21/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 16)

Chương XVI

< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối



Ngồi bệt trên đỉnh đồi, tôi giương ống nhòm thích thú ngắm đàn bò rừng nhởn nhơ nơi đồi cỏ gần ngã ba suối. Phải đến ba chục con là ít. Trông xa rất dễ nhầm đấy là đàn bò nhà đang ung dung gặm cỏ, nhưng khi chỉnh ống nhòm nhìn kỹ từng con mới thấy khác. Những con bò rừng có phần ức nở nang, đôi sừng xoắn cong khoằm khoằm, toàn thân phủ lớp lông dài vàng sậm, dọc sống lưng lông dày rậm hơn và có màu nâu đen. Có cả mấy con nhỏ chạy tung tăng theo mẹ. Đàn bò này từ nơi khác đến chứ lâu nay tôi không thấy. Và chúng đến để rong chơi thì đúng hơn, vì dạo này cỏ đã khô sém đi dưới ánh nắng đầu hè. Phía ấy vẫn thấy có nhiều thú lớn, chắc cỏ ở đó tốt hơn. 

Lên khỏi ngọn cây một quãng, mặt trời nhỏ lại và tỏa nắng chói chang. Sương đã tan hết, đất ấm lên và không gian trong suốt. Gió thênh thang trên đồi, những ngọn cỏ màu hung nâu đung đưa nhè nhẹ. Vài gợn mây hồng nhạt lúc sáng mai giờ đang tan vào tầng không mênh mông. 

Trong ống kính, những con bò vẫn mải mê gặm cỏ. Lúc lúc chúng lại lồng lên đuổi nhau chạy rỡn. Đang định buông ống nhòm xuống, tôi chợt thấy mấy con bò lớn nghếch mõm nghe ngóng và bồn chồn gõ móng xuống đất. Rồi cả đàn bò bỗng lồng lên chạy. Lúc đầu tưởng chúng chạy về hướng con suối nhưng không phải. Một con, có lẽ là con đầu đàn, chạy vòng vòng cuốn theo những con khác, dần dần chỉ thấy một đám vàng đen lố nhố chuyển động xoay tròn. 
Chuyện gì vậy? Rê ống nhòm về hướng mấy con bò nhìn lúc nãy, thấy có vật gì đang di động. Tôi chỉnh tiêu cự để nhìn rõ hơn: một con cọp. Sắc lông vàng cháy của nó chập chờn trong cỏ. Không nhìn rõ chân nên trông con cọp như đang lướt trên triền dốc. Nó đã tới gần đàn bò.
Nhưng yếu tố bất ngờ không còn nữa. Cả đàn bò quây thành một đám tròn, những con lớn đứng ở vòng ngoài gằm gằm chĩa sừng ra. Giờ cọp ta chỉ còn nhìn thấy những u bắp và cẳng chân gân guốc, những tảng đầu gồ ghề với cặp sừng cong nhọn hoắt cùng những đôi mắt gườm gườm nẩy lửa. Con cọp bắt đầu chạy quanh, tìm xem chỗ nào có thể đột phá. Mỗi lần nó đổi hướng là cả đàn bò lại rùng rùng giẫm chân, nhưng cái khối tròn vẫn không hề suy suyển. Một bên phòng ngự kín kẽ, một bên cố tìm chỗ yếu tấn công. Mấy lần con cọp rạp chân gồng mình quật đuôi chờn vờn nhưng vẫn không dám chồm lên, không có cơ hội cho nó vồ mồi. Nếu đàn bò bỏ chạy, nhất định sẽ có con yếu sức chậm chân lọt vào móng vuốt nó, sẽ bị nó cắn cổ lôi đi. Còn lúc này, cái khối tròn lởm chởm sừng nhọn trước mặt là cả một sức mạnh đáng sợ. Đáng ra cọp ta phải dán mình trườn sát đất để tiếp cận đàn bò theo như bài bản săn mồi truyền kiếp, nhưng khoảng cách quá xa và sườn đồi trọc đã không cho phép nó làm điều đó. Hơn nữa con cọp đang độ sung sức, nó quá tự tin vào sức lực hùng mạnh của mình nên sử dụng tốc độ để đột kích, và bây giờ đành phải chấp nhận thất bại.
Sau khi vờn mấy vòng quanh đàn bò, con cọp bỏ cuộc. Nó thõng đuôi thất thểu chạy vào rừng, đi kiếm con mồi dễ săn hơn. Thịt bò tuy ngon đấy, nhưng đành đợi dịp khác, lúc đàn bò chia lẻ đi kiếm ăn trong rừng chẳng hạn. 
Tôi ghé lưng sát chiếc ba lô, quàng hai quai vào vai rồi chống gối ráng sức đứng dậy. Trong ba lô chỉ có chừng mười lăm cân đá cuội, nhưng đối với tôi lúc này nó nặng như trước đây cõng nửa tạ gạo. Sau trận ốm, tôi lại bền bỉ luyện tập. Ban đầu đi bộ từng chặng ngắn, sau tập chạy rồi tập mang nặng leo dốc. Mỗi ngày hai lần, sáng tinh mơ và lúc chiều xế. Sáng nay tôi leo đến đỉnh đồi cỏ phía trên tràng cát từ lúc mặt trời mới lên, nhưng đã ngồi lại khá lâu để ngắm đàn bò, mấy khi có dịp được nhìn thấy cảnh hấp dẫn như vậy. Giờ phải cố đi một mạch về đến nhà. Xốc lại chiếc ba lô lọc cọc sau lưng, tôi bậm môi choãi người bấm từng bước xuống dốc. 
Về tới bên chiếc bàn đá, tôi ngồi phịch xuống cố gỡ quai ba lô ra khỏi vai, há mồm thở dốc. Vậy là xong bài tập buổi sáng, giờ có thể nghỉ đến chiều. Nhìn tảng đá kê làm bàn, tôi biết còn lâu mới vác nổi nó như trước kia. Nếu nhanh cũng phải hết hè. Và như vậy lại thêm mùa mưa nữa trong rừng. Không sao! Tôi sẽ tập cho đến khi đủ sức quay về. 
Có thể nói mùa hè trong rừng năm ấy cũng dễ chịu. Ngoài những giờ tập ra, tôi không còn phải lặn lội đào đãi ngoài rừng vất vả như trước đây. Dòng suối trong mát, bóng râm dưới tán lá lúc ban ngày cũng như đống lửa ban đêm đã làm dịu bớt sự khắc nghiệt của khi hậu. Tập xong, nghỉ ráo mồ hôi là tôi nhảy xuống vũng suối tha hồ vùng vẫy. Buổi trưa, nếu không muốn ngủ trong nhà thì ra mắc võng dưới bóng cây nằm mơ màng chờ những âm thanh của rừng trưa ru vào giấc ngủ. Mùa này không cần trữ thức ăn. Tới bữa tôi mới xách súng vào rừng hoặc ra suối câu cá. Muốn ăn "sang” hơn phải chịu khó một chút, đi kiếm rau, bẻ măng, hái hoa quả hoặc lấy mật ong... 
Chiều tối, tôi đốt một đống lửa trên bãi cỏ, vừa nấu ăn vừa ngắm làn khói xanh lam bay lơ lửng lên vòm lá rồi hòa vào màu tím man mác của rừng chiều. Giờ này bầy khỉ cũng về tới. Chúng nô đùa nhảy nhót trên bãi cỏ trước lúc leo lên cây ngủ. Chỉ có khỉ già ngồi chồm hỗm trên hòn đá nhìn tôi đốt lửa, trầm tư như một cụ già ít nói. Dạo này nó cũng già lắm rồi, chòm lông bên thái dương đã bạc trắng. Trên nhánh cây con báo nằm liếm chân, đợi tôi gọi xuống ăn thịt nướng. Nó đã no mồi suốt ngày trong rừng nhưng vẫn thích nhấm nháp một miếng thịt nướng trước khi đi ngủ vì đã quen như thế từ nhỏ. Nói “nhấm nháp" là chỉ việc ăn thêm cho vui miệng, chứ kỳ thực nó nhai rau ráu cả xương lẫn thịt hoặc gặm sồn sột những khúc xương to.

Hoàng hôn, khoảnh khắc tĩnh lặng đặc biệt của rừng già, phút giao thời giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối rừng trở nên êm đềm trong tiếng chim nháo nhác gọi nhau bay về tổ. Nhưng chỉ lát nữa thôi, những âm thanh của cuộc sống ban đêm lại vang lên hối hả khi bóng tối lấp đầy mọi khoảng trống trong rừng. 

Ngày lại ngày, cuộc sống cứ bình thản trôi qua như thế. Nhiều lúc tôi có cảm giác như mình đã an phận ẩn dật nơi rừng xanh núi thẳm. Nhưng những đêm chợt thức giấc bởi tiếng cọp gầm à uôm bên kia suối rồi không sao ngủ lại được tôi nằm nghe tiếng mọt nghiến đều đều trong cây gỗ khô, tiếng quả đa rơi lộp bộp trên mái nhà, cảm thấy mình như lạc lõng chơi vơi, như chìm đắm mê man trong màn đêm sâu thẳm của rừng già. Những lúc đó, tiếng con mang tác đều đều trong rừng sâu nghe cũng buồn như tiếng trẻ khóc hời gọi mẹ nơi xóm nhỏ. 

Nếp sinh hoạt đều đặn, không khí trong lành cùng chế độ tập luyện tích cực đã giúp tôi phục hồi sức khỏe nhanh chóng. Đến ngày giỗ hai anh, tôi đủ sức đi một mạch về bên mộ, không phải dừng nghỉ dọc đường. Và tôi ăn khỏe lắm. Hầu như lúc nào cũng thấy đói. 

Nhưng cuộc sống nhàn nhã cùng hai năm không bóng giặc không bom rơi đạn nổ đã làm trơ mòn ý thức cảnh giác. Trước đây mỗi lần đốt lửa tôi phải đợi đến đêm, hoặc có nấu ăn ban ngày thì cũng chọn thứ củi thật khô và ít khói. Còn bây giờ tôi đốt bất cứ lúc nào, có lúc bứt cả cành tươi ném vào đống lửa cho khói mù lên xua đuổi những con bọ con muỗi đến quấy rầy. Những lần tập đi tập chạy trên cùng một lối đã tạo nên con đường mòn rõ mồn một từ nhà lên tới ngọn đồi cỏ phía trên tráng cát. Đã thế, tôi còn dùng dao phát rộng lối cho dễ đi. Đôi khi tôi ung dung đi bắn gà rừng ngoài đồi mà không hề e ngại những chiếc trực thăng có thể ập tới như ngày nào. Chẳng có ai, chẳng có cái gì nhắc nhớ tới việc giữ bí mật. Lúc này tôi chỉ lo một việc duy nhất là làm sao đủ sức quay về. 

Do thiếu muối nên cơ thể tôi kém dẻo dai, đầu óc lúc nào cũng bứt rứt, tay chân bải hoải, và lo nhất là mắt kém dần đi. Để khắc phục, tôi tính tới chuyện đốt cỏ tranh lấy tro ăn. Trong cuốn "Đất nước đứng lên" có kể đồng bào dân tộc tới bữa rút mái nhà đốt ăn thay muối. Có lẽ đã đến lúc áp dụng điều học được tử trang sách. Gì chứ cỏ tranh ở đây không thiếu. 

Thế là một buổi chiều lúc gần tắt nắng, tôi xách súng đi ra mé đồi phía trên gốc bồ kết. Ở đó có vạt cỏ tranh già cháy nắng tốt rậm như đừng, mà tôi tính có ăn cả đời cũng không hết. Lúc đầu chỉ định bứt một ôm về đốt ăn thử, nhưng ra tới nơi, tôi bỗng nảy ra ý định nhân dịp này kiểm nghiệm một điều khác cũng đọc được trong sách. Có cuốn sách nào đó đã kể, những con nai con hoẵng đi ăn đêm về thường tới nơi đồng bào dân tộc đốt rẫy để liếm muối trong cỏ tranh cháy. Tôi rút bật lửa đốt luôn vạt cỏ tranh. Mùa này khô nhưng gió thổi lên hướng đỉnh đồi nên không lo cháy rừng. "Gần sáng mình sẽ đến đây phục bắn nai!", tôi nghĩ thầm và bốc đầy một bao tro đem về. 
Bữa đầu tiên ăn thứ "muối" của rừng là một kỷ niệm đáng nhớ. Chẳng thấy mặn, chỉ có vị chát, và xàm xạp trong miệng như ăn... tro. Tuy không mấy hứng thú, nhưng về sau tôi vẫn chấm thịt nướng vào tro để ăn. Còn những lúc hầm thịt hay nấu canh rau thì không dám bỏ thứ muối ấy vào. Chỉ nhìn nó nổi lều bều đen đặc, đã thấy mất ngon. 
Tối hôm đó tôi không đi bắn nai như dự định. Phần nghĩ có bắn một con cũng không ăn hết, mà bắn con thú chỉ để thỏa ý thích tò mò thì không nên, phần tôi ngại cọp. Cánh rừng phía dưới ngã ba suối có con cọp to, chính cái con hôm trước ra đồi săn bò rừng. Dạo này nó đã mò lên gần đây, lúc chiều thấy dấu chân nó in trên tráng cát to như miệng bát. Không cần thiết phải xây ra một cuộc đụng độ, nhất là về ban đêm, khi mà mọi ưu thế đều thuộc về loài thú vốn được coi là chúa sơn lâm. 
Buổi sáng hôm đó cũng bình thường như mọi sáng khác, không hề có dấu hiệu nào báo trước cho tôi biết sắp xây ra một biến cố làm gián đoạn chuỗi ngày êm ả của cuộc sống ẩn dật bất đắc dĩ. Chim vẫn hót râm ran từ lúc hừng đông và mặt trời tỏa nắng gay gắt khi vừa ló dạng. 
Bảy giờ sáng. Tôi thả phịch ba lô đá xuống chân cầu thang, thở phào nhẹ nhõm. Đáng ra tôi về nhà sớm hơn, nhưng lúc đi vào dải rừng non gặp nhà khỉ láng giềng đang rối rít trên một lùm cây chi chít những quả chín hồng hồng đỏ đỏ, nên tôi dừng lại xem. Thấy chúng bứt quả ăn ngon lành, tôi cũng hãi ăn thử. Chẳng biết thứ quả gì mà mới ngửi mùi đã thấy buồn nôn. Rõ ràng khẩu vị của khỉ cũng có khác người.
Nghỉ ngơi một lúc, tôi ra suối tắm. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng rực rỡ xuyên qua làn nước trong vắt, soi rõ những hòn cuội trắng mờ dưới đáy vũng suối. 
Vừa lội xuống nước, chợt nghe có tiếng sấm ì ùng từ rất xa vẳng lại. "Mới sáng mà đã có giông! Chắc năm nay mưa sớm...". Nghĩ vậy nhưng tôi không bận tâm. Đằng nào cũng phải qua mùa mưa nữa ở đây. Tôi ngụp xuống nước, lặn một hơi tới tận chân tảng đá hình con voi. 
Tám giờ sáng. Tôi bước lên cầu thang, vừa đi vừa dùng tay phẩy tóc cho ráo bớt nước. Mới vào nhà, định nhen lửa nướng thịt ăn sáng, bỗng nghe tiếng lũ khỉ chộn rộn ngoài kia. Lê đầu ra cửa, tôi nhìn thấy chúng nhảy từ trên cây xuống bãi cỏ, hớt hải chạy về cây đa. Có biến rồi! Việc gì thế nhỉ! Thái độ lũ khỉ giống hôm chứng kiến vụ trăn mốc nuốt mẹ con báo hoa, nhưng hôm nay chúng chạy thẳng tới gốc đa bám thân cây trèo lên chứ không dửng lại trước nhà tôi. Chỉ có khỉ già lúc ngang qua có kêu lúc chắc mấy tiếng sợ hãi. Chẳng lẽ chúng gặp một con vật nguy hiểm nào đó? Trăn? Cọp? Phía trên dải rừng non, một bầy chim chừng năm sáu con vỗ cánh bay tán loạn. Đầu tôi căng lên. Sự nhạy cảm vụt trở lại và nhanh chóng hình thành mối liên hệ giữa thái độ của lũ khỉ với tiếng sấm ì ầm lúc nãy. Chết rồi! Tiếng trực thăng chứ không phải sấm. Khi đó tôi ngụp xuống nước, không nghe được lúc nó tới gần. Trực thăng đổ quân. Và toán quân này đi theo lối mòn qua tráng cát vào dải rừng non nên lũ khỉ trông thấy. Thú rừng vốn nhạy bén với sự nguy hiểm, dù là xa lạ.

Tôi nhảy hai bước vào nhà chụp thắt lưng đạn cài