Chương XXI
Sau đó
mấy hôm thì trời đổ mưa. Thoạt đầu là những cơn mưa chợt đến chợt đi như để
thăm dò, rồi tiếp mưa dày hơn, dài hơn, và ngày càng nặng hạt, trút màn nước trắng
mịt mùng xuống khắp núi rừng. Mây đen nặng trĩu bay là là suốt ngày, níu bầu trời
thấp gần sát ngọn cây. Có những chiều chớp kéo nhì nhằng trong mây và sét đánh
ì oang ngoài đồi cỏ. Có những đêm gió gào rú trong rừng rung lá rụng rào rào và
bẻ cành cây gãy răng rắc. Ấy là dưới xuôi có bão, vùng gió mạnh lan tận đây. Đến
sáng thức dậy, thấy lá cây lật mặt trái nghiêng ngửa làm màu rừng nhợt hẳn đi.
Dọc bờ suối lác đác những cây chuối rừng gãy trắng lốp.
Nói
chung mùa mưa năm nay cũng giống hai mùa mưa trước, ngoại trừ một lần có cơn lũ
cuốn đổ về lúc nửa đêm, nước réo ầm ầm ngoài suối. Sáng ra nước dâng cao, vũng
suối biến mất, tảng đá hình con voi chỉ còn một chỏm nhỏ, ngọn thác mảnh mai
thường ngày giờ trở thành luồng nước khổng lồ cuồn cuộn. Nước lũ ào lên bãi cỏ
ngập tới nửa cầu thang nhà, cuốn rác rều đẩy rạp cả quãng rừng non mé bờ suối.
Tôi không lo lắm vì nhà tôi làm khá cao, bốn cột
chôn vững chắc. Hơn nữa ở đây nơi đầu nguồn, lũ không mạnh và sẽ mau rút. Quả
nhiên đến chiều thì nước trên bãi cỏ trôi hết, dòng suối tuy vẫn chảy xiết và đục
ngầu nhưng đã dịu lại.
Mùa mưa này tôi không phải lo cái ăn. Lần lên
vừa rồi cha con ông Thành mang thêm cho tôi chừng hai chục cân gạo mới, gói bột
ngọt nửa kí, mười cặp đường bánh, một thùng năm mươi gói mì ăn liền nhãn
"Hai con cua" và một bao cá khô, loại cá chuồn con to xẻ ruột phơi được
nắng mà mùi của nó luôn gợi nhớ tới tiếng rì rào của những con sóng biển chạy
đuổi nhau liếm vào bờ cát. Đúng như cô gái nói, dưới đáy thùng mì có chiếc địa
bàn kiểu quân sự và tấm bản đồ y hệt tấm của chúng tôi hồi trước. Và tôi mừng đến
ứa nước mắt khi còn tìm thấy trong thùng mì túi thuốc gồm một lọ to đựng những
viên thuốc phòng sốt rét, một lọ cồn, mấy cuốn bông băng cùng chục ống thuốc
kháng sinh, loại thuốc chứa sẵn trong bơm tiêm thường dùng cho phi công tự cấp
cứu khi nhảy dù bị tai nạn, chỉ cần bóc túi nhựa là tiêm ngay.
Hôm đó, tôi mở lọ thuốc phòng sốt uống ngay một
liều và cảm thấy trong vị đắng của chất kí ninh có cả vị ngọt ngào khó tả. Nghĩ
cũng lạ! Một mình trong rừng sâu hơn hai năm trời, mà lúc này tôi sống đầy đủ
hơn bất kỳ người lính Trường Sơn nào. Nhưng rồi chính sự đầy đủ cùng những ngày
nhàn rỗi đã tạo nên trong tôi cảm giác áy náy và xấu hổ, như mình đang trốn
chui trốn lủi tại góc rừng này để lẩn tránh những gì mà người thân, bạn bè và đồng
đội đang phải chịu đựng dưới kia. Lại thêm những trận mưa dầm dề bó chân tôi
trong cái chòi nhỏ hết ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày tôi cố gắng tập thể lực
chừng hai tiếng đồng hồ bằng cách nâng đá và bằng bất cứ động tác thể dục nào
nghĩ ra được mà có thể áp dụng trong hoàn cảnh này. Thời gian còn lại tôi ngồi
tựa vách ngó mung lung ra góc rừng tối mờ hoặc đan hai tay gối đầu nằm ngửa
nhìn lên mái nhựa phập phồng dưới mưa. Rồi nghĩ, rồi lo, rồi nhớ tới bao nhiêu
là chuyện, và lúc nào cũng thấy rầu rĩ hơn lúc nào hết.
Những ngày tháng đơn độc tẻ ngắt cùng cảnh vật
u tối của rừng sâu mùa mưa là nguyên nhân khiến tôi rơi vào một trạng thái khác
lạ. Ban đầu thấy trong người mệt mỏi uể oải, rồi dần dần đầu óc trở nên đờ đẫn
và vô cảm. Có lúc tôi nằm hàng giờ liền, mắt trừng trừng nhìn lên mái nhà mà hầu
như không thấy một cái gì và cũng chẳng tưởng tới một điều gì. Lại còn tiếng
mưa! Tiếng mưa rồi cứ sầm sập hết giờ này qua giờ khác, hết ngày này qua ngày
khác. Tiếng mưa đơn điệu át hết mọi âm thanh, trở thành sự tra tấn làm thần
kinh căng lên. Đến nỗi có lúc nào đó mưa ngừng rồi, tôi chợt giật mình, người
chùng lại và hụt hẫng như vừa rơi xuống từ khoảng không. Cảm giác u uất chán
chường ngày càng nặng nề. Hai mùa mưa trước tôi không bị như thế. Có thể lúc đó
còn bận bịu lo toan nhiều việc, không có thời gian để buồn chán. Có thể đến lúc
này, sự chịu đựng đã quá tải.
Cần phải vận động, phải làm một việc gì đó, nếu
không sẽ phát điên lên mất. Nhưng làm gì? Có mấy khẩu súng, ngày nào cũng tháo
ra lau đi lau lại mãi rồi.
Một hôm, tôi trùm tấm pôngsô, khoác súng đội
mưa đi ra hướng đồi cỏ. Lang thang vô định, tôi bước mải miết liền mấy giờ đồng
hồ như một kẻ điền. Mưa xối rào rào, gió tung tấm pôngsô phành phạch. Trượt
ngã, loạng choạng đứng dậy đi, rồi lại trượt ngã... Tôi leo hết sườn dốc này đến
sườn dốc khác, đến lúc dừng lại trên một mỏm đồi đưa tay vuốt nước mưa trên mặt
nhìn ra, thấy bốn bề toàn loàn nước trắng xóa. Phía xa xa rừng cây tối mờ trong
mưa, âm u đến rợn người. Mây đen trôi vùn vụt, nặng nề sà xuống đỉnh đồi như muốn
đè nghiến lên người tôi. Gió hú từng cơn, quất những làn mưa tơi thành bụi nước
bay trắng mờ như mây. Một mình tôi bé nhỏ lẻ loi giữa khoảng không gian mênh
mông hoang vắng, lạnh lẽo và đầm đìa nước. Tôi ngồi phịch xuống, rồi ngả người
nằm dài trên mỏm đồi, nhắm nghiền hai mắt cho giọt mưa khỏi xói vào. Mưa tầm tã
trên người, nước chảy ngập dưới lưng. Tê tái và giá buốt! Sao hôm trước mình
không nhảy lên chiếc trực thăng đó? Về dưới vẫn có thể tìm được cách liên lạc với
người con già Lý cơ mà? Mình quá tự tin hay ngu dại? Mình cố tỏ ra anh hùng hay
đã hèn nhát?... Những ý nghĩ dằn vặt trong đầu càng khiến tôi tuyệt vọng...
Tôi chìm trong trạng thái mê man như vậy không
rõ bao lâu, chỉ chợt tỉnh lại khi một lằn chớp sáng lòa kèm theo tiếng sét đánh
dội đất ở mỏm đồi bên cạnh. Chống tay ngồi dậy, tôi nhìn ra xung quanh thấy trời
mờ mờ tối. Không biết mấy giờ rồi? Nước loang loáng trên mặt đồng hồ nên không
xem giờ được. Mà biết giờ để làm gì? Tôi cần gì thời gian... Mãi đến khi nhìn
thấy con báo ướt lóp ngóp run rẩy đứng bên cạnh, tôi mới nghĩ đến chuyện quay về.
Nhưng không còn xác định được phương hướng nữa rồi! Bốn phía mờ mịt mưa, tầm
nhìn ngắn lại trong vài mét...
Chiều tối hôm đó, nhờ bám theo con báo mà tôi
về được đến nhà. Người lạnh cứng, tôi lập cập ôm củi đốt lửa sưởi và lại giương
mắt nhìn ánh lửa bập bùng nhảy múa, đến khi lửa bén vào tóc cháy khét mới giật
mình tỉnh lại...
Sáng ra thức dậy, tôi rùng mình khi nhớ lại
chuyện hôm qua. Nếu ở quê, các cụ sẽ bảo là tôi bị "ma đưa". "Ma
đưa đường, quỷ dẫn lối" là vậy! Tôi không tin chuyện ma quỷ chỉ nghĩ mình
đã qua suy sụp, trạng thái trầm uất lên đến mức cuồng loạn.
Phải làm việc... Phải tạo ra việc để làm...
Tôi suy nghĩ, chân như cái máy bước lui bước tới trong căn nhà hẹp. Tiếng mưa vẫn
ràn rát trên đầu. Chợt cặp mắt bắt gặp một vật gì giắt trên vách, tôi nhìn nó
trân trối, hồi lâu sau mới nhận ra chiếc đục trước đây vẫn dùng đục đá tìm mạch
vàng. Đục đá? Ừ, hay là...
Tôi dầm mưa xuống bờ suối vác lên một tảng đá.
Mình sẽ tạc một vật gì đó, vừa để tập luyện cơ bắp, vừa bắt đầu óc phải làm việc.
Tôi nhìn ra ngoài trời nghĩ ngợi. Báo Aga đang nằm liếm lông trước cửa. Lúc nãy
tôi đi vác đá, nó chạy theo nên bị ướt. Phải rồi! Ta sẽ tạc con báo. Trời mưa,
nó vẫn thường nằm dài ở nhà. Vậy là có "người mẫu” rồi!
Tôi mài lại cái đục, hăm hở bắt tay vào việc.
Hàng ngày, ngoại trừ giờ tập thể dục bắt buộc và việc chuẩn bị bữa ăn, tôi dồn
hết tâm trí và sức lực vào khồl đá. Cả ban đêm tôi cũng thắp đèn kì cạch ngồi đục.
Còn hơn là nằm nghĩ quẫn.
Hơn một tháng sau thì con báo đá thành hình. Ấy
là tôi nghĩ vậy, chứ hình như... không được giống lắm. Ngồi ngắm đi ngắm lại,
cuối cùng đành tự thú nhận là chẳng giống chút nào! Nó chỉ là một khối đá nhỏ
ngoằn ngoèo với bốn cái chân cứng queo, chẳng có chút gì tư thế hùng dũng và
vóc dáng uyển chuyển của con báo đang đứng trước mặt. Tôi để ra mấy ngày cố sửa,
nhưng rồi một nhát đục vội vã đã phạt văng cả cái đầu. Cáu tiết, tôi cầm hòn đá
dùng làm búa ném một cú thật lực vào hai cẳng sau. Vậy là đi tong “tác phẩm đầu
tay”. Thế mới biết việc sáng tạo nghệ thuật chẳng đơn giản chút nào.
Hôm đó nhằm lúc trời tạnh, tôi xách súng vào rừng
kiếm thịt tươi bổ sung nguồn thức ăn, đồng thời để bồi dưỡng cho "người mẫu”
luôn thể. Mùa này con báo ít có cơ hội kiếm mồi nên bị đói. Trông nó gầy sút hẳn
đi. Còn lũ khỉ thì thỉnh thoảng tôi cũng nấu thêm cơm cho chúng ăn, hoặc lâu
lâu chia cho mỗi con một mẩu đường. Nhưng không dám cho ăn luôn, phần vì của có
hạn, phần sợ chúng sinh quen đâm ỉ lại, sau này mất thói tự lập. Hai nhóc khỉ
ngày nào giờ đã lớn tướng, từ lâu không còn thấy chúng bám bụng bám lưng mẹ bắt
cõng, vậy mà chẳng hiểu sao nhà khỉ chưa có thêm thành viên mới nào.
Xong việc, tôi lại ra bờ suối vác tảng đá
khác. Lần này chọn kỹ hơn: một tảng đá thuôn dài đầy đặn, thớ đá mịn và không
có kẽ nứt. Tôi mài lại cái đục cho mũi nhỏ và nhọn hơn. Phương pháp "sáng
tác" cũng có rút kinh nghiệm: tạo đường sống lưng trước, sau đó đục dần từng
mẩu đá, cố hình dung như mình đang moi một con báo ra từ trong đá. Và lần này
tôi tạc con báo nằm, chứ không sẽ rất khó tạo bốn cái chân. Được cái "người
mẫu” rất chịu khó, hầu như lúc nào cũng nằm dài trước cửa vì trời mưa to.
Ngày qua ngày, sự miệt mài với công việc mới lạ
làm tôi bình tâm trở lại. Bây giờ tôi có thể vừa đục đá vừa nghĩ tới mọi chuyện
với tâm trạng lạc quan hơn. Mà có gì đáng sợ đâu cơ chứ! Hết mùa mưa này là
mình về được rồi! Sức khỏe đã khá lên nhiều nhờ ăn uống đầy đủ. Không phải lao
động cực nhọc như mấy năm trước, lại uống thuốc phòng sốt rét đều đặn, nên khỏi
lo một trận ốm bất ngờ. Mình lại có bản đồ địa bàn, có đủ lương thực, chặng đường
hai trăm cây số đâu có gì ghê gớm mà phải sợ? Và điều động viên lớn nhất là tôi
nghĩ rằng anh Hai Nguyên sẽ nhận được thư. Tôi không rõ vì sao đến lúc này vẫn
chưa có toán TK nào tới đây, nhưng tin chắc khi biết tin tôi còn sống, dù giá
nào anh ấy cũng tổ chức người tiếp cứu. Lúc đó có kẹt lại cũng không đáng ngại
lắm. Có điều nếu có người đến, cũng phải sau mùa mưa.
Nghĩ tới bức thư, tôi lại nhớ đến ông Thành với
lòng cảm mến và kính trọng thật sự. Ở ông có phong thái của một ông giáo già hiểu
biết và nhân hậu. Dù rất thương con, nhưng ông chẳng hề có chút oán hận khi biết
chính tôi bắn chết con trai ông. Ông hiểu đâu là lẽ đúng sai ở đời. Còn ông
Tùng nữa ông ta là kẻ thù của tôi, của chúng tôi. Nhưng một người còn nhớ tới
hàng cau tuổi thơ, nhớ tới một món ăn dân dã như nhớ những kỷ niệm sâu sắc về
quê hương, thì sớm muộn gì con người ấy cũng trở lại với cội nguồn của mình. Và
nếu như trong ông có sự thay đổi về cách nhìn cách nghĩ, thì quả là một điều kỳ
diệu mà chỉ có sức mạnh triều dâng của Cách mạng mới tạo nên được. Tôi chỉ là một
giọt nước trong đó.
Rồi cô gái! Cô ấy có nét hồn nhiên đến trong
trẻo và sự vô tư rất trẻ con, nhưng lại là người có cảm nhận tinh tế sâu sắc.
Không cần hỏi cô cũng biết tôi cần địa bàn, bản đồ và thuốc phòng sốt. Ở rừng
lâu ngày nên thiếu gạo thiếu muối, điều đó ai cũng biết. Nhưng phải là người nhạy
cảm, và cả đồng cảm nữa, mới hiểu được tôi nhớ mùi vị của biển, nhớ hương thơm
cơm gạo mới đến nhường nào. Và phải là người tinh khôn lắm mới nghĩ ra vì sao
khẩu đại liên không còn trên chiếc trực thăng...
Chẳng hiểu sao dạo này tôi hay nghĩ hay nhớ đến
cô, và mỗi lần như vậy lại thấy bâng khuâng như đang có một sợi tơ vàng mảnh
mai óng mượt vương vấn trong đầu. Những lần tiếp xúc với cô đã để lại trong
lòng tôi một chút gì ấm áp và dịu ngọt... Mỗi lần ra suối, tôi lại nhớ dáng người
con gái nghiêng bên bờ cát, mái tóc dày và nụ cười láu lỉnh, đôi mắt đen tròn
long lanh chợt vui chợt buồn, thoắt trầm tư thoắt nhí nhảnh... Đôi lúc tôi tự
nhủ: “Mình đang nghĩ gì vậy? Mơ màng như thế để làm gì? Hãy nhớ về cô ấy như nhớ
nhột kỷ niệm đẹp, và chỉ thế thôi! Cần phải tỉnh táo..." Nhưng tình cảm vốn
tự nhiên mà có, trong trường hợp này nó không muốn phụ thuộc vào lý trì.
Đến cuối tháng chín, tôi hoàn thành t”ác phẩm"
của mình. Chỉ đục thô thôi vì không có cách gì làm bóng được. Chẳng biết có đẹp
hay không, nhưng theo tôi thì rất giống, dù nó chỉ to bằng bắp chân. Nhìn vào
ai cũng có thể nói ngay đó là con báo, chí ít cũng cho là mèo hoặc cọp, chứ
không đến nỗi nhìn nhận thành chó. Chỉ cần sửa thêm một chút ở mõm và tai là
báo Aga có thể tự hào được rồi.
Đầu tháng mười năm đó, những đợt mưa thưa dần.
Đôi lúc trên bầu trời có vài khoảng không xanh ngắt ló ra, và nắng lại óng vàng
màu mật như chưa hề có chuỗi ngày u ám vừa qua. Lác đác trong rừng có những tán
lá ngả dần sang màu vàng màu đỏ. Dòng suối trong trở lại, con thác chảy êm hơn
và vũng suối bắt đầu đọng sắc xanh của trời. Tôi phấn chấn hẳn lên, lại tiếp tục
những buổi tập mang nặng leo dốc. Sức khỏe tốt hơn trước nhiều. Lúc này tôi
mang được ba lô đá hai chục kí đi một mạch về bên mộ hai anh mà không phải dừng
nghỉ dọc đường.
Đợt nắng đó khá dài làm tôi bỗng nghĩ:
"Hay mình trở về được rồi?" Nghĩ vậy thôi chứ tôi biết chưa thể. Rừng
đang ướt và vẫn còn mưa nhiều, tuy không mưa dày như vừa qua nhưng sẽ lạnh hơn.
Đấy! Trời mới xanh được mấy hôm, đã lại thấy bóng mây kéo về. Phải kiên nhẫn
thôi! Vài tháng nữa chứ mấy!
Tranh thủ trời nắng, tôi lội rừng suốt ngày để
kiếm thêm thức ăn và bù lại những ngày bị giam hãm tù túng trong căn nhà hẹp.
Không chỉ riêng tôi mà mọi sinh vật trong rừng đều náo nức hẳn lên. Mặc dù nền
rừng đang ẩm ướt và sũng nước, muôn ngàn cây lá vẫn rì rào khoan khoái khi được
tắm mình trong nắng. Chim chóc hót rộn khắp nơi. Tiếng côn trùng bay vù vù suốt
ngày trên đầu. Những con sóc tíu tít chuyển cành tranh thủ kiếm thêm quả hạt bù
vào số thức ăn bị hao hụt trong mấy tháng qua, chúng biết trước mắt vẫn còn những
ngày đông lạnh giá. Lúc lúc lại bắt gặp một con thú lớn thấy động chạy ào trong
bụi rậm. Những cây nấm đủ màu sắc mọc đầy trên nền đất ẩm và trên những thân gỗ
mục. Thỉnh thoảng vẫn có cụm lan trổ bông giữa lưng chừng cây cổ thụ, thoảng
hương rất nhẹ mà ngây ngất.
Chiều đó tôi bắn được con mang, kéo về bờ suối
xẻ thịt. Giờ sẵn mấy cái xoong, bắn được con thịt tha hồ kho, nấu, hầm xương, để
dành ăn trong nhiều ngày. Căn nhà nhỏ sực nức mùi thịt chín thơm phức.
Mấy ngày lội rừng mệt nhoài, nên tối đến vừa
ăn xong là tôi lăn ra ngủ một giấc thật say sưa và khỏe khoắn. Vậy mà đến khuya
tôi lại có giấc mơ khủng khiếp: động đất! Đã đủ thứ tai họa rồi, giờ lại đến động
đất nữa ư? Sao anh Sơn bảo vùng này đợt động đất gần nhất cũng đã cách hàng triệu
năm? Dung nham núi lửa ngày nào nay đã thành núi, thành rừng đại ngàn rồi cơ
mà?... Nhưng đúng động đất thật rồi! Thoạt đầu là những âm thanh rì rầm mơ hồ,
rồi tiếng "râm rầm rầm...", mặt đất rung chuyển, căn nhà nhỏ lay bần
bật. Và ánh sáng chói lòa bùng lên. Núi lửa phun?...
Một vật gì thúc vào ngực đau điếng làm tôi giật
mình tỉnh dậy. "Cái gì thế này? Phải núi lửa không?..." Luồng ánh
sáng cực mạnh làm mắt tôi tự động nhắm nghiền lại. Căn nhà vẫn rung chuyển, cái
màn bay tung như bị lốc cuốn.
Chỉ tích tắc sau đó là tôi tỉnh hẳn bởi một
bàn tay thô bạo túm ngực áo lôi thốc dậy. Tôi quờ tay chụp hụt khâu súng, có kẻ
đã nhanh chân hất nó ra xa. Một kẻ khác luồn tay dưới chiếc ba lô gối đầu thu
luôn khẩu ru lô. Lúc này ý thức mới thực sự trở lại: tôi bị địch bắt giữa lúc
đang say giấc nồng. Sao lại thế nhỉ? Hay mình vẫn trong cơn ác mộng?... Tim tôi
đập thình thịch, mồ hôi vã ra đầy người. Ánh đèn lóe mắt làm tôi không nhìn rõ
bọn người vây quanh. Chẳng biết thấy đứa, chỉ thấy cẳng chân nhặng cả lên, những
cẳng chân bó trong ống quần vải ngụy trang và mang giày linh cao cổ màu đen.
Một đứa nói giọng khàn khàn ra lệnh:
- Hai đứa xét kỹ người nó rồi đưa xuống dưới.
Trung sĩ ở lại soát nhà, có gì đem hết xuống cho đại úy coi.
Đấy là
những tiếng nói đầu tiên. Như vậy trên này có bốn tên. Hèn gì căn nhà rung lên
như muốn sập.
Bốn
bàn tay cứng như thép nắn khắp người tôi, rồi một họng súng thúc vào lưng kèm
tiếng nói cụt lủn: "Đi!”
Tôi bướt
ra cửa, vẫn chưa hết bàng hoàng. Cố trấn tĩnh, tôi nấn ná trước hiên để tranh
thủ quan sát tình hình. Phía dưới có mấy bóng lính cầm súng vây quanh nhà, chỉ
thấy lờ mờ chứ không nhìn rõ người. Ngay chân cầu thang, một tên lính cao to
như hộ pháp tay cắp tiểu liên, tay túm sợi dây da cố ghìm con bẹc giê to cỡ con
bê đang hực hực muốn chồm lên. Đôi mắt con chó lóe sáng xanh như lân tinh khi
chói ánh đèn pin. Chúng đem cả chó lên, không biết mấy con...
Một tiếng quát giật giọng: "Đ.má! Nhìn cái
gì? Định nhạy hả?", rồi một bàn tay xô mạnh vào giữa hai vai khiến tôi
ngay lập tức ngã giập mặt xuống đất. Sàn nhà cao hai mét, cú đẩy bất ngờ làm
tôi không kịp phản xạ. Cánh tay trái bị đè dưới người đau nhói, ngực bị ép mạnh
tưởng đến vờ phổi. Tôi nghẹn thở phải há miệng hớp hớp, nuốt luôn một ngụm máu.
Cũng may lâu nay trời mưa nên đất mềm. Nằm úp mặt trên những lá cỏ ướt lạnh
sương đêm, tôi nghe rõ tiếng chân bọn lính giẫm xuống cầu thang răng rắc,
tiếng tên lính đang ghìm chó: “Ê, yên nào Mícki", và tiếng con chó hồng hộc
ngay trên đầu, hơi thở của nó phả nóng ran.
Có giọng
nói the thé vang lên cùng tiếng chân thình thịch chạy tới:
Tụi bay từ từ chớ! Làm chi nặng tay quá vậy? -
Rồi một bàn tay túm vai tôi kéo nhẹ - Có sao không anh Hải? Ráng đứng dậy coi?
Tôi điếng
người, còn đau hơn cú ngã vừa rồi. Tên vừa nói xốc nách đỡ tôi đứng lên và dìu
tới chỗ chiếc bàn đá: "Anh tới đây ngồi để tôi coi có làm sao không?"
Chân không bị đau nhưng tôi vẫn tập tễnh bước nặng nhọc, người dựa hẳn vào kẻ
bên cạnh, ngửi thấy cả mùi mồ hôi chua loét bốc lên từ chiếc áo lính màu xanh
xám. Qua khóe mắt, thấy hắn đeo ba bông mai trên ve áo. Đại úy! Thằng này chỉ
huy tốp lính.
- Anh
ngồi xuống đây! - Hắn đỡ tôi ngồi xuống hòn đá rồi thét gọi tụi lính - đứa nào
bật đèn lên coi!
Tôi liếc
mắt, thấy hai tên lính đứng sau lưng, súng lăm lăm trong tay. Tên thứ ba đứng
cách vài mét, con chó ngồi dưới chân hắn.
Nghe thằng đại úy gọi, tên lính giữ chó bật
công tắt chiếc đèn pha xách tay. Một luồng ánh sáng trùm lên người làm tôi
không còn nhìn thấy gì. Thằng đại úy dùng cả hai tay sờ nắn khắp người tôi, miệng
dẻo quẹo:
- Đâu? Đau chỗ nào? Lúc nào thấy đau anh nói
nghen!
Không biết ngứa miệng hay sao mà tên lính đứng
phía sau buột nói: Đại úy khỏi lo! Tụi em soát kỹ rồi mà!
Tôi bật cười và cảm thấy môi cồm cộm đau rát,
hình như nó đã sưng vù lên. Tên đại úy buông tôi ra, nói tỉnh bơ:
- Chắc không bị sao! Anh Hải thông cảm, đêm
hôm mà phải lặn lội lên giữa rừng giữa núi thế này, nên tụi nó đổ cáu.
Tôi cố bình tĩnh để đánh giá tình thế, nhưng
ánh đèn pha làm chói mắt nên không nhìn được, chỉ nghe những tiếng nói lao xao
và tiếng động của bọn đang lục lọi trên nhà.
Tên đại úy nói tiếp:
- Ta nói chuyện vui vẻ chút nghen! Anh...
Tôi cắt ngang lời hắn:
- Nếu bị rọi đèn vào mặt, đại úy có vui vẻ được
không?
Hắn phẩy tay ra hiệu. Một tên lính bước tới cầm
chiếc đèn pha từ tay tên giữ chó, tháo đèn rồi đặt dựng trên hòn đá. Chiếc đèn
pha trở thành bóng điện nhỏ sáng trắng.
Tôi chớp mắt, dần dần nhìn rõ hơn. Điều đập
vào mắt tôi đầu tiên là cái trán hơi hói và khuôn mặt bèn bẹt của kẻ đang ngồi
trước mặt. Dưới ánh đèn, da mặt hắn bờn bợt như thiếu máu, cái miệng rộng và
vành môi mỏng dính thỉnh thoảng lại chóp chép rất buồn cười. Hai hố mắt hắn
trũng sâu nhưng cặp mắt lại lồi ra, trông giống hòn bi đặt trong lỗ. Thằng này
chừng bốn chục tuổi, nói giọng miền trong. Vẻ mặt ấy cùng với giọng nói the thé
ít thấy ở đàn ông làm hắn có bộ dạng của một kẻ nhỏ nhen và thâm hiểm.
- Chắc anh Hải bị đột ngột phải không? - Tên đại
úy nhẹ nhàng nói tiếp - đáng ra tụi tôi không nên đến đây giữa đêm hôm khuya
khoắt như thế này, nhưng anh thông cảm! Phải vậy mới gặp được anh, chớ lên mà để
anh biết trước thì chỉ có ăn đạn. Tôi biết anh là tay súng giỏi mà! He he... -
hắn nhếch miệng cười.
Hai tên lính đứng phía sau vẫn im lặng, nhưng
tôi cảm thấy một tên cứ ngọ nguy luôn, chốc chốc lại nghe hắn khịt mũi bực dọc.
Con bẹcgiê vẫn ngồi, thè cái lưỡi đỏ hỏn thở hồng hộc dù trời đêm đang lạnh. Đằng
kia bọn lính vừa đi xuống cầu thang.
"Như vậy chúng có khoảng chục đứa. Ngoài
kia còn không? Có lẽ hết rồi. Chúng biết mình chỉ có một, không cần bố trí vòng
ngoài. Trang bị tốt: tiểu liên cực nhanh kết hợp cối cá nhân, lựu đạn, dao găm,
dao rừng, đèn pin, đèn pha xách tay... Thằng nào cũng đeo khẩu côn xề xệ bên
hông. Động tác nhanh nhẹn dứt khoát... Bọn này thạo việc..."
- Anh đừng lo! Bọn tôi lên để đưa anh về dưới,
chớ ai lại sống một mình giữa rừng hoang thế này. He... he... - Hắn lại cười
như dê - Tất nhiên là có việc, nhưng để sau rồi tính...
Tên đại úy vẫn nói đều đều như tâm sự. Tôi liếc
nhanh về phía tốp lính. Chúng đang xúm quanh đống đồ vừa đem trên nhà xuống,
soi đèn xem và bàn tán với nhau. Loáng thoáng đôi tiếng lọt qua giọng nói của
tên đại úy: "... Bản đồ còn mới... súng ống toàn thứ của mình không nè... ống
nhòm Nga Xô... giấy tờ...đ. má thơm quá... thịt rừng nhậu hết sẩy”, "Hình
như có giọng nói quen quen? - Tôi phân vân - Không, chắc mình tưởng vậy
thôi..."
- Anh Hải quê ở đâu ta? Này, anh có nghe tôi
nói gì không? - Tên đại úy đã chú ý tới vẻ lơ đãng của tôi.
- Đại úy nói to lên. Lúc nãy ngã nên tai tôi bị
ù?
- Anh quê ở đâu? - Hắn nhắc.
- Tôi nghĩ là đại úy biết hết rồi chứ?
- Biết chớ, biết chớ? - Hắn nói nhanh - Tôi biết
hết. Chớ không đêm hôm làm sao tìm ra anh giữa rừng sâu? He he... he... - Hắn
cười đắc ý - Này, con báo của anh đâu rồi?
- Chắc thấy đèn sáng, nó sợ chạy đâu đó... -
Tôi đáp bâng quơ.
"Mà con báo đi đâu nhỉ? Nếu có nó hẳn mình
đã được báo động. Đi đâu chứ không phải kiếm mồi. Lúc chiều xẻ thịt con mang
ngoài bờ suối, nó mới chén no căng... Tốt nhất nó đừng về lúc này, bọn lính sẽ
bắn hạ ngay tức khắc. Tức thật! Để chúng bắt giữa lúc đang ngu, một tình huống
mình đã nghĩ tới..."
- Tôi đem con Mícki lên để cho nó đấu với con
báo của anh, vậy mà không gặp. Xui quá! - Tên đại úy vẫn nói, tay vuốt ve con
chó lúc này đã tới ngồi bên cạnh.
"Liệu chạy thoát được không? Không! Bọn
lính sẽ bắn ngay. Bắn bị thương thôi, chúng cốt bắt sống. Mà chỉ cần nhỏm dậy
là con chó đớp liền..."
Một tên lính bước tới nói to:
- Báo cáo đại úy, trung sĩ mời đại úy tới coi
mấy thứ tìm thấy!
Thằng này xách khẩu M79, những quả đạn vàng
chóe đeo thành một vòng kín quanh lưng.
- Cứ để đó! Anh biểu trung sĩ Hưng lên soát kỹ
lần nữa, chú ý tìm coi có giấy tờ gì không!
Tên đại úy bảo với thằng lính, rồi không đợi hắn
quay đi đã ngoảnh sang tôi:
- Anh Hải lên đây bao lâu rồi?
- Chừng trên dưới hai năm gì đó! Lâu quá nên
tôi không nhớ.
- Thế anh có vợ con gì chưa?
- Đêm hôm đại úy dẫn quân lên tận đây, chắc
không phải để hỏi thăm hoàn cảnh gia đình của tôi chứ?
Hắn cười xòa:
- Anh nói đúng! Nhưng đâu còn có đó, về dưới
ta sẽ nói chuyện dài dài. Hôm nay chỉ là sơ ngộ. Tôi thực lòng mến phục anh, một
người lính can trường đởm lược. Mình anh mà bắt sống cả toán dù, lại tha cho về
không thèm giết... hê.... hê... - Hắn hể hả, làm như đang thực sự tự hào về tôi
- ...Anh là trang nghĩa hiệp.. đầu xanh tuổi trẻ... tiến xa... đời binh
nghiệp... đường đời đôi ngả...
Tên đại úy vẫn huyên thuyên như ca cải lương,
miệng uốn éo theo giọng nói lúc trầm lúc bổng. Không ngờ vành miệng con người lại
có thể uốn lượn khéo đến thế. Thằng này có dáng sĩ quan tâm lý chiến. Có điều lời
lẽ hắn nhạt nhẽo, dần dần tôi chỉ còn nghe lõm bõm đôi tiếng.
- Có chi hỏi lẹ còn về, đại úy!
Tên lính đứng sau lưng tôi bực bội lên tiếng.
Vẫn cái thằng nói giọng khàn khàn xô tôi ngã lúc nãy. Lính mà dám nói với chỉ
huy như thế sao?
- Thượng sĩ đừng nôn, ta đâu có gì phải vội? -
Tên dại úy nói lại.
- Tôi không chịu được cái kiểu đại úy ngồi ca
nó như thế! Bộ đại úy không biết cái thằng người rừng này đã giết bạn tôi ngay
tại đây sao?
"Bạn nào? Giết ai? Ba tên trên chiếc trực
tháng... Không phải Thôi đúng rồi..." Tôi ngoảnh lại hỏi hắn.
- Thượng sĩ Tài là bạn của thượng sĩ à?
- Câm miệng, thằng mọi!
Tôi nóng gáy, nhưng vẫn cười cười:
- Rút thốt lựu đạn mà để rơi dưới chân lại
không biết tránh, làm lính như thế chết cũng phải, thượng sĩ còn tiếc nỗi gì?
- Đ má... - Hắn gầm lên, trở báng súng tiểu
liên thúc vào sườn tôi một cú cực mạnh.
Ruột gan đảo lộn, tôi đau cuộn người, một tay
chới với cố bíu lấy phiến đá để khỏi đổ nhào xuống đất. Cơn đau thốc lên ngực rồi
lên đầu, bùng ra trước mắt cuộn lửa đỏ rực.
“Thượng sĩ đừng nóng..." Tôi mơ hồ nhận
thấy tên đại uý bật dậy đẩy thằng thượng sĩ ra xa, rồi tiếng chúng cãi nhau.
Tên đại úy nói gì nghe không rõ, còn thằng kia vẫn oang oang: "... Đại úy
không phải là xếp của tụi này đâu nghẹn... Đâu phải vì mấy trăm đô mà tui lên
đây... xé xác thằng mọi... dám giỡn mặt... bẻ từng khúc xương..."
Lại thêm mấy tên lính chạy tới. Tôi gượng ngồi
thẳng người lên. Trước mắt vẫn thấy quầng lửa loang loáng như có bầy đom đóm
đang bay. Bụng đau thắt. Không khéo gãy xương sườn...
Tên đại úy quay lại, vẫn cái giọng "tình
cảm" như không có chuyện gì xây ra:
- Đau lắm phải không? Cũng tại anh nữa, chọc tức
tụi nó làm chi?
“Lần này thì hắn nói đúng, mình không nên
khiêu khích. Đau thế này làm sao chạy được..."
Một tên lính bước tới:
- Báo cáo, đã kiểm tra kỹ trên nhà và xung
quanh. Mời đại úy đến xem!
- Giọng nói quen quá! Tên vừa nói đứng trong
bóng tối, tôi không nhìn rõ mặt.
- Được rồi, tôi tới liền! - Hắn đưa mắt ra hiệu
cho tốp lính vây quanh tôi rồi bước đi.
"Rõ ràng bọn này đâu phải gặp tình cờ,
chúng lên đây là để bắt sống mình. Việc này phải liên quan tới một ý đồ quan trọng
nào đó, chứ chả lẽ mất công tổ chức một cuộc tập kích như vậy chỉ để bắt một
người lính Giải phóng lạc rừng? Dĩ nhiên chúng đổ bộ bằng trực thăng, nhưng làm
sao tìm được đến đây? Ai lái? - Tôi bỗng rùng mình - Cô ấy? Chỉ có cô mới thông
thạo đường bay này... Không, mình không tin! Máy bay có thiết bị bay đêm, có
máy xác định tọa độ vẫn có thể tới đây được... Nhưng biết đâu lại chính cô ta?
Hoặc cô không muốn nhưng bị khống chế! Có thể lắm! Chúng bắt ông Thành để đe dọa
chẳng hạn... Thôi lát ra máy bay sẽ biết. Nhưng phải có kẻ dẫn dường chúng mới
tìm ra cái chòi nhỏ giữa rừng trong đêm tối thế này... Có kẻ thạo đường!
Ai?" Trong đầu tôi lướt nhanh những người đã từng lên đây. "Đúng rồi
Thằng trung sĩ an ninh! Hèn gì giọng nói rất quen? Giọng Bắc, không nhầm được.
Đáng ra sau vụ đó mình phải ai chuyển chỗ ở..."
Tên đại úy quay lại, hỏi với vẻ thân tình:
- Anh Hải sống đầy đủ quá nhỉ?
- Vâng! Đại úy có muốn sống như vậy không?
Hắn cười gượng gạo:
- Anh hóm lắm! Này, nếu tôi không lên đây, anh
cứ sống như vậy mãi sao?
- Tôi không mời đại úy lên, cũng đâu dám phiền
ông đưa về?
- Tất nhiên chúng tôi có mục đích của mình.
Anh tưởng tôi tin chuyện anh lạc rừng sao?
"Bắt đầu rồi đấy...", tôi nghĩ, và hỏi
lại:
- Thế đại úy tưởng tới điều gì?
Hắn cười, giọng nói vẫn nhẹ nhàng nhưng nét mặt
lộ vẻ bực dọc:
- Anh rất khôn khi đặt câu hỏi để tránh trả lởi.
Nhưng chính điều đó càng làm anh lộ mình rõ hơn. Một tay súng điệu nghệ, nói
năng cư xử sắc sảo, tinh khôn đến mức chỉ nhìn qua cũng biết người của tôi cài
lên đây... Con người đầy bản lãnh như vậy mà chịu sống mấy năm trong rừng vì bị
lạc ư?
- Vậy đại úy nghĩ tôi đang làm cái trò gì ở
đây?
- Lại hỏi ngược! Coi bộ anh cũng khó thành thực
đấy nhỉ? - Hắn mỉa, cặp mắt lồi đảo trắng dã.
- Đại úy cũng đâu có thành thực với tôi?
- Anh nói cái chi? - Hắn trợn mắt hỏi lại.
- Ở đây tôi có người quen, vậy mà đại úy cố
tình giấu không cho gặp!
- À, phải rồi! Anh muốn gặp phải không? Có gì
đâu mà phải giấu! - Hắn xoa hai tay vào nhau vẻ thú vị, hào hứng gọi to - Hưng,
trung sĩ Hưng đâu? Tới đây!
Tên trung sĩ chạy lại. Đúng thằng này rồi! Tôi
nhìn thẳng vào mắt hắn, cười cười:
- Trung sĩ tệ quá! Gặp lại nhau mà không chào
hỏi lấy một tiếng!
Tên lính cúi gằm mặt cái đầu ngọ nguy như muốn
xoay hẳn ra đằng sau. Tôi bỗng nhận ra chỉ có hai tên này mặc quân phục màu
xanh xám, bọn còn lại đều mặc đồ ngụy trang.
Vẫn nhìn tên lính, tôi nói tiếp:
- Cũng may là hôm trước tôi ngăn không để anh
thề thốt. Nếu không bây giờ anh là kẻ phản bội rồi, đúng không?
Tên đại úy ngoảnh mặt lại, xẵng giọng hỏi tên
lính:
- Trung sĩ định thề gì vậy?
Tôi cười:
- Có gì đâu đại úy! Chuyện riêng thôi mà! Nhân
tiện gặp người quen, đại úy cho phép tôi nhờ trung sĩ Hưng một việc.
- Việc gì? - Hắn cảnh giác hỏi lại.
- Lúc chiều mới bắn con mang, có kho mấy xoong
thịt. Phiền trung sĩ mời anh em nếm thử cho biết mùi thịt rừng. Mấy khi lên tới
đây... Bọn lính xung quanh trố mắt ngạc nhiên. Tên đại úy ngẩn người nhìn tôi
chằm chằm như cố đoán xem có cái bẫy nào trong chuyện này.
Tôi nói ngay:
- Đại úy đừng lo! Tôi mời thực lòng chứ không
có ý gì đâu. Thịt mang ngon lắm! Lát nữa tôi theo đại úy về rồi, để nó phí đi!
Các vị lên bất ngờ như vậy, tôi đâu biết trước mà bỏ sẵn thuốc độc? Đại úy cứ
cho người canh, tôi không dại bỏ chạy để ăn đạn đâu!
Mặt tên đại úy dịu lại. Hắn ngần ngừ một lát rồi
khoát tay ra vẻ rộng rãi:
- Anh Hải đã có lòng mời, anh em cứ thiệt
tình!
Bọn lính ồ lên vui vẻ. Hai tên xăng xái chạy
lên nhà tìm bát đũa. Dưới ánh đèn pha, cả bọn nhốn nháo vây quanh mấy soong thịt.
Sáu tên tất cả.
Tên đại úy vẫn ngồi trước mặt. Hai thằng đứng
sau vẫn chĩa súng vào tôi không chút chểnh mảng, mặc dù nghe chúng nuốt nước bọt
ừng ực.
"Như vậy chúng có chín tên. Mà hơn kém
vài đứa cũng thế thôi. Mình phải tính kỹ, lầm lẫn một chút là trả giá bằng mạng
sống..."
Tôi liếc nhanh đám lính đang ăn uống nhồm
nhoàm. Thằng thượng sĩ lại là đứa hăng hái nhất. Hắn ăn nhanh như lợn táp,
nhoáng cái đã lại thấy vục bát vào soong xúc thịt.
Tên đại úy nháy mắt ra hiệu cho hai thằng đứng
canh rồi tới bên bọn đang ăn, hồ hởi nói:
- Tôi quên không mang mấy chai lên nhậu chơi!
Anh em thấy chưa? Chuyến đi nhẹ nhàng quá, phải không nào?
"Không thể bỏ chạy lúc này được. Trực
thăng đỗ ở đâu? Chắc ngoài đồi. Chung không dại đáp xuống tràng cát, sợ mình
nghe tiếng động cơ. Chúng sẽ dẫn bộ mình lên đó? Qua dải rừng non chạy được
không?..." Chợt có tiếng rào rào trên cây đa. Một tên vứt bát chụp súng bắn
xả lên đó một loạt dài. Chết rồi, lũ khỉ? Không biết có con nào bị không? Tôi gọi
to:
- Mấy con khỉ đó? Các anh yên tâm đi, không có
việc gì đâu!
Hai tên đứng sau tôi thở phào. Tên đại úy quay
lại vừa cười vừa nói: “Tụi nó tưởng con báo của anh..." Hai tên lính mang
tới cho con chó mấy khúc xương rồi cầm súng đứng canh thay cho bọn kia đi ăn.
Đợi bọn lính ăn xong, tên đại úy ra lệnh chuẩn
bị về. Mấy tên lính xếp đồ đạc của tôi vào ba lô. Nghe tiếng tên đại úy gắt gỏng:
"Đ.má! Ba cái thứ này đem lên hôm bốc mộ, nhét vào làm gì? Ê, đứa nào gọi
ra trực thăng báo đã đón được khách, đang chuẩn bị quay ra..."
Khi bọn lính đã sẵn sàng, tên đại úy bước tới
nói với tôi:
- Nào, ta đi anh Hảil Thế là anh đã thoát khỏi
rừng rậm rồi nghen! Chẳng có người lính nào bên phía các anh được hên vầy đâu!
Tôi nặng nhọc đứng dậy, bật rên một tiếng, tay
ôm sườn nhăn nhó.
- Sao vậy? Đau lắm hả? Liệu có đi được không -
Hắn sốt ruột hỏi dồn dập.
- Đi… đi… được… - Tôi loạng choạng bước lên mấy
bước, chìa hai tay hỏi - đại úy không trói sao?
- Không cần! Hắn uốn cặp môi mỏng - Tôi là người
quân tử, không làm ba cái việc nhỏ nhen đó. Và tôi tin lòng cao thượng của mình
sẽ...
- Đại úy tin ở con chó thì có! - Tôi độp luôn
- Ông thừa biết tôi không thể chạy thoát khỏi nó mà.
Hắn cau mặt định nói gì đó thì một tên lính chạy
tới hỏi:
- Thưa, có cần đốt cái chòi không ạ?
- Không cần! Ta sẽ còn quay lại.
- Hắn trả lời rồi khoát tay ra lệnh – đi!
Bọn lính tự động sắp xếp đội hình một cách
thành thạo. Một thằng cắp khẩu M.4 xách đèn pha đi trước. Tôi đi sau hắn. Theo
sát là con chó, hơi thở của nó hừng hực sau bắp chân tôi. Kế đó là tên lính dắt
chó. Bọn còn lại lục tục kéo theo.
Lúc bước ra bãi cỏ, nhìn thấy bóng mình mờ mờ
trên mặt đất đầy sương, tôi mới nhận ra đêm nay có trăng. Vầng trăng đang trôi
vùn vụt qua những dải mây mỏng, tỏa ánh sáng xanh lạnh lẽo xuống khắp rừng. Thế
là hết! Vĩnh biệt cánh rừng, con suối! Vĩnh biệt những con thú biết sống tình
nghĩa! Không ngờ mình lại chia tay với chúng một cách đột ngột như vậy. Lòng
tôi nhói lên khi nghĩ rằng chẳng bao giờ mình còn gặp lại những con vật đáng
yêu ấy. Đến sáng khi mặt trời lên, chúng sẽ nháo nhác chạy quanh tìm tôi, và
mãi mãi chúng không thể biết được chuyện gì đã xây ra trong cái đêm kinh hoàng
này. Nhưng thôi, lúc này không có thời gian để xao xuyến...
Tôi bước một cách vất vả, đầu căng ra cố tìm
cơ hội. "Có cách nào thoát được không? Bọn này bắn nhanh như máy... Con
chó theo sát quá! Tình thế này, họa chăng có phép màu mới chạy nổi..."
Đã bắt đầu đi vào dải rừng non. Có lối mòn,
nhưng trong mấy tháng mưa cây cối mọc um tùm, cành lá vươn dài quệt vào người
loạt soạt. ánh đèn quét loang loáng qua bụi rậm. Bọn đi sau xôn xao trò chuyện
vưl vẻ, nghe rõ cả tiếng cười he he của tên đại úy. Chúng đang phấn khởi. Cũng
phải thôi! Cuộc tập kích tưởng đầy căng thẳng chết chóc, không ngờ trót lọt một
cách nhẹ nhàng. Lại còn được chén căng bụng món thịt rừng, tuy hơi bị thiếu gia
vị nhưng vẫn ngon tuyệt…
Qua được nửa quãng rừng. Tôi vẫn lê từng bước.
Thằng đi sau chốc chốc lại mắng con chó để ghìm nó lại. Bọn chúng chẳng có gì
phải vội.
Gần hết rừng. Khoảng trời đằng trước sáng mờ
sau ngọn cây. Chỉ còn chục mét, vòng qua lùm cây này là bước ra tráng cát.
Không có cơ hội nữa rồi? "Bị địch bắt chưa phải là tình huống xấu nhất!
Không biết mình đã nghe ai nói vậy nhỉ?..."
Một tiếng "soạt" nhẹ trên nhánh cây
bên đường. Tôi nghiêng mặt liếc ngang, vừa kịp thấy bóng thú vàng đen lốm đốm
lao vút qua ánh đèn nhảy đè lên con chó. "Con báo!" Ý nghĩ mừng rỡ
lóe trong đầu như tia sáng.
Mọi việc sau đó diễn ra nhanh như chớp. Nghe động,
tên lính đi trước quay ngoắt lại thọc nòng tiểu liên vào ngực tôi miệng la hoảng:
"Ê, đứng yên mậy..." Tôi xoay người cho nòng súng trượt ngang trước
ngực, thuận tay chụp khẩu súng giật mạnh theo hướng chĩa của nó, đồng thời trụ
chân trái nghiêng người tống một cú đạp cực mạnh vào bụng dưới của tên lính. Hắn
bật ngửa người xuống đất. Nhưng trước khi buông rời khẩu súng, ngón tay đặt sẵn
trên cò súng của hắn đã kịp làm nổ một loạt đạn găm thẳng vào ngực tên dắt chó.
Thằng này bị bất ngờ, đang chĩa súng xuống cái đống hai con thú quấn lấy nhau
lăn tròn nhưng lúng túng chưa dám bắn, thì hứng trọn loạt đạn cướp cò.
Giật được khẩu tiểu liên, tôi quay nòng nã
luôn hai phát vào mặt tên lính lúc này đang nằm ngửa dưới đất, tay luống cuống
móc khẩu côn đeo ở thắt lưng. Trên mặt hắn hiện lên vẻ khiếp đảm trong một
thoáng, trước lúc bị hai phát đạn bắn gần làm vỡ toác ra. Một bựng máu phụt lên
trùm kín cây đèn pha rơi bên cạnh làm tất cả tồi sầm lại.
Chửng ấy việc diễn ra gần như cùng một lúc,
nhanh đến nỗi khi tôi xoay người lại, tên lính dắt chó tay đã buông rơi khẩu
súng nhưng còn loạng choạng chưa kịp ngã. Hai con thú vẫn xoắn tròn một cục đè
lên bụi cây răng rắc, tiếng con chó bị cắn cổ rít ằng ặc. Bọn đi sau xô lên khỏi
khúc quanh. Lối mòn chật hẹp, lại vướng cái thân hình hộ pháp của tên lính
trông như còn sống nên bọn chúng chưa kịp nhận thấy điều gì xẩy ra, và cũng
không dám bắn. Lợi dụng lúc đó, tôi chùng thấp người nấp sau cái xác xiêu vẹo,
hai tay nâng súng lên quá đầu chúc nòng nhằm bọn lính đang nhốn nháo bắn quét một
loạt dài. Chúng lăn ào ào tránh dạn. Tôi vọt luôn vào bụi rậm, miệng thét lớn:
"Chạy đi Aga".
Mới được mấy bước đã nghe súng nổ rào rào như
mưa. Tôi chúi đầu sát đất, lao như bơi trong đám cành lá rậm rạp. Đạn quét ràn
rát cắt lá rụng lả tả trên người. Khẩu súng trên tay vướng vào cành cây, tôi thả
rơi nó tiếp tục chạy thục mạng, không còn nhớ tới những chỗ đau trên người,
cũng chẳng hiểu vì sao mình không bị kẹt đầu vào một lùm cây nào đó.
Chạy được chừng bốn chục mét thì hết quãng rừng
non. Tôi nằm lại dưới chân một sườn dốc thoai thoải, há hốc mồm để thở. Đoạn dốc
này chỉ dài hơn chục mét, leo hết nó là có thể lăn xuống cái khe cạn dẫn lên ụ
đại liên. Nhưng lúc này đạn đang găm chiu chịu trên đó, vài viên chạm sỏi tóe lửa
bay vọt lên trời. Không được! Nhào lên là chết. Tôi quay ngoắt người lao ra khỏi
rừng, chạy chéo góc tráng cát lên đoạn dốc phía ụ súng. Mấy phút sau tôi đã lăn
nhào xuống lòng khe lổn nhổn đá. "Giờ hết lo đạn bắn thẳng..."
Như biết tôi vừa nghĩ gì, một khẩu M79 bắt đầu
bắn "chóc... đùng” điểm nhịp cho tiếng tiểu liên rền như tiếng máy. Những
quả đạn nổ nhằm hướng rừng, ánh lửa chớp nhoang nhoáng sau ngọn cây. “Chúng chỉ
bắn hả giận, bắn hú họa thôi chứ không dám đuổi theo trong rừng rậm. Đêm tối thế
này không lần vết được, con chó chắc chắn đã bị loại khỏi vòng chiến. Không biết
Aga có thoát được không?..."
Lúc này lại thấy bên sườn quặn lên, đau đến
nghẹn thở. "Chết rồi! Không khéo xương sườn gãy, mình vận động mạnh quá nó
cứa đứt mạch máu..." Tôi ôm sườn cố nén đau lần theo khe cạn đi nhanh về
phía ụ súng. Trên đó ngoài khẩu đại liên, tôi có để sẵn năm quả lựu đạn và cây
dao găm. Đối với bọn này, phải có súng đạn trong tay mới nói chuyện được.
Phía sau, tiếng tiểu liên đã ngừng, chỉ còn khẩu
M79 vẫn bắn đều đều, chớp đạn nổ ngày càng xa trong rừng. Chúng nghĩ tôi chạy về
hướng đó.
Tới ụ đại liên, tôi trườn vào bên trong mò mẫm
tìm cây gỗ chống giàn dây leo ngụy trang lên. Đã thấy sáng hơn. Cởi tấm lon bọc
ngoài, tôi chỉnh lại giá súng và quờ tay tìm thùng đạn đầy, mở nắp kéo dây đạn
lắp vào súng. Tốt rồi! Khẩu súng này tôi chỉ mới một lần bắn thử năm viên vào
hòn đá bên kia suối, nhưng lâu nay vẫn lau chùi cẩn thận nên tin chắc nó còn tốt.
Khi rê súng dọc theo tràng cát, thấy mấy sợi dây leo lòng thòng vướng tầm nhìn,
tôi phải leo lên dùng dao cắt nó đi.
Bọn lính vẫn chưa ra khỏi dải rừng non. Thấp
thoáng ánh đèn lóe sau rặng cây, lúc lúc lại có cây đèn quét một vệt sáng lên
trời. Chúng đang loay hoay với mấy thằng chết. Ít nhất cũng hai đứa. "Liệu
con báo có sao không? Mong cho nó thoát được..." Mới nghĩ vậy thì nghe tiếng
thở phì phì, rồi bóng nó hiện lên trên bờ ụ súng. Quên cả đau, tôi nhoài người
ôm lấy đầu nó kéo tuột xuống và sờ nắn khắp mình. Không thấy chảy máu. "Giỏi
quá Aga! Mày chính là phép màu kỳ diệu mà tao không dám mơ..."
Sực nhớ ra, tôi buông con báo leo lên bờ ụ
súng nhìn về hướng đồi cỏ. Trực thăng nhất định đỗ ngoài đó. Căn cứ số lính,
tôi đoán chỉ có một chiếc và hy vọng nhìn thấy bóng nó nổi trên nền trời, nhưng
không được. Sương xuống dày làm vầng trăng nhợt nhạt, chỉ tỏa ra ánh sáng nhờ
nhờ.
Bây giờ có hai tình huống. Nếu bọn địch kéo bộ
lên chỗ trực thăng đỗ, tôi phải bắn quét chúng dọc theo tràng cát, và phải diệt
gọn. Để tên nào chạy qua khỏi khoảng trống, coi như sổng. Tôi giương súng ngắm
thử. Trời tối không nhìn rõ đường ngắm, nhưng không sao! Hai thùng rưỡi đạn, chả
lẽ không diệt được bảy tên? Mà nếu còn sót thằng nào, nó cũng buốt xương sống tới
già. Còn trường hợp chúng gọi trực thăng đáp xuống tràng cát để đón, công việc
sẽ gọn ghẽ hơn nhiều...
Chúng ra kia rồi! ánh đèn quét loang loáng nơi
bìa rừng. Không nhìn rõ người, chỉ thấy bóng chúng kéo đi trong sương, âm thầm
như những bóng ma.
Đột ngột, tiếng động cơ rộ lên ngoài đồi cỏ.
Tôi quay ngoắt lại nhìn. Chiếc trực thăng từ từ bay lên, hằn bóng đen trên nền
mây sáng ánh trăng bàng bạc. Tôi lạnh người khi nhìn thấy nó vừa bay từ đỉnh ngọn
đồi mà cô gái đã đỗ máy bay hôm đầu tiên chở tốp lính lên đây. "Có phải cô
ấy?... Tim tôi đau nhói. Chẳng lẽ sự đời lại trớ trêu đến vậy sao? Trước mắt
tôi như hiện lên đôi mắt đen tròn ươn ướt và giọng nói dễ thương buồn buồn:
"...Còn gặp nhau nữa không anh?...Thôi em về đây! Đứng lại chút nữa chắc
em khóc òa lên liền à..." Chẳng lẽ chúng tôi gặp nhau trong tình thế này
sao? Và chính tay tôi bắn chết cả hai người con của ông Thành, hai người cháu của
anh Hai Nguyên?
Nhưng không thể chần chừ được nữa rồi! Cái
bóng đen đơn độc của chiếc trực thăng biệt kích vẫn lùi lùi bay tới. Dưới kia,
bọn lính đang nháy đèn làm hiệu, từng luồng sáng chớp tắt xuyên qua màn sương đặc
quánh.
Chiếc
trực thăng đổi hướng. Tới đầu tràng cát, từ bụng nó, một khối sáng chói lòa
hình chóp nón chợt bùng ra úp chụp xuống mặt đất. Nó bật đèn pha để tìm chỗ hạ.
Tôi nhẹ người như vừa trút được gánh nặng. Không phải Thủy! Cô ấy biết tôi có
khẩu đại liên chờ sẵn nên- không đời nào lại bay một đường bay dại dột như vậy,
không đời nào cô dám bật đèn pha ngay trước mũi súng của tôi. Chắc chắn là vậy
rồi! Tôi khấp khởi rê nòng súng bám theo nó. Giờ không sợ run tay khi bắn.
Chiếc trực thăng hạ xuống chính giữa tràng cát,
đèn pha ở bụng vụt tắt. Khoảng không tối sầm lại. Tôi nhắm mắt trong vài giây rồi
mở ra nhìn. Cái bóng của nó hiện ra nhờ nhờ trong màn sương. Không phải loại
HU, chiếc này có vẻ kềnh càng hơn.
Tiếng động cơ nổ nhỏ lại. Bọn lính đang lục tục
kéo đến. Cũng chỉ thấy những bóng đen lòa nhòa trong sương chứ không đếm được mấy
tên. Tôi giương súng ngắm. Cầu trời khấn phật cho khẩu súng đừng hỏng. Lúc này
mà súng hóc đạn xịt thì coi như số trời định vậy! Tiếng tim đập thình thịch
trong lồng ngực. Chưa lúc nào tôi thấy mình hồi hộp như lúc này. "Bình
tĩnh, đừng bắn vội! Chờ lát nữa..."
Bọn lính đã lên hết, không còn thấy ánh đèn lấp
lóe bên ngoài. Tràng cát tối om. Mặt trăng cũng chui vào một đám mây đen như sợ
phải chứng kiến cảnh tượng sắp diễn ra...
Tiếng động cơ lại dội lên. Và như sợ tôi ìạc mất
mục tiêu, một chiếc đèn hiệu màu đỏ bật sáng nhấp nháy phía dưới đầu máy bay.
"Chúng mày ngu quá! Tưởng tao chết rồi phải không?" Ít ra thì chúng
cũng nghĩ tôi đã chạy bạt mạng vào sâu trong rừng.
Chiếc trực thăng bắt đầu dâng cao như đang nổi
lên trong biển sương. Tôi nheo mắt nhích dần nòng súng theo. Năm mét... mười
mét. "Khoan, đừng nóng..." Mười lăm mét. Tôi nín thở, ngón trỏ co lại
trên cò súng. Hai mươi mét. "Bắn!" Tôi siết cò. Một vòi lửa phụt ra đầu
nòng súng và ngay lập tức biến thành đàn ong lửa chụp lên chiếc trực thăng. Nó
rùng mình cố bay vọt lên. Tôi căng người ghìm súng, ngón tay vẫn níu cò cứng ngắc,
mắt dán vào đường ngắm chỉnh cho luồng đạn không rời khỏi mục tiêu. Đã thấy rõ
những chớp lửa nháng liên tiếp trên vỏ máy bay. Chiếc trực thăng lảo đảo cố lết
ra khỏi vùng đạn lửa. Nó lết đến đâu dòng đạn xoáy đến đó. Sau ánh chớp đầu
nòng, tôi nhìn thấy từ bụng nó một vệt lừa trườn ra, liếm nhanh về phía đuôi Rồi
một tiếng "ùm" vang lên trầm đục: bình xăng nổ. Một đám lửa màu cam
cuồn cuộn trùm kín cả chiếc máy bay. Khẩu súng trong tay thôi rung, tiếng búa
súng gõ khô khốc, dây đạn đã hết. Tôi buông súng, mắt trừng theo đám cháy giữa
trời. Vài giây sau, từ trong quầng lửa lơ lửng, khúc đuôi máy bay từ từ đứt rời
ra và rụng xuống. Phần còn lại của nó vẫn bốc cháy rừng rực. Đột nhiên từ đám
cháy đó, một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên đỏ rực và chói lòa, kèm theo tiếng nổ
dữ dội rung chuyển cả trời đất. Trong khoảnh khắc, quả cầu lừa nổ tung thành
hàng trăm mảnh lửa to nhỏ tóe ra như pháo hoa. Rừng núi gần xa sáng rạng lên,
sóng xung kích lướt ào ào trên cỏ lau mang theo hơi nóng phả tới tận chỗ tôi đứng.
Vô số mảnh vỡ rơi rào rào, vung vãi khắp một vùng rộng.
Vụ nổ thật khủng khiếp. Mãi mấy phút sau tôi vẫn
còn đứng sững người nhìn lửa cháy rải rác trên tràng cát. Từ đống xác máy bay,
thỉnh thoảng lại có cụm lửa nhỏ tóe lên kèm theo tiếng nổ lốp đốp, ùng oang của
đạn và lựu đạn...
Rồi tất cả yên lặng trở lại. Trên xác chiếc trực
thăng, vài ngọn lửa cháy leo lét sáng xanh như ma trơi. Sương mù dày đặc vừa bị
xua khỏi vùng chấn động của vụ nổ, giờ đây ùn ùn tràn tới như muốn vùi lấp cảnh
chết chóc bằng màn bụi nước trắng đục màu sữa.
Mệt rũ người, tôi gục đầu xuống khẩu đại liên
còn nóng. Trong ụ súng nồng nặc mùi thuốc đạn. Lát sau gió lùa tới mang thêm cả
mùi xăng và mùi xác người cháy khét. Tôi ọe liền mấy cái rồi gập người nôn thốc
nôn tháo. Chỗ bị đánh bên sườn lại đau quặn lên. Ngồi tựa vào vách hầm, tôi cố
chịu đau lấy tay ấn vào mạng sườn để kiểm tra. Hình như bị gãy hai chiếc, mong
sao đừng chảy máu bên trong.
Mấy giờ rồi nhỉ? Chiếc đồng hồ vẫn còn trên cổ
tay nhưng tối quá không nhìn được. Trăng đã lặn. Sương càng đổ dày càng thấy lạnh.
Lúc này tôi mới nhận ra bộ quần áo trên người rách tả tơi, chỉ còn lại những dải
vải lòng thòng. Đám bụi nước giá buốt tràn vào ụ súng làm mùi khét dịu đi. Tôi
run lập cập ngồi ôm con báo cho có chút hơi ấm, chốc chốc lại ngóng ra ngoài
xem trời đã rạng chưa...
< Trước Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét