Phần cuối
Chuyện
về John Smith đã làm gián đoạn phần cuối của câu chuyện đang kể. Vì vậy tôi phải
trở lại với những ngày ấy ở Đồng Hới...
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi có một
cuộc liên hoan nhỏ để chia tay với hai đồng chí phi công, các thợ máy và các
chiến sĩ trinh sát đặc công. Đó là những người lính mà tôi hết lòng khâm phục.
Các anh ấy đều rất hiền, sống chân tình giản dị, và rất điêu luyện trong công
việc của mình. Gần hai tháng trời gắn bó với nhau trong một công tác đặc biệt
như vậy, chúng tôi đã thân thiết như anh em một nhà.
Thế mà đến lúc tạm biệt, hai đồng chí phi công
nhất định không bắt tay Thủy. Các anh bảo: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong
những chuyến bay tiếp theo, cô bé đồng nghiệp! Vậy thì không việc gì phải vội từ
biệt..." Các anh ấy nói đúng! Lúc đầu anh Hai Nguyên định đưa Thủy về công
tác tại tỉnh nhà, nhưng bộ đội không quân đã xin cô ra ngoài đó, và tôi hiểu vì
sao điều ấy lại khiến "cô bé" mừng rỡ đến như vậy.
Trước mắt, Thủy còn chờ anh Hai Nguyên làm
xong công việc ở đây để cùng anh ra Hà Nội thăm gia đình chú. Sau đó cô sẽ tiếp
xúc với công tác mới. Còn tôi và đồng chí thiếu tá đang đợi các anh ở đơn vị
anh Đằng và anh Hùng để đưa nắm đất thấm máu hai anh về quê. Một nhiệm vụ
thiêng liêng, nhưng dù có làm tốt đến đâu cũng không có được niềm vui.
Đã gần tết. Trên những thừa ruộng ven thị xã,
màu xanh của mạ non mới cấy viền kín quanh những hố bom. Chúng tôi có những giờ
phút thong thả để trò chuyện với nhau, nhưng Thủy lại buồn:
- Lúc mới ra lu bu công chuyện nên quên cả buồn.
Giờ rảnh rỗi mới thấy nhớ ba. Em thương ba quá! Vậy là tết này em được ăn tết ở
Hà Nội, còn ba chỉ thui thủi một mình...
Để Thủy khuây khỏa, tôi rủ cô ra biển chơi.
- Ra biển? - Cô tròn xoe đôi mắt nhìn tôi - Biển
đang động mà?
Tôi cười:
- Mình chỉ ngồi trên bờ chứ có xuống biển đâu
mà sợ? Biển động cũng có vẻ đẹp riêng của nó.
Cô khúc khích:
- Nghe anh nói... thiệt hay!
- Đâu có! Tôi vụng về lắm! Có những điều nghĩ
mãi trong đầu mà không nói ra được...
- Chuyện chi vậy anh?
Cô hỏi lại. Tôi bối rối mất một lúc và biết rằng
mình vừa để lỡ cơ hội. Nhưng hình như Thủy không để ý...
Từ nơi chúng tôi ở ra đến biển chừng ba cây số.
Tôi cùng cô đi men bờ sông. Trời không mưa nhưng vừa có đợt gió mùa đông bắc
nên khí trời trở lạnh. Có phải vì thế mà đôi má Thủy ửng hồng? Gió từ biển thổi
vào lồng lộng. Con sông Nhật Lệ thường ngày vốn hiền hòa giờ cũng nổi sóng. Thủy
bước sát bên tôi, mái tóc dài bay bay trong gió và tiếng cô cũng bay theo, hòa
trong tiếng sóng nước ì oạp vỗ bờ:
- Vậy là em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng
xuống biển rồi đó nghẹn!
Tôi nói đùa:
- Lên rừng thì còn được, chứ vào Nam chỉ tới
Tam Kỳ, ra Bắc mới ngang Đồng Hới. Và lát nữa chỉ ngồi trên bờ chứ đâu có lội
xuống biển? Mà đấy là "người ta" đi theo cách mạng...
- Có vậy anh mới hết hỏi "Cô ra đây làm
gì..."
Chúng tôi ngồi trên một cồn cát nhỏ có những bụi
dương liễu mọc lúp xúp. Mấy túm cỏ lông chông và những dây muống biển cố níu rễ
vào cát để khỏi bị gió cuốn đi. Trước mặt là cảnh biển động dữ dội và hùng vĩ.
Mặt nước mênh mông lúc này đang cồn lên sôi sục. Từ ngoài khơi xa tít tắp sóng
bạc đầu lớp lớp nối nhau dồn vô bờ. Lúc tới gần, những con sóng lừng lửng dâng
lên cao rồi đổ xuống ầm ầm như thác, nước ào lên bãi cát hết đợt này đến đợt
khác tung bọt trắng xóa, bụi nước bay tới tận chỗ chúng tôi ngồi.
Chiều hôm đó chúng tôi nói lời yêu nhau trong
tiếng ầm ào của biển. Có lẽ đó là một kinh nghiệm hay cho những chàng trai trẻ
nào vốn vụng về và nhút nhát như tôi. Tỏ tình bên bờ biển trong lúc biển động,
ta chỉ phải nói bằng lời rất ít và không cần văn hoa cho lắm, còn ánh mắt sẽ
nói những gì trong đầu ta nghĩ. Cả các cô gái cũng vậy, khỏi lo bị mê hoặc bởi
những lời đường mật vì biển lúc này không cho phép ai nhiều lời. Mà chỉ những
ai thực sự hiểu nhau và yêu nhau mới nói được với nhau bằng mắt.
Tình yêu khởi đầu từ trên rừng, lời thề nguyền
nói trước biển, chúng tôi đã phải vượt qua một chặng dài không chỉ về không
gian để đến được với nụ hôn đầu đời vụng về và say đắm.
Tôi và Thủy còn ở lại Đồng Hỡi ba ngày nữa. Đối
với hai đứa tôi thì đó là những ngày rất đẹp và ấm áp, dù ngoài trời lâm thâm
mưa phùn và nhiệt độ có lúc xuống dưới mười độ C.
Sau
khi chia tay với Thủy, tôi cùng đồng chí thiếu tá và hai đồng chí cán bộ ở sư
đoàn nơi anh Đằng và anh Hùng công tác về quê các anh.
Chúng tôi tìm tới nhà anh Đằng thì ông cụ thân
sinh ra anh đã mất. Mộ của ông, người thương binh già thời chống Pháp, được đặt
trong nghĩa trang liệt sĩ xã. Hôm ấy các em học sinh nghỉ học một buổi cùng với
bà con trong xã đưa nắm đất thấm máu anh về chôn cạnh mộ người bố. Tôi rùng
mình khi đọc trên tấm bia mộ thấy ngày mất của ông trùng với ngày anh Đằng hy
sinh. Hai cha con, hai người lính của hai cuộc kháng chiến kế tiếp đã hy sinh
xương máu cho độc lập tự do của dân tộc, họ ngã xuống cùng một lúc và giờ đây
trong gia đình ấy không còn ai nữa.
Nghĩa trang nằm cạnh ga xép. Một đoàn tàu đang
kéo còi chầm chậm vào ga, khói đầu máy trĩu nặng dưới làn mưa bụi. Từ chốn rừng
già xa xôi ấy vong linh anh có về được tới đây không, mà tiếng còi tàu lúc này
nghe nao lòng đến vậy...
Ở quê anh Hùng nghĩa trang liệt sĩ nằm giữa
cánh đồng lúa bát ngát, những hàng dương liễu nghiêng bóng trên những ngôi mộ
hát ru suốt ngày đêm. Lễ truy điệu anh được địa phương tổ chức rất chu đáo,
nhưng chúng tôi vẫn ân hận vì vợ con anh ở xa không về kịp. Nỗi ân hận đó cứ
dày vò tôi mãi đến ngày nay. Lúc đó, tôi tự hứa với mình là sẽ lên thăm chị và
cháu để kể cho những người thân thiết nhất của anh nghe trong những ngày cuối đời,
anh đã sống và hy sinh như thế nào... Bao bộn bề công việc cùng những lo toan
trong cuộc sống đời thường là nguyên nhân khiến tôi lần lữa hết lần này đến lần
khác, hết năm này qua năm khác. Tôi tự biện minh cho mình: "Tại đường sá
xa xôi cách trở quá..."
