Hiển thị các bài đăng có nhãn Thú chơi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thú chơi. Hiển thị tất cả bài đăng

07/10/2025

Phở Bò, món quà căn bản (trong Miếng ngon Hà Nội của Vũ Bằng) - Phần 3

 (<Phần 2)

 


Thì ra phở không những là một món ăn, một sự thích thú cho khứu giác, mà còn là cả một vấn đề; vấn đề ăn phở, vấn đề làm phở.

Muốn thấu triệt hai phương diện của vấn đề, chúng ta cần phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa trường Hàng Than để quan sát một hàng phở nổi danh nhất bấy giờ: phở Tráng – mà có người yêu mến quá mực đã gọi (chẳng biết đùa hay thực?) là “Vua phở 1952”.

Tráng là tên ông “Vua phở” này. Nhưng người ta không gọi anh bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi những hàng phở ngon bằng tên của người bán, mà gọi bằng tên phố người hàng phở đứng bán (như phở Tráng thì gọi là phở Hàng Than, phở Sứt thì gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sước hiệu (như phở Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe đầu Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân) và có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tàu Bay, Tàu Bò…)

Vậy thì ông vua ấy tên là Tráng, nhưng người ta vẫn gọi là phở Hàng Than.

Hình thù, vóc vác của anh ta trông thật nản. Người gầy, môi hơi thưỡi, mắt thì lờ đờ như người chết rồi. Bất cứ lúc nào, nhìn thấy anh, ông cũng cảm giác đó là một người vừa mới thăng đồng, đương sống trong một thế giới u minh; thêm vào đó, lại bịt ở trên đầu một cái mùi soa trắng, trông mới lại càng… “thiểu số”.

Người đâu mà lại “lì xì” đến thế là cùng! Hàng năm bẩy chục người, hàng tám chín chục người đứng vòng lấy gánh hàng của anh ta, chật cả một cái hè đường để mua ăn, để “đòi” ăn – phải, họ đòi ăn thật – mà anh ta cứ làm như thể không trông thấy gì, không nghe thấy gì.

Anh ta cứ thản nhiên thái thịt, dốc nước mắm, rưới nước dùng – ai đợi lâu, mặc; ai phát bẳn lên, mặc; mà ai chửi, anh ta cũng mặc.

Đi ô tô đến ăn cũng thế; mặc áo vải đến ăn cũng thế, các bà các cô đẹp đáo để đến ăn cũng thế. Anh ta không đặc biệt riêng với ai – kể cũng dân chủ đấy! – nhưng có nhiều bà tức vì anh ta không nịnh đầm.

Ghét quá. Thế thì thuê một cái nhà rộng, mượn thêm người làm có phải lợi không? Hay là điều đình với xưởng củi người ta để cho một gian, bầy mấy cái bàn, cái ghế, có người trông nom, tính tiền cẩn thận có phải không mất mát không?

Mặc cho ông cứ nói, anh phở Tráng không trả lời – nhất là không bao giờ cười.

Trông mà lộn ruột, muốn tát cho một cái. Chết một nỗi ghét người thì thế, nhưng đến cái phở của anh ta muốn ghét, không tài nào ghét được.

Có ai chen chúc vất vả, hò hét đứt hơi được một bát phở của anh, mà lại chưa ăn ngay, còn dừng lại một phút để ngắm nghía, phân tách bát phở đó ra thế nào không?

Thật là kỳ lạ! Bánh phở không trắng và dẻo hơn, thịt thì cũng chẳng nhiều, nhưng mà làm sao ngon lạ ngon lùng đến thế? Chưa ăn đã biết là ngon rồi.

Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú. Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu… ba bốn thứ màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể của một họa sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.

Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái thịt bò từng miếng bày lên.

Đến đây thì Tráng vẫn không nói năng gì, nhưng tỏ ra biết chiều ý khách hàng một cách đáng yêu.

Ông muốn xơi chỗ thịt nào cũng có: vè, sụn, nạm, mỡ gầu, mỡ tật, vừa mỡ vừa nạc, vừa nạm vừa sụn, thứ gì anh ta cũng chọn cho kỳ được vừa ý ông – miễn là ông đến xơi phở đừng muộn quá.

Ăn phở chín thì như thế là xong, chỉ còn phải lấy nước dùng và rắc một chút hạt tiêu, hay vắt mấy giọt chanh (nếu không là tí giấm).

Nếu ông lại thích vừa tái vừa chín thì trước khi rưới nước dùng, anh Tráng vốc một ít thịt tái đã thái sẵn để ở trong một cái bát ô tô, bầy lên trên cùng rồi mới rưới nước dùng sau.

Thế là “bài thơ phở” viết xong rồi đấy, mời ông cầm đũa. Húp một tí nước thôi, đừng nhiều nhé! ông đã thấy tỉnh người rồi phải không?

Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm… rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực, thiên nhiên, không có chất gì là hóa học… không, ông phải thú nhận với tôi đi: “Có phải ăn một bát phở như thế thì khoan khoái quá, phải không?”.

Quả vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể “lâm li” hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở như thế, thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong tay một người vợ đẹp mà lại đa tình vậy!

Ý hẳn cũng có người cảm giác như tôi, cho nên biết bao nhiêu bận đứng chờ làm phở, tôi đã thấy những người đàn bà, đàn ông, người già, trẻ con, bưng lấy bát phở mà đôi mắt sáng ngời lên. Người ta chờ lâu thì bực thật đấy, nhưng cũng vẫn cứ chờ cho được, tuồng như đã đến mà không được ăn thì chính mình lại phải tội với mình, vì đã đánh lừa thần khẩu – hay nói một cách khác, đến đấy mà không cố ăn cho kỳ được thì rồi sẽ hối hận như một người tình đã để lỡ cơ hội chiếm người yêu…

Nhưng mà dù thiết tha đến bực nào, ông cũng rất có thể một hôm nào đó bị ra về mà không được ăn – dù một bát thôi. Ấy là vì chỉ độ chín giờ, chín rưỡi thì thường là phở Hàng Than đã hết.

Cho nên những người thật nghiện phở thường vẫn rủ nhau đi ăn thật sớm. Theo lời họ nói lại, muốn thưởng thức hoàn toàn hương vị phở Hàng Than, cần phải dậy đi ăn từ sáu giờ, vào lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó, trời mờ mờ chưa rõ mặt người, phố xá họa hoằn mới có dăm ba người qua lại. Anh đi ăn sẽ thấy một cái thú khác lạ nữa là ăn ngon trong tịch mịch, ăn ngon trong không khí trong lành.

Khách chưa có ai, anh muốn ăn kiểu gì, muốn xơi chỗ thịt nào, muốn dùng nước thịt bò tươi rưới lên bánh, muốn có mỡ tật, mỡ gầu, muốn nước trong hay béo, tha hồ mà hạch! Anh được như ý và anh sẽ vừa ăn vừa nhìn mấy thanh củi tạ ở trong lò kêu lách tách và bắn ra ngoài trời sắc sữa những hoa lửa vi ti mầu đỏ tươi.

***

Dù sao, ta cũng phải nhận rằng đến vấn đề ăn phở thì người Việt Nam quả là khó tính lạ lùng.

Một người bạn đã từng nếm đủ hương vị của tất cả những hàng phở danh tiếng ở Hà thành khoảng ba mươi năm trở lại đây, một hôm, cho tôi biết rằng: “Đến cái năm 1952 này, phở hình như đã tiến tới chỗ tuyệt đỉnh của nó rồi, cũng như một bản nhạc tuyệt kỹ… không chê vào đâu được, nghĩa là không thể thêm một món gì hay giảm một món gì”.

Theo anh ta thì phở mà cho ma-gi vào thì rất hỏng mà quấy “lạp chiếu chương” vào cũng lại dở vô cùng. Phải là hoàn toàn gia vị Việt Nam mới được: hồ tiêu bắc, chanh, ớt, hành hoa, rau thơm hay là một tí mùi, thế thôi, ngoại giả cấm hết, không có thì là tục đấy!

Có người kể chuyện rằng trước đây mười lăm, hai mươi năm, đã có một hàng phở ở phố Mới tìm lối cải cách phở, cũng như Năm Châu, Phùng Há dạo nào cải cách cải lương Nam Kỳ, tung ra sân khấu những bản “De đơ dà múa”. Họ cho mà-dầu và đậu phụ vào phở, nhưng cố nhiên là thất bại.

Sau, còn có người làm phở cho cà rốt thái nhỏ, hay làm phở ăn đệm với đu đủ ngâm giấm hoặc là cần tây, nhưng thảy thảy đều hỏng bét vì cái bản nhạc soạn bừa bãi như thế, nó không… êm giọng chút nào.

Một chú khách ở chợ Hôm, chuyên về lối “phở nhừ”, bánh thì thái to, thịt thì thái con cờ hầm chín, nước cho húng lìu, một dạo cũng đã làm cho người ta nói tới; song những người sành phở chỉ dùng một vài lần thôi, vì không những đã không có vị phở, thịt ăn lại bã, mà nước thì đục mà ngấy quá.

Một hàng phở ngon là một hàng phở ăn một bát, lại muốn ăn hai và nếu còn sức ăn nữa thì phải ăn ba, không thấy chán.

Gặp phải ngày ta se mình, ngửi mùi thịt thấy sợ, hàng phở ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với một bát phở chay, chỉ có bánh và nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế mới là ngon đấy.

Một bát phở vừa tái vừa chín ngon, chưa đủ để định giá trị của hàng phở được; muốn biết chân giá trị của nó, theo lời người biết ăn phở, phải là thứ phở chín không thôi, phở chín mà ngon thì mới thật là ngon đấy.

Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở là cái bánh, nhưng thứ nhứt, như trên kia đã nói, phải cần có nước dùng thật ngọt. Bí quyết là ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều giữ cái bí quyết ấy rất kín đáo, y như người Tàu giữ của, vì thế cho nên trong làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là một vấn đề then chốt để cho người ta tranh luận.

Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng muốn có một nồi nước dùng ngon, cần phải pha mì chính. Nhưng chưa chắc thế đã hoàn toàn là phải.

Thuyết cho đường nhất định là bị loại rồi. Có người cho rằng phải có nhiều đầu cá mực bỏ vào; có người chủ trương cần phải có thứ nước mắm tốt; lại có người quả quyết với tôi rằng muốn có nước dùng ngọt, không thể thoát được món cua đồng – cua đồng giã nhỏ ra, lọc lấy nước, cho vào hầm với nhiều xương ống, nhưng phải chú ý tẩy cho thật khéo, mà cũng đừng ninh kỹ quá sợ nồng.

Đến bây giờ, ai đã thật biết cái bí mật ấy chưa? Riêng tôi, tôi cũng đã tìm tòi suy nghĩ rất cẩn thận mỗi khi trịnh trọng nâng một bát phở lên ăn, nhưng thú thực, tôi vẫn chưa biết rằng trong tất cả những “giả thuyết” về “phương pháp làm nước dùng phở” người ta kể ra đó, giả thuyết nào là đúng.

Kết cục, tôi đã gạt bỏ tất cả những sự băn khoăn đó sang một bên và không buồn nghĩ nữa, vì tôi thấy rằng ăn một miếng phở, húp một tí nước dùng ngon, thỉnh thoảng điểm một lá thơm hăng ngát mà không biết tại sao phở lại ngon như thế thì có phần hứng thú hơn là mình biết rõ ràng quá cái bí quyết ngon của phở.

 

06/10/2025

Phở Bò, món quà căn bản (trong Miếng ngon Hà Nội của Vũ Bằng) - Phần 1

 



Sao lại là quà căn bản?

Vâng, chính thế; người ta có thể nói rằng người Việt Nam có thể không ăn bánh bao, bánh bẻ, có thể không ăn mằn thắn hay mì, có thể không ăn xôi lúa, nhưng chắc chắn là ai cũng đã từng ăn phở.

Rẻ lắm. Theo giá trị của đồng bạc bây giờ, năm đồng một bát phở, mà ba đồng cũng được một bát phở ngon như thường.

Vì thế, từ cô bán hàng trong một cửa hiệu buôn cho đến một ông công chức, từ một bà mệnh phụ nhà có cửa võng sơn son thiếp vàng, đến một người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai cũng ăn bát phở. Ngon miệng thì ăn hai, riêng tôi thì tôi đã từng thấy có người điểm tâm buổi sáng tới ba bát liền, mỗi bát tám đồng, vị chi hai mươi bốn, hai mươi nhăm đồng bạc.

Thật thế, phở đối với một hạng người, không còn là một món ăn nữa, nhưng là một thứ nghiện, như nghiện thuốc lào, thuốc lá, trà tươi, thuốc phiện.

Ngay từ ở đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên đỉnh núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa ngoài. Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở: thật là cả một bài trí nên thơ.

Qua lần cửa kính, ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có… Người bán hàng đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh Tàu về những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.

Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa rét, có gió bấc thổi hiu hiu, mà thấy người ta ăn phở như thế, thì chính mình đứng ở ngoài cũng thấy ấm áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho được…

Ấy vậy mà người sành ăn phở, người ăn phở kỹ càng không thể dễ tính, nhất tề bước vào một cửa hiệu phở thứ nhất nào để mà ăn liều ăn lĩnh.

Bởi vì những người sành ăn đó, thường không tin gì cho lắm ở những hàng phở mở cửa hàng. Người ta bảo rằng phần nhiều những hàng phở mở hiệu như thế, nước dùng không được ngọt, hoặc có ngọt là cái ngọt của mì chính, chứ không phải là cái ngọt của xương bò; ấy là chưa nói rằng lại còn cửa hiệu phở quá vụng về muốn có nước dùng ngọt lại cho đường vào nữa. Ăn phải một bát phở như thế, không những tiếc tiền, mà lại còn thấy phí phạm cả cái công ăn, đến sinh ra lợm giọng, bực mình là khác.

Vì thế, người ăn phở muốn cho thật đúng cung cách, phải thăm dò, phải điều tra, phải thí nghiệm kỹ càng rồi mới ăn mà một khi đã chịu giọng rồi, ta có thể tin chắc rằng người đó sẽ là một người khách trung thành, cũng như một người đàn ông nghệ sĩ trung thành với hơi hướng của một người yêu, cũng như một người chồng mê vợ vì người vợ đã có tài làm một hai món khéo, ăn vào hợp giọng.

10/07/2025

9 loại kiếm Nhật phổ biến

 Tài liệu và ảnh minh họa st từ nhiều nguồn trên net

 


Kiếm Nhật là những vật bảo đi cùng các Samurai chiến đấu trong thời kỳ chiến loạn tại Nhật, dần góp mặt tạo nên nét văn hóa thể hiện sự nhạy bén, quật cường, ngay thẳng của người dân Nhật Bản. Chính vì thế các loại kiếm Nhật hiện nay được nhiều người yêu thích, tìm kiếm và sưu tập như một cách thể hiện tinh thần võ sĩ, chính trực của mình.

Cấu tạo kiếm Nhật

Mỗi loại kiếm Nhật sẽ có những nét đặc biệt khác nhau nhưng nhìn chung đều được cấu tạo bởi các thành phần sau:

-        Saya: Bao kiếm

-        Tsuka: Chuôi kiếm. Thường được quấn vải hoặc chạm khắc cầu kỳ thể hiện cá tính của người sử dụng hoặc tinh thần của võ môn

-        Tsuba: Kiếm cách là bộ phận ngăn cách phần lưỡi sắc nhọn và chuôi kiếm, tránh làm người sử dụng bị thương.

-        Ha: Lưỡi kiếm, phần sắc nhọn

-        Mune: Lưỡi cùn của kiếm

-        Menuki: Phần họa tiết hoặc trang trí đính kèm trên chuôi kiếm

-        Habaki: Phần thép ngăn cách chuôi kiếm và thân kiếm

-        Monouchi: Phần mũi nhọn của kiếm

-        Hamon: Vân kiếm được điêu khắc hoặc in trên phần lưỡi kiếm

 

Các loại kiếm Nhật

Hiện nay tại Nhật Bản có 9 loại kiếm phổ biến nhất được sử dụng từ thời cổ đại hoặc được thờ cúng tại các chùa, đền. Dưới đây là thông tin chi tiết về các loại kiếm Nhật này, cùng tìm hiểu nhé.

Oodachi ( 大太刀 ) – Đại thái đao

 

Kiếm Odachi

Đại thái đao có chiều dài từ 165 đến 178 cm thường được sử dụng trong các buổi lễ thờ thần, hiến tế và ít khi dùng để chiến đấu. Đây là thanh kiếm rất dài và quá trình làm ra khá gian nan với nhiều chi tiết nhỏ vì thế số lượng thanh Oodachi hiện có không nhiều, chúng chỉ xuất hiện chủ yếu ở đền chùa hoặc ở các gia đình giàu có, thể hiện sự uy nghiêm và tiềm lực tài chính lớn của gia chủ.

Nagamaki ( 長巻 ) – Kiếm chuôi dài

 

Kiếm chuôi dài Nagamaki

Nagamaki là một trong các loại kiếm Nhật có phần chuôi rất dài, để sử dụng nhuần nhuyễn thì bàn tay phải đặt sát phần kiếm cách. Ngoài ra, chúng được sử dụng chủ yếu để đánh với kỵ binh vì chiều dài lớn giúp tiếp cận đối thủ ngồi trên ngựa dễ dàng, hạ gục họ chỉ qua ít đường cơ bản.

Hiện nay các loại kiếm này thường được trưng bày trong bảo tàng hoặc sử dụng trong thờ cúng, tưởng nhớ những chiến minh đã khuất.

Naginata ( 薙刀 ) – Thái Đao

 

Naginata bằng gỗ được sử dụng ở phòng tập

Không thuôn dài như Nagamaki, Thái đao có phần lưỡi to bản, được các Samurai sử dụng vào cuối thế kỷ thứ 10, phù hợp với kỵ binh vì khi đeo phải quay phần lưỡi xuống dưới. Ngoài ra chiều dài kiếm rơi vào khoảng 70 đến 80cm nên cũng phù hợp để chiến đấu với những đội quân đi ngựa, dễ dàng sử dụng và đeo trên người.

Katana ()

 

Kiếm Katana

Xuất hiện tại Nhật từ cuối thế kỷ 14, Katana dài khoảng 60 đến 73 cm và phù hợp với cách đeo để kiếm hướng lên trên, dễ dàng chiến đấu ở cự ly gần, thuận tiện khi di chuyển giữa các đối thủ. Katana là một trong các loại kiếm Nhật dần trở nên phổ biến và thân thuộc với cá Samurai vì nhỏ gọn và có nét đẹp riêng, thể hiện đẳng cấp, cá tính của mỗi Samurai.

Tanto ( 短刀) – Kiếm Đoản Đao

 

Đoản đao Tanto

Đây là một trong các loại kiếm Nhật khá nhỏ với chiều dài chỉ 15 đến 30 cm, thường được mang theo người phòng thân nhờ sự nhanh gọn và sắc. Thậm chí chỉ cần lực nhỏ là đã có thể rạch nát tấm áo giáp ở cự ly gần, dễ dàng mang theo người hoặc giấu ở chỗ kín.

Nhiều Samurai sử dụng đoản đao như một vật phòng thân khi ngủ, đặt dưới gối để dễ dàng phản ứng nhanh nhạy khi có biến cố xảy đến.

Gunto (軍刀)

 

Kiếm gunto

Với cấu tạo khá giống Katana, Gunto được làm từ thép thường dùng trong quân đội để phòng thân và phân cấp bậc. Cụ thể hơn, trên chuôi kiếm thường cuốn một vòng dây mang các màu sắc khác nhau thể hiện cho từng cấp bậc riêng biệt. Vì thế chỉ cần nhìn thấy Gunto là có thể xác định người này thuộc cấp trên hay dưới.

 Đây cũng được coi là phần thưởng ý nghĩa với những người vừa được thăng chức hoặc đỗ đạt vào một vị trí cao trong quân đội.

No – Dachi (野太刀)

 

Kiếm Nhật Notachi

Nodachi là một trong các loại kiếm Nhật có chiều dài khủng lên tới 130cm. Chúng thường được sử dụng làm vật thờ cúng tại các đền, chùa và được yêu thích bởi những gia đình giàu có. Người ta thường tìm mua loại kiếm này để tăng sự tôn nghiêm cho gia tộc, đồng thời thể hiện như sự coi giữ, trông nom cho tiên, thể hiện sự kính cẩn đến những người đã khuất.

Tachi (太刀)

 

Kiếm Tachi

Tachi được coi là khá giống với Katana những có biến thể đôi chút với chiều dài lớn hơn, nặng hơn và khi đeo sẽ để thanh hướng xuống, thuận tiện cho sử dụng và cất giữ. Ngoài ra, nhờ đặc điểm này mà kiếm Tachi thường được những Samurai chuyên nghiệp chọn lựa làm vật bất ly thân, họ có thể sử dụng hoặc tinh chỉnh sao cho phù hợp với sở thích của mình.

Wakizashi (脇差)

 

Kiếm Wakizashi

Đây là một trong các loại Kiếm Nhật được nhiều Samurai mang theo bên mình để kết hợp với Katana trong chiến đấu. Với chiều dài chỉ ...7cm nhưng Wakizashi cực sắc bén và nhanh nhạy, đảm bảo trọng trách chiến đấu ở cự ly gần.

Những thanh kiếm Nhật nổi tiếng

Doujigiri Yasutsuna (童子切 安綱)

 

Kiếm Doujigiri Yasutsuna

Đây là thanh kiếm được sử dụng trong cuộc chinh phục Shutendouji của Minamoto Yorimitsu. Với hoàn cảnh Tanba bị quái vật quấy rối, Yorimitsu đã đến vùng núi Oeyama để tiêu diệt chúng, trả lại sự bình yên cho dân lành. Chính thanh kiếm này đã chém lìa cổ quái vật và được phong làm quốc bảo, đặt tên là Doujigiri Yasutsuna và đang được trưng bày tại bảo tàng quốc gia Tokyo.

Mikazuki Munechika

 

Kiếm Mikazuki Munechika

Mikazuki được coi là Thiên hạ Ngũ kiếm trong suốt thời kỳ Muromachi bởi chất liệu tuyệt hảo, thiết kế tinh tế và rèn đúc bởi những người thợ lành nghề. Thanh kiếm có khả năng chém với lực lớn ở khoảng cách xa, mặc dù chưa sử dụng vào thực chiến bao giờ nhưng vẫn luôn được so sánh với nhiều thanh kiếm chiến hạng nặng khác. Hiện nay thanh Mikazuki Munechika cũng đang được trưng bày ở bảo tàng quốc gia Tokyo.

Kiku-ichimonji (菊一文字)

 

Thanh kiếm Kiku-ichimonji

Đây là một trong các loại kiếm Nhật được rèn bởi Norimune, một truyền nhân nổi tiếng thời xa xưa tại Nhật. Chiều dài của thanh kiếm này vào khoảng 50cm và có độ sắc bén tuyệt đỉnh, thậm chí có thể cắt đôi sợi tóc bay trong không khí. Ngoài ra, điểm nhận dạng nổi bật của thanh kiếm này có bông cúc 16 cánh được khắc trên phần chuôi, thanh kiếm đã từng xuất hiện trong nhiều bộ Manga và Anime nổi tiếng, nó đã có tuổi thọ lên tới 700 năm.

Tà Kiếm Muramasa (村正)

 

Kiếm Muramasa

Muramasa có tên như vậy bởi được làm bởi nghệ nhân Muramasa Sengo. Đây là thanh kiếm vô cùng sắc bén, có thể cắt đôi tảng đá lớn một cách dễ dàng. Tương truyền rằng chủ nhân của chiếc kiếm đã ôm mối hận trong lòng mà rèn thành nên tà khí dường như luôn ám quanh nó, tạo nên khả năng sắc bén khôn lường.

Thánh kiếm Masamune

 

Kiếm masamune

Masamune Goro là một trong những nghệ nhân rèn kiếm nổi tiếng nhất Nhật Bản từ thời xa xưa. Những thanh kiếm mà ông cho ra đều mang những sắc thái riêng biệt, vô cùng sắc bén. Masamune được coi là thánh kiếm mà ông rèn được tuy có khả năng cắt đứt mọi thứ nhưng tuyệt nhiên không làm hại các sinh vật sống, không giết sinh vật vô tội.

Đa số tên gọi các loại kiếm Nhật đều được đặt theo tên của người rèn ra nó hoặc điểm nó xuất hiện, được tìm thấy. Chính vì thế mỗi cái tên đều có một ý nghĩa truyền lại cho đời sau.

Trên đây là toàn bộ thông tin chi tiết về 9 loại kiếm Nhật Bản phổ biến nhất hiện nay, được người dân tại đây lưu giữ cũng như đặt làm vật thờ cúng trong các chùa đền. Nếu bạn tò mò về những thanh bảo kiếm này thì có thể đến bảo tàng quốc gia Nhật Bản để tận mắt nhìn kỹ từng chi tiết thú vị của chúng nhé.