Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng

05/06/2025

Ngã tư Trung Hiền - Ai còn nhớ

St, khảo cứu và biên tập

 

 

Do không tìm được ảnh phù hợp nên đành lấy ảnh này minh họa

 

Đường phố trong nội thành Hà nội dọc ngang như bàn cờ, các con phố giao cắt nhau tạo thành các ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu, thậm chí có cả ngã bẩy. Nhiều nhất là các ngã tư. Để phân biệt các ngã tư, người ta gọi tên một ngã tư kèm theo tên các con phố tạo nên ngã tư đó. Thí dụ ngã tư Đinh Tiên Hoàng- Tràng Tiền- Hàng Bài - Hàng Khay; ngã tư Ngô Quyền - Lý Thường Kiệt.... Nhưng có những ngã tư lại được gọi bằng tên của địa danh gắn với khu vực đó, như: Ngã tư Sở, Ngã tư Vọng, Ngã tư Nhà Rượu, Ngã tư Nhà thương chó, Ngã tư Trung Hiền .v..v.

Ngã Tư Sở, Ngã tư Vọng thì nhiều người sinh sống ở Hà Nội đều biết, vì nó là tên gọi hiện nay vẫn đang sử dụng. Nhưng Ngã Tư Trung Hiền ở đâu thì những người Hà Nội mới và lớp người Hà Nội trẻ bây giờ hầu như không biết. Và cái tên Ngã tư Trung Hiền cũng đang dần mai một theo thời gian.

Ngã tư Trung Hiền là nơi gặp gỡ của bốn đường, phố: Bạch Mai - Đại La - Trương Định và Minh Khai. Đoạn đầu phố Minh Khai tiếp giáp ngã tư này, xưa kia có tên là phố Hưng Ký vì đoạn phố này thuộc làng Hoàng Mai có ngôi chùa Hưng Ký đẹp nổi tiếng do ông Trần Văn Thành là chủ hãng sản xuất gạch, ngói Hưng Ký xây dựng nên.

Để giải thích tại sao ngã tư này lại có tên là Trung Hiền, chúng ta cùng nghe các bô lão người làng Hoàng Mai, Tương Mai kể:

Vào cuối thế kỷ XVI, triều Lê cho đắp luỹ đất ở khu vực phố Đại La và Minh Khai bây giờ. Luỹ đất chia khu vực ngã tư này thành hai phần, làng Hồng Mai trở thành một phường của huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, còn các làng Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động thuộc huyện Thanh Trì, trấn Sơn Nam Thượng (sau này thuộc tỉnh Hà Đông). Chỗ giao nhau giữa luỹ đất Đại La và con đường thiên lý từ Bắc vào Nam gọi là Kẻ Mơ, tức là vùng đất của những làng Mơ, và chính chỗ này hình thành một cửa ô vòng ngoài phía Đông Nam của kinh thành.

Cách ngã tư này khoảng 300m về phía Bắc ở bên ngoài ô Cầu Dền đã có một cái chợ ở giữa làng Hồng Mai mà dân chúng gọi là Chợ Mơ (ở vị trí ngõ 295 phố Bạch Mai ngày nay). Thời đó con đường đi qua ngã tư ở đây vẫn còn heo hút, là nơi tụ tập khá nhiều bọn côn đồ, trộm cắp, sách nhiẽu người dân qua lại, là nỗi sợ hãi của người dân có công việc phải đi qua ngã tư này.

Tương truyền, hồi đó ở làng Tương Mai có ông Trung Hiền, không rõ đó là tên thật của ông hay là duệ hiệu tôn vinh ông sau khi mất. Ông có sức khoẻ, giỏi võ nghệ, tính tình khảng khái sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ dân lành. Ông đã đứng ra giúp nhà chức trách thẳng tay trừng trị bọn lưu manh. Hết đường làm ăn, chúng căm thù ông lắm và bàn mưu tìm cách hãm hại. Một lần, do bị đánh bất ngờ, ông đã bị chúng giết chết.

Để tỏ lòng thương tiếc, dân hai làng Hoàng Mai, Tương Mai đã dựng ngôi miếu nhỏ ở ngay bên đường thiên lý để thờ người vì nghĩa quên thân. Do nằm ở vị trí thuận lợi, hằng ngày miếu có đông người đến lễ bái, nhất là các bà các cô đi chợ từ phía Nam tới Chợ Mơ. Từ đó ngã tư này được gọi là ngã tư Trung Hiền, cửa ô ở đây cũng gọi là cửa ô Trung Hiền.

Miếu thờ ông Trung Hiền dựng từ khi nào và tồn tại trong bao lâu, đến nay không ai còn nhớ. Chỉ biết khoảng 1940, khi chuyển chợ Mơ cũ từ giữa phố Bạch Mai xuống ngã tư hiện nay, người Hà Nội quen gọi là chợ Mới Mơ, người ta vẫn thấy bên kia đường có ngôi miếu nhỏ bé ẩn mình dưới gốc đa rễ tua tủa, có treo những bình vôi và bát hương. Hà Nội phát triển, đường xá mở rộng, sau năm 1954 ngôi miếu bị dỡ bỏ. Năm 1980, cây đa cổ thụ cũng bị chặt hạ.

Ngày nay, sự tích miếu Trung Hiền và tên gọi Ngã tư Trung Hiền chỉ còn lưu trong tâm trí một số ít những người Hà Nội già nua, còn lớp người trẻ tuổi mỗi khi qua ngã tư đông đúc, sầm uất này, họ chỉ biết đó là ngã tư chợ Mơ mà không biết cái tên ngã tư Trung Hiền.

Nguồn tham.khảo: Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của ông Nguyễn Văn Uẩn và thông tin của nhà báo Anh Thu.

27/04/2025

Bức tượng cổ, tích quý hiếm

(Bài có sử dụng tư liệu của Cục Di sản Văn hóa).

 


Tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là hiện vật gốc, độc bản, mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo Việt Nam.

Được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là một trong những tác phẩm điêu khắc cổ đồ sộ và tinh xảo bậc nhất Việt Nam.

Vốn là tượng thờ của chùa Hội Hạ (TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), tượng có niên đại từ thế kỷ 16, được tạc bằng gỗ với trọng lượng khoảng khoảng 3 tấn, kết cấu chia làm 3 phần: phần tượng, phần đài sen và phần bệ lục giác.

Phần tượng tạc Đức Quán Thế Âm trong thế ngồi thiền với nét đặc sắc là có đến 42 đôi tay.

Một đôi tay chính chắp trước ngực thế Liên hoa hợp chưởng ấn.

Một đôi đặt trong lòng kết ấn Thiền định.

Các đôi tay khác tỏa đều sang hai bên với các thế ấn khác nhau và cầm các bảo pháp của Phật giáo.

Đây là pho tượng cầm nhiều bảo pháp nhất so với hầu hết các pho tượng Quan Âm cùng thể loại.

Khuôn mặt từ bi, mang đậm nét chân dung người Việt.

Mũ tượng được chạm khắc tinh xảo với nhiều lớp.

Đài sen của tượng có ba lớp cánh sen múp tròn.

Họa tiết trang trí cánh sen rất đặc trưng cho nghệ thuật thế kỷ 16, đó là những đường chỉ xoắn dạng tay mướp ở đầu cánh sen.

Hai bên đài sen có cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ tọa trên hai đài sen nhỏ mọc lên từ bệ lục giác, được tạo hình rất tinh tế, là chi tiết rất riêng biệt của tượng so với các tác phẩm cùng thể loại.

Bệ lục giác của tượng được chạm khắc với những biểu tượng về vũ trụ quan: Mặt của bệ tượng trưng cho mặt biển, chính giữa bệ đầu quỉ nhô lên dang hai tay đỡ đài sen.

Chùm ảnh: Bức tượng ‘quỷ đội Phật’ 500 tuổi độc nhất vô nhị Việt Nam

Hình tượng này gắn liền với truyền thuyết Quan Âm Nam Hải giáo hóa quỷ Ô Ba Na Đà sống dưới biển.