Phải chăng khi năm tháng trôi qua, tình cảm
cũng nhạt dần đi? Quên thì không, nhưng những việc nghĩa tình đáng phải làm dần
dần trở thành thứ nghĩa vụ mà ta thực hiện một cách miễn cưỡng, và đôi lúc cảm
thấy đó là nỗi ám ảnh phiền toái...
Năm
1996, tôi theo đoàn cán bộ lên tham quan công trình thủy điện Hòa Bình. Khi hỏi
thăm cái bản dân tộc Thái hồi trước anh Hùng kể, mới biết giờ đây nó nằm dưới
lòng hồ sông Đà. Tôi bỏ dở chuyến tham quan, tìm tới bản mới nơi chị ở thì chị
đã mất. Ngồi trước nấm mộ còn tươi màu đất, tôi thầm kể cho chị nghe những điều
mà đáng ra chỉ phải được nghe lúc còn sống. Vậy đó! Có những việc khi ta biết
ân hận thì đã muộn. Có phải "nợ nghĩa tình" là như vậy chăng? Trước
đây mỗi lần nghe người khác nói thế, tôi vẫn nghĩ: đã là nghĩa tình thì sao lại
gọi là nợ? Ai vay ai mượn được mà nợ?
Tôi tới cơ quan nơi con trai anh Hùng công tác
tìm cậu ta, nhưng không gặp. Cậu ấy giờ là kỹ sư lâm nghiệp, hiện đang mải mê
trong một cánh rùng nào đó để nghiên cứu đề tài "Bảo vệ và phát triển rừng
đầu nguồn sông Đà". Là một người yêu rừng đến độ mê say, hẳn giờ đây anh
Hùng hết sức vui sướng và toại nguyện khi con trai mình đi theo tiếng gọi của rừng.
Ngày ấy từ quê anh Hùng, chúng tôi lên Hà Nội
làm việc với cơ quan anh Sơn, và cùng với đại diện cơ quan về nhà anh. Tôi trao
lại cho chị những kỷ vật của anh: cuốn Nhật ký, thư từ, ảnh..., những thứ anh để
lại T2 trước chuyến đi. Chị dỗ khéo đứa con gái cho cháu ra ngoài sân chơi nhảy
dây với bạn, để nghe tôi kể về những giờ phút cuối cùng của anh. Cháu mới sáu
tuổi. Không nên để lại trong đầu óc trẻ thơ non nớt những hình ảnh kinh hoàng về
cái chết của người bố. Sau này mỗi khi nhớ lại ngày hôm ấy, trước mắt tôi vẫn
chập chờn hai đuôi khăn tang trắng bay bay như đôi cánh bướm trên đầu bé, tung
tăng theo từng bước nhảy hồn nhiên...
Hai mươi lăm năm sau cô bé ngày đó trở thành
phó tiến sĩ công tác trong một viện của ngành địa chất. Chị Sơn đã nghỉ hưu, vẫn
sống trong ngôi nhà nhỏ dưới chân núi Gôi. Trong một lần tôi ghé thăm, chị nói:
"Con bé cứ giục tôi ra Hà Nội sống với vợ chồng nó, nhưng tôi không muốn
đi. Lúc nào tôi cũng nghĩ là anh ấy sắp trở về đây..." Mái tóc đã điểm bạc,
thời gian và đau khổ đã hằn sâu thành nếp nhăn trên khuôn mặt, nhưng đôi mắt chị
vẫn vời vợi nỗi ngóng chờ như trong tấm ảnh anh Sơn đưa tôi xem ở Bãi Hà ngày
nào.
Sau
chuyến đi đó, tôi vào Quảng Trị. Về lại đơn vị cũ, anh em bạn bè gặp nhau mừng
mừng tủi tủi. Gần ba năm rồi, ai cũng nghĩ là tôi đã chết. Nhưng bên cạnh niềm
vui vẫn là nỗi buồn: Bằng và Dũng hy sinh trong một chuyến đi công tác bị địch
phục kích, cũng trên vùng đồi sim Cam Lộ. "Vậy là Bàng chẳng bao giờ trở về
với cái làng cá ven biển của cậu. Còn Dũng chết mà chưa một lần được nhìn thấy
biển..." Tôi ngậm ngùi nhớ tiếc hai người bạn cùng tổ công tác. Những tưởng
ngày ấy chia tay nhau, xa nhau vài bữa rồi gặp lại, ai ngờ...
Tháng
sáu năm 1972. Khắp cả thị xã Đông Hà vừa mới giải phóng chỉ còn sót lại một cây
phượng vĩ già nở hoa đỏ rực. Mùa hè Quảng Trị nắng đổ lửa. Gió Lào cuốn tung bụi
trên những đường phố lỗ chỗ dấu bom đạn và ngập ngụa rác rưởi chiến tranh, thứ
rác thường thấy sau những trận chiến đấu giành đất ác liệt.
Đơn vị tôi có cuộc họp. Mấy phút giải lao,
cánh lính trẻ kéo nhau ra ngồi dưới gốc phượng vĩ, tán láo đủ chuyện. Chúng tôi
đang vui cùng mảnh đất Quảng Trị vừa giải phóng. Tôi còn có niềm vui riêng vì mới
nhận thư Thủy. Nét bút lần đầu nhìn thấy mà như thân quen tự bao giờ.
"...Em mới được bay tập với trực thăng Mi - 8... Ra ngoài này còn được
cưng hơn ở nhà nữa đó? Mấy chú mấy anh ai cũng hiền cũng tốt... Sắp tới em sẽ
vô công tác trong đó, chắc lại được gặp anh..." Những dòng mực xanh trên
giấy trắng mà như có âm sắc của giọng cô líu ríu niềm vui. Chúng tôi sẽ gặp lại
nhau? Tất nhiên rồi...
Gần hết giờ giải lao. Đồng chí cơ yếu tay cầm
cuốn sổ điện mật hớt hãi chạy ra gọi: "Hải ơi! Hải đâu rồi? Có điện
này..." Một linh cảm nặng nề choáng ngợp trong đầu tôi. Điện mật chỉ dùng
trong công tác, bình thường cấp lính như tôi không khi nào trực tiếp nhận.
Tay run run cầm cuốn sổ điện đồng chí cơ yếu vừa
chìa ra, tôi đọc bức điện trên trang giấy mở sẵn. Chỉ có một dòng:
“Thủy hy sinh ở Quảng Bình trên đường đi công
tác. Hai Nguyên."
"Không! Không đúng! Chắc có sự nhầm lẫn
nào đó. Mình vừa mới nhận thư Thủy cách hai ngày..." Tôi đọc lại bức điện
lần nữa, rồi lần nữa... Khoảng không gian trước mắt tối sầm lại. Xung quanh mọi
người xôn xao. Có ai đó nói: "Thôi cứ để cậu ấy được một mình..." Tôi
chết lặng xuôi người ngồi xuống gốc cây. Gió rung những cánh hoa phượng rụng
tơi tả, đỏ lòm như những giọt máu...
Nếu không kể đợt máy bay B52 oanh kích Hà Nội
và Hải Phòng, thì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của giặc
Mỹ không rầm rộ như lần trước, nhưng ác hiểm hơn.
Vào thời điểm đó, Thủy theo một đoàn cán bộ
không quân đi công tác phía Nam để khảo sát những địa điểm có thể mở sân bay dã
chiến dành cho máy bay vận tải hạng nhẹ và trực thăng. Chiến tranh đang đến hồi
quyết định. Ta dự định mở "đường mòn Hồ Chí Minh trên không” để khi cần
thiết. Có thể chi viện nhanh cho các chiến trường. Đoàn vào tới miền tây Quảng
Bình thì bị máy bay địch chặn đánh. Một quả tên lừa nổ gần hất chiếc Uoát xuống
vực. Thủy và bốn người cùng đi trên xe đều hi sinh...
Sau giải phóng năm 1975, tôi và anh Hai Nguyên
ra Quảng Bình để đưa Thủy về quê. Thi thể cô và những người cùng hy sinh được
chôn trên một quả đồi nằm lọt thỏm giữa vùng núi non lô xô. Những ngọn núi đá
vôi đứng dầm chân giữa cánh đồng hay ven sông, đẹp như vịnh Hạ Long trên.
Năm
ngôi mộ nằm bên nhau theo đội hình hàng ngang của những người lính. Trên mấy tấm
bia mộ làm từ gỗ thùng đạn, những dòng chữ viết bằng sơn đỏ lâu ngày sậm màu
trông như những giọt máu khô.
Kỷ niệm
ùa về nhức nhối. Như nhìn thấy trong mờ mờ sương khói một cô gái xa lạ đứng cặp
tóc bên chiếc trực thăng đỗ giữa tràng cát chói chang nắng... Rồi vóc dáng mềm
mại nghiêng bên bờ suối; mái tóc dày mượt mà xõa che nụ cười láu lỉnh; đôi mắt
đen tròn xoe khi nghe chuyện cổ tích; gương mặt tự tin và ánh mắt quyết đoán
lúc ngồi trên ghế lái; những giọt nước mắt nóng ấm bên vai tôi và nụ hôn ngọt
ngào trong cơn biển động... Văng vẳng từ xa xôi tiếng cô cười khúc khích và giọng
cô hớn hở: "...Em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển..." Giờ
đây tất cả đã trở thành hư vô, chỉ còn lại những hạt mùn đất nâu đen.
Người
con gái suốt đời ham bay và từng mơ một lần được tắm suơl, giờ đây cô đã bay
xa, rất xa...
Các đồng chí ở địa phương muốn đưa hài cất Thủy
vào nghĩa trang liệt sĩ, nhưng ông Thành xin được đem cô về nằm bên má và người
anh trai nơi cái xóm nhỏ ven sông Thu Bồn mà hôm từ trên rừng về, cô đã bay
thêm "chút xíu” cho tôi được nhìn thấy.
Lúc sắp hạ huyệt, ông Thành đưa cho tôi một
chiếc hộp nhỏ kiểu hộp các cô gái đựng kim chỉ, nghẹn ngào nói: “Hôm ra ngoài
đó, em nó gửi vật này nhờ bác giữ gìn. Giờ bác trao lại cho con..."
Tôi mở nắp. Trong hộp có trang sổ tay mà tôi
đưa cho Thủy lúc trước và một mớ tóc dài cháy nắng hoe vàng. Tôi bàng hoàng khi
nhận ra đuôi tóc của mình hồi ở trên rừng. Hôm cắt tóc cho tôi, Thủy đã lén lấy
đem về... Nhưng... nhưng tại sao tôi lại trao cho cô bài thơ "Núi
đôi"? Sao anh Hai Nguyên lại xé đúng trang thơ ấy để làm mật hiệu mà không
phải trang khác? Có phai đó là điềm báo trước sự chia ly đau đớn sau này? “Em
không ngờ thơ viết về chiến tranh mà lãng mạn và xúc động đến vậy...". Ai
ngờ ngày ấy nói thế để rồi em thành người trong thơ...
Tôi hé nắp chiếc tiểu sành đặt vào đó trang
thơ và mớ tóc để một phần tâm hồn và thể xác tôi được theo cô.
Mất
hai người con, ông Thành dồn tình thương yêu cho hai đứa cháu, con của anh Hai
Nguyên, và để hết tâm trí vào việc nghiên cứu sử. Nhưng đau đớn và mất mát đã
làm ông kiệt sức. Ông qua đời năm 1978, để lại những trang viết dở dang.
Từ khi
ông Thành mất, tôi không còn được tin gi về ông Tùng nữa. Trước đó tôi được biết
hai ông bà sống với gia đình người em ở Quibec, Canada. Dù vợ chồng người em hết
mực thương yêu ông, dù mấy đứa cháu rất quý ông, nhưngđiều đó cũng không làm
ông nguôi được nỗi nhớ quê nhà. Những đường phố sáng choang, trắng toát và lạnh
lẽo trên đất nước xa lạ ấy khác xa cảnh cánh đồng sông nước đầy nắng đầy gió của
vùng châu thổ sông Cửu Long. Thư nào viết cho ông Thành, ông cũng gửi lời thăm
tôi. Ông nói không bao giờ ông quên được cánh rừng con suối nơi gặp tôi hồi trước.
Sau
này tôi có viết thư cho ông mấy lần, nhưng chẳng hiểu sao không có hồi âm. Dầu
gì đi nữa, tôi vẫn tin rằng con người đó không đến nỗi nhẫn tâm "chuyển lửa
về quê nhà", thứ lửa từng thiêu rụi căn nhà xưa cùng hàng cau thời thơ ấu
của ông.
Một ngày
tháng 3 năm 1998, nhân có việc vào Đà Nẵng, tôi ghé về thăm anh Hai Nguyên. Anh
chị đều đã nghỉ hưu, hiện sống trong ngôi nhà nhỏ ở quê. Nhà nước cấp nhà cho
anh ở thành phố, nhưng anh không nhận. "Buôn bán gì đâu mà ở phố Mình về
quê sống cho nó tĩnh!", anh nói vậy.
Gần hai năm nay không gặp nhau, giờ thấy tôi
vào anh chị hết sức mừng rỡ. Anh kéo tôi ra vườn ngồi trên chiếc chõng tre kê
cạnh gốc bưởi. Tháng ba hoa bưởi nở rộ, những cánh hoa trắng rụng lấm tấm trên
nền đất pha cát sạch mịn. Cây mai già vừa qua vụ hoa giờ đang trổ lộc, lác đác
vài cánh hoa còn sót lại vàng tươi trong đám lá xanh non.
Chúng tôi say sưa trò chuyện trong hương bưởi
thơm ngát. Ông già vừa bước qua tuổi "thất thập” này vẫn sôi nổi như xưa.
Lưng hơi còng và tóc đã bạc trắng, nhưng bước đi của anh vẫn nhanh nhẹn, đôi
mắt vẫn nheo nheo hóm hỉnh như ngày nào...
Sớm mai nắng lên, anh Hai Nguyên rủ tôi xương
sông. Con sông đang mùa cạn, bờ cát phía bên này nổi lên đến gần giữa dòng.
Chúng tôi xách dép đi chân trần giẫm trên ìớp cát bồi mịn màng mát lạnh ra tới
mép nước rồi thơ thẩn ngược lên. Ven bờ sông có mấy người dân đang cuốc đất bãi
bồi để tranh thủ trồng vụ khoai trước mùa lũ. Thấy chúng tôi ngang qua, họ
chống cuốc đứng nhìn theo như cố đoán xem hai người đàn ông, một đã già và một
cũng không còn trẻ, đang đi tìm gì trên con sông này.
Anh Hai Nguyên nói, giọng thủ thỉ:
- Lúc mình còn nhỏ, bên bờ sông này có những
guồng nước. Cái bánh xe khổng lồ làm bằng tre quay kẽo kẹt suốt ngày đêm, róc
rách đổ nước lên đồng. Bao năm xa quê mình cứ nhớ mãi những âm thanh ấy. Vẫn
biết bây giờ dùng máy bơm chạy điện tiện lợi hơn nhiều, mà sao cứ thấy nhớ thấy
tiếc thế nào ấy, cậu ạ! Kể cho mấy đứa cháu nghe, chúng cười bảo: người già như
ông thường hoài niệm...
… Quả có thế thậ!? - Tôi nghĩ - Dường như khi
về già, những kỷ niệm trở nên da diết hơn đối với những ai từng có một thời
đáng nhớ. Đến bây giờ mỗi khi nghe lại bài hát "Bước chân trên dãy Trường
Sơn”, người tôi vẫn rợn lên cảm giác gai gai da thịt: "...Núi vút thành
vách đứng, nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim
mình... Máu thắm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi tình quê tha thiết…” Những câu hát
như truyền vào người một nguồn năng lượng làm phát ra làn sóng điện kỳ lạ đưa
tâm trí tôi đến với cánh rừng con suối năm xưa, với những đêm khuya bên đống
lửa giữa rừng, những tháng ngày gian khó đầy ắp kỷ niệm đã in vào máu thịt...
Bên cạnh, anh Hai Nguyên vẫn kể về mấy đứa
cháu:
- …Hai thằng cháu nội, một xong năm nay vào
đại học, một lên lớp chín. Cả hai đứa đều học giỏi. Chúng nói tiếng Anh nhanh
như gió, gõ vi tính như múa, nhớ mặt nhớ tên hầu hết các danh thủ bóng đá quốc
tế, ham thích những khúc quân hành của hai cuộc kháng chiến lẫn những bản nhạc
"tóp ten" của nước ngoài. Thế hệ chúng bây giờ sướng thật.
Tôi cười:
- Chẳng ai mong có lại một cuộc chiến tranh
như vừa qua cho con cháu "được dịp" chứng tỏ bầu nhiệt huyết của
mình. Những người đi trước hy sinh xương máu là để cho đời sau sung sướng
hơn...
Anh nheo mắt nhìn tôi:
- Cậu lại triết lý rồi! Đúng là như vậy! Nhưng
cậu có biết hai đứa cháu mình chúng hỏi gì không?
- Sao kia ạ?
- Chúng thắc mắc: "Sau năm năm tư, ta
"đối thoái" với Mỹ có phải hay hơn không? Khỏi có một cuộc chiến
tranh tàn khốc kéo dài cả mấy chục năm..." Cậu thấy đấy! Chúng nó giờ tiếp
thu cái mới rất nhanh, nhưng hiểu biết lịch sử chẳng ra sao cả. Cũng may chúng
dám hỏi! Còn bao nhiêu đứa không hỏi, cứ ấm ức trong đầu, rồi sau sẽ ra sao?
Chiến tranh trôi qua chưa lâu... hăm ba năm, đúng không? Vậy mà... Giờ ta hay
dùng cụm từ "khép lại quá khứ”... Dĩ nhiên không sai, nhưng chỉ đúng khi
sử dụng trong một lĩnh vực nào đó, nói về một vấn đề cụ thể nào đó... Phải hiểu
cho đúng nghĩa, đừng nghĩ như thế là đóng lại tất cả, quên đi tất cả. "Xóa
bỏ hận thù trong quá khứ”. Không bao giờ đồng nghĩa với "Xóa bỏ quá khứ”.
Không ai chỉ ôm quá khứ mà sống được và chiến tranh thì đâu có hay ho gì mà
phải lưu luyến nó, nhưng phải nghĩ phải nhớ tới chiến tranh để bằng mọi cách
không cho nó tái diễn, để bảo vệ cho bằng được những gì mà bao thế hệ đã hy
sinh xương máu bảo vệ. Mình hơi "đại ngôn" phải không nhưng thực chất
là thế đấy...
Lắng nghe anh nói, tôi cúi nhìn những dấu chân
mình in trên lớp cát rịn nước và tự hỏi: trong triệu hạt phù sa kia, có hạt nào
là một phần xương thịt của anh Sơn? Không chắc? Nếu có, lúc này nó cũng đã ra
tới biển hay nằm sâu dưới những lớp phù sa đổ về mỗi năm... Nhìn lên phía nguồn
chỉ thấy điệp trùng núi xanh, mịt mờ mây tràng. Góc rừng nơi ngày nào các anh
ngã xuống giờ khuất sau lớp lớp núi xa.
Nhưng từ trên ấy dòng nước ngày ngày vẫn chảy
về đây. Con sông từng chứng kiến mọi chuyện xây ra từ bao đời nay. Nếu nói được
sông sẽ kể rằng, trong những năm tháng ấy có những người đã sống như thế, đã
chết như thế.
Huế - tháng 3 năm 1999.
------------------------------------------
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét