vào thời nhà Trần. Năm Nhâm Tuất (1262), nhân dịp Thượng hoàng Trần Thái Tông về chơi quê hương Tức Mặc (Nam Định), triều đình đã cho đúc Vạc Phổ Minh tại chùa Phổ Minh.

Chiếc vạc này cũng vô cùng to lớn, sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân đồng. Truyền thuyết kể rằng, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Vạc Phổ Minh được xem là nơi hội tụ linh khí, là biểu tượng cho sự thịnh vượng, vững vàng của triều Trần sau những chiến công chống Nguyên Mông.

Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh đã được Quân Minh chuyển từ Thiên Trường (Nam Định) về Đông Quan (Hà Nội).

23/10/2025

Một kỷ niệm nơi Vị Xuyên

 

Chỉ có người lính Vị Xuyên biết thôi còn có ai biết đâu.

Bức ảnh này chụp năm 1986 ở tầng hai hang Làng Lò khi chúng tôi xem đội văn công vào biểu diễn để phục vụ động viên lính chốt ở Vị Xuyên Hà Giang (cho địa chỉ hòm thư đơn vị nhờ gửi lên mà phóng viên không nghĩ là tôi còn sống để nhận được bức ảnh này – đến tôi cũng thế).

Tất cả đều trẻ tơ non xanh và trắng tinh như trang giấy học trò ..!

Trông lam lũ vậy thôi nhưng đều là những chiến binh dày dặn đó.

Ai còn ai mất sau này vì lời thề: "Sống bám đá, chết hóa đá thành bất tử" khắc trên báng súng của liệt sĩ Nguyễn Viết Ninh (câu thề phổ biến toàn mặt trận, nhưng mãi sau này tôi mới biết tác giả) trở thành phương châm sống và chiến đấu của người lính nơi đây.

 


  

10/10/2025

Những bức ảnh chụp năm 1950 của nhiếp ảnh gia lão thành Võ An Ninh (được tô màu)

 

    Mời các bạn thưởng thức những hình ảnh không thể quên về Việt Nam xưa qua bộ bưu thiếp tô màu do nhiếp ảnh gia lão thành Võ An Ninh thực hiện vào buổi đầu sự nghiệp.

Ga Hà Nội khoảng thập niên 1950..

Cửa Đại Thành Môn của Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội.

Cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn ở hồ Gươm, Hà Nội.

Ngân hàng Đông Dương ở 51 đại lộ Lý Thái Tổ.

Cổng đền Voi Phục ở Hà Nội.

Gánh hàng rong Hà Nội.

Đường phố Hà Nội những năm 1950.

Các thiếu nữ áo dài dắt xe đạp trên đại lộ Đồng Khánh, nay là phố Hàng Bài, thập niên 1950.

Một đại lý của hãng xe máy VeloSoleX ở Hà Nội thập niên 1950.

Đồ hàng mã bán trên phố Hàng Mã ở Hà Nội xưa.

Dinh Norodom (Dinh Độc Lập) ở Sài Gòn năm 1954.

Những phụ nữ Thái trắng múa khăn ở Lai Châu.

Nhóm thiếu nữ người Thái trắng cùng hai thanh niên chơi đàn tính đứng hai bên.

Nhà hát thành phố Hải Phòng, khoảng năm 1950.

Bưu điện Hải Phòng thập niên 1950.

Trụ sở Ngân hàng Đông Dương (xây lần hai) ở Hải Phòng.

Một góc cảng Hải Phòng xưa.

Tàu biển ở cảng Hải Phòng.

Bốc dỡ hàng hóa nhập từ Pháp.

Bến Sáu Kho ở cảng Hải Phòng.

Một góc cảng Hải Phòng.

Khung cảnh ở sông đào Hạ Lý.

Phố Quảng Đông – khu phố Tàu ở Hải Phòng.

Đường bền Bonnal, nay là đường Nguyễn Đức Cảnh.

Phố Đông Kinh, nay là Phố Phan Bội Châu.

Phố Paul Doumer, nay là phố Cầu Đất.

Bến thuyền ở kênh Bonnal, nay là hồ Tam Bạc.

Chợ vải Hải Phòng.

Họp chợ trên vỉa hè Hải Phòng.

Một góc chợ vỉa hè.

Sạp hàng dép, guốc ở chợ.

Các quầy hàng bán đồ gốm, nồi đất.

Khu chợ bán tre nứa ở Hải Phòng.

 

09/10/2025

Tục ngữ về ứng xử của người Mường

 


Người Mường là cư dân bản địa, sống lâu đời ở nước ta tạo dựng nền văn hóa giàu bản sắc. Người Mường có cả một kho tàng tục ngữ, trong đó có nhiều tục ngữ về văn hóa ứng xử. Xin giới thiệu đến mọi người một phần các câu tục ngữ được nhiều người biết đến như:

Của mình làm ra như nước vó nguồn/

Của bố mẹ để lại mòn dần như hoa chuối rừng xanh”,

Đào giếng mà uống, vỡ ruộng mà ăn”,

Của mình làm ra ăn no, của người cho ăn nếm”,

Thấy khốn khó đừng vội núng nao/

Đời còn có lúc ngồi giường cao, chiếu rộng”,

Chín chìm, chín nổi, chín lênh đênh/

Mười hai gập ghềnh mới nên thân người”,

Làm người thì khó, làm chó thì dễ”,

Giàu không bỏ họ, khó không bỏ bản mường”,

Nói cây lau đau cây sậy”,

Ăn khi đói, nói khi tỉnh”,

Ăn đi nên bả nên hèm/

Đem biếu láng giềng thành chỗ anh em”,

Đói không ăn lúa giống/ Rét không đun bã sàn”,

Mất bố mất trại cơm, mất mẹ mất áo thơm”,

Vợ già lắm vốn, chồng già tốn cơm”,

Chúa khách ngồi bên ngoài/

Chúa nhà ngồi bên trong”,

Nợ vịt chưa qua, nợ gà đã tới”,

Cơm chồng thì ngon, cơm con chan nước mắt”,

Củi mục cháy nhà/ Người già lắm lời”…