Thân bệ được tạo hình thắt ở phần giữa với 6 con chim thần Garuda ngự ở 6 góc bệ.

Hình tượng chim Garuda này mang dấu ấn của nghệ thuật Phật giáo giai đoạn sớm có tính kế thừa lối chạm khắc bệ tượng hoa sen thời Trần.

Ngoài ra trên các cạnh lục giác còn chạm rất nhiều các biểu tượng đặc sắc khác như: hình lá đề chạm rồng, rồng mây, rồng chạm dạng kỷ hà, cá hóa rồng, hoa sen, hoa cúc…

Một mảng chạm khắc trên bệ tượng.

Các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là hiện vật nguyên gốc, độc bản mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo Việt Nam.

Tượng đã được công nhận là Bảo vật quốc gia của Việt Nam. 

 

 

03/02/2025

Tết ở Thăng Long qua các cuốn sách xưa

 Dựa trên nhiều nguồn tài liệu.

ảnh st từ trang Tường Nhung, ái nữ nhà văn Thạch Lam

 

Các phố “hàng” quanh 36 phố phường Thăng long xưa phần lớn là nơi người từ bốn trấn về mở cửa hiệu, buôn bán. Từ trước thời hậu Lê,  những gia đình quan lại, quý tộc đã xây phủ, dựng nhà ở những vùng quanh kinh thành, như phường Bích Câu, Liễu Giai, hay Giảng Võ...

Nguyễn Trãi đã nói đến một khu vực chợ lớn ở Thăng Long trong cuốn Dư địa chí, vì thế tên Kẻ Chợ đã xuất hiện từ trước thế kỷ XV. Nhà văn Tô Hoài từng viết, Hà Nội xưa vốn là nơi hội tụ của người tứ xứ, họ đem những sản vật đặc sắc của địa phương đến bán cho triều đình và cư dân kinh thành, đem những nghề thủ công về kinh thành để sản xuất, buôn bán.

 Ngày Tết, nhà vua thường ban thưởng tiền, lụa, và những sản vật quý giá cho quần thần. Các quan lại, nhà buôn cũng chuẩn bị tiền, quà để mừng tuổi, làm quà Tết cho gia nhân. Vì thế, ngày Tết, đất Kẻ Chợ càng thêm nhộn nhịp, rộn ràng.

Thời Lê Trung hưng, quyền hành thuộc về phủ chúa Trịnh. Ngày Tết Nguyên đán, trăm quan phải theo chúa vào cung chúc thọ, rồi tham dự các lễ ở phủ chúa. Họ phải thường xuyên có mặt ở kinh thành suốt những ngày Tết, chỉ vợ con mới có thể lo toan việc nhà hoặc về quê thực hiện nghĩa vụ với tổ tiên, cha mẹ, họ hàng.

Phần lớn dân chúng lên kinh đô lập nghiệp đều có nhà ở quê. Ở các phố “hàng”, nhà cửa chủ yếu dành cho việc buôn bán. Ngày Tết, từ chủ nhà đến người làm, ai nấy đều trở về quê sum họp cùng gia đình.

Việc chuẩn bị đón Tết của người Thăng Long xưa hiện chỉ còn thấy trong một số sách viết về thời thuộc Pháp. Trước đó, ghi chép không nhiều. Chúng ta chỉ thấy lác đác vài đoạn, như danh sĩ Phạm Đình Hổ tả về cảnh uống rượu Tết của người Thăng Long trong “Vũ trung tùy bút”: “Trong ba ngày Tết, dù là bữa tất niên hay sáng mùng Một, người Thăng Long chỉ dùng chén nhỏ, uống cho hồng hào khuôn mặt và để câu chuyện thêm rôm rả”.

Cũng không có sách nào ghi chính xác các loại rượu mà người Thăng Long xưa thường uống, chỉ biết có rượu cúc, rượu Mai Quế Lộ, rượu nếp cẩm hạ thổ. Ngoài rượu, trà cũng là thứ không thể thiếu. Các gia đình thường mua trữ sẵn trà mạn, trà ướp sen, hay các loại chè Ô Long, Liên Tâm, Thiết Quan Âm do thương gia Hoa kiều nhập về.

Qua những tác phẩm văn học, chúng ta có thể hình dung ra những công việc sửa soạn và mua sắm của cư dân kinh thành Thăng Long trước mỗi dịp Tết. Đầu tiên, mỗi gia đình sẽ dọn dẹp bàn thờ để bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên. Thăng Long là kinh đô, là nơi thể hiện bộ mặt của các gia đình, dòng họ, nên ở các phố cổ, nhà nào cũng dành gian trang trọng nhất để làm nơi thờ phụng tổ tiên. Các gia đình trang trí ban thờ cũng rất công phu, từ hoành phi, câu đối, rồi tam sự, ngũ sự bằng đồng, cho đến ngai thờ, bài vị, bình hoa, hương nến…

Việc sửa soạn đón Tết ở một gia đình khá giả tại thành Thăng Long năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), được miêu tả khá kỹ trong cuốn “Chuyện cũ bên dòng sông Tô” của tác giả Nguyễn Công Chí, biệt hiệu Viên Mai: “Sau tết ông Táo, ban thờ đã được bao sái (lau dọn), toàn bộ nhà thờ cũng được quét dọn sạch bong. Đồ sơn được lau chùi, đồ đồng được đánh bóng, nghi môn, quần màn được trưng lên, chiếu hoa, thảm màu được trải xuống, đèn treo, thể kết đã sẵn sàng. Khi công việc dọn dẹp, trang trí xong xuôi, các cánh cửa bức bàn lại đóng kín, chờ đến ngày đón Ông Vải về ăn Tết mới được mở ra”.

Cả trước Tết, người Thăng Long đã tranh thủ vỗ béo lợn, gà và tích lũy các món khô như măng, nấm hương, miến mọc, tôm he, bóng bì… Sát Tết, các làng ngoại thành thì thi nhau tát ao, bắt cá chép, cá trắm to bán cho các gia đình hàng phố làm nồi cá kho. Mâm cỗ cúng tất niên của nhà giàu có 8 đĩa 8 bát, thì người nghèo cũng phải soạn “mâm cơm cúng cụ” với món này món khác, ít nhất cũng gà luộc, đĩa xôi, đĩa nem rán, khoanh giò, bát canh măng, canh bóng. Thời xưa không có tủ lạnh, nên món gì cũng phải trữ trước.

Khắp kinh thành, nhà nào cũng đua nhau làm mứt, từ mứt khế, mứt quất, mứt mơ, mứt bí, mứt phật thủ… rồi các loại bánh như bánh phồng vẽ, bánh huê cầu… Theo các tài liệu cũ, trong ba ngày Tết, buổi chiều, người Thăng Long thường cúng mứt, không cúng cơm.

Ngày Tết cho sự sum họp gia đình, nên đầu năm mới ít ai đi ăn cơm khách, trừ thăm viếng, xông nhà, chúc Tết.

Cuốn sách của tác giả Viên Mai cũng nói đến việc chuẩn bị Tết độc đáo của cư dân Thăng Long qua hình thức “chơi họ”, từ họ tiền, họ thịt, họ giò… Các thành viên nhóm họ mỗi người làm cái một tháng, tiền lãi mỗi tháng không chia mà đem góp cho một gia đình chăn nuôi lợn ở ngoại ô. Cuối năm, người này nộp cho nhóm họ một con lợn béo như giao kèo, với giá chỉ rẻ bằng nửa giá chợ. Con lợn được giao thẳng cho một lò quay ở phố Hàng Buồm. Lò quay không lấy tiền công, chỉ giữ lại tiết và bộ lòng. Các thành viên nhóm họ sẽ được chia đều từ thịt thủ, chân giò đến thịt quay, ba chỉ, xá xíu… để ăn Tết.

Cuốn “Chuyện cũ bên dòng sông Tô” được viết dựa trên những tư liệu lưu trữ, truyền tụng qua nhiều đời, như tập gia phả họ Nguyễn Đình (làng Hạ Thái, trấn Sơn Nam Thượng, nay là xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Nội), cùng những tự truyện, chuyện truyền miệng của các cụ cao niên. Cuốn sách dựng lên bức tranh sống động về nếp sinh hoạt của người dân Thăng Long – Kẻ Chợ kéo dài hai trăm năm, từ thời Lê mạt cho đến khi thực dân Pháp bắt đầu công cuộc bảo hộ.

Cuốn sách kể lại cảnh gia đình ông phủ Trường Khánh (tỉnh Lạng Sơn hiện nay), nhà ở phố Diên Hưng, kinh thành Thăng Long, tức đoạn nằm giữa phố Hàng Đường và Hàng Đào hiện nay, sửa soạn đón Tết: “Có đôi chậu cúc, bày cân đối hai bên cửa bức bàn, một chùm mảnh đồng hình khánh và cá mắc quanh một vòng tròn nằm ngang treo bên đầu hiên nhà thờ, đung đưa trước gió mà phát ra những âm điệu du dương”.

Các ghi chép từ các cuốn sách khác còn cho biết, hoa Tết của người Thăng Long có rất nhiều loài hoa, từ đào hồng, đào phai, quất đỏ, cúc vàng, mai trắng, mai vàng, hải đường, mẫu đơn… Hoa đào Nhật Tân đã trở thành loài hoa tiêu biểu cho ngày Tết ở đất Thăng Long, đi vào truyền thuyết Hoàng đế Quang Trung sai lính chạy ngựa trạm đem về kinh thành Phú Xuân tặng Hoàng hậu Ngọc Hân, sau khi ngài dẹp tan quân Thanh xâm lược.

Xa xỉ nhất trong thú chơi hoa của người Thăng Long là chơi thủy tiên. Củ thủy tiên được nhập khẩu về, dân Thăng Long đua nhau chọn cho được củ hoa đơn. Củ đem về ngâm úp vào chậu rồi sau đặt vào bát hay cốc pha lê. Lá mọc lên là phải gọt nhẹ một phía, cho chiếc uốn vào trong, chiếc cong ra ngoài. Giò hoa cũng phải gọt thật nhẹ, không để cao lênh khênh. Ai cũng trổ tài gọt tỉa, hãm làm sao cho hoa nở đều, không đâm dúi vào nhau và nở đúng vào sớm mùng Một Tết, mà phải nở hàm tiếu mới là hoa đẹp.

Nếp sinh hoạt ngày sắp Tết của khu vực buôn bán sầm uất 36 phố phường Thăng Long được tác giả Viên Mai mô tả: “Nhiều nhà đến sáng Ba mươi mới quét vôi, cọ cửa, dọn sạch đồ rơm rác, bày biện nơi bán hàng thành phòng tiếp khách, công việc bù đầu, lau chùi vất vả, nhưng ai nấy đều vui vẻ, họ tin rằng sửa soạn được cái Tết chu đáo, sang năm mới sẽ tăng phúc tăng thọ, tài lộc bằng năm, bằng mười năm ngoái”.

Xong các công việc dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, già trẻ, lớn bé mới hò nhau nấu nước tắm tất niên. Ai cũng nghĩ, tắm tất niên để gột bỏ hết những rủi ro của năm cũ. Có người kiêng tắm suốt những ngày đông tháng giá, song đến Ba mươi Tết, rét chết cò, vẫn nghiến răng, liều mình tắm gội.

Giây phút giao thừa, cư dân Thăng Long đốt pháo để chào đón năm mới, sau đó, chủ nhà mừng tuổi cho con cháu, gia nhân trong nhà.

Đặc biệt, sau giờ phút giao thừa, thường có đoàn xúc xắc xúc xẻ đến gõ cửa từng nhà chúc mừng, cũng là đòi mừng tuổi. Các gia đình thường chuẩn bị sẵn tiền để tặng lũ trẻ xúc xắc xúc xẻ, để tránh phiền nhiễu giây phút đầu năm mới.

Sau thời khắc đó, kinh thành Thăng Long chìm vào màn đêm thanh vắng, tất cả như cùng lắng nghe sự chuyển mình của đất trời…

 Ảnh tham khảo:

https://tuanhuusac.blogspot.com/2022/01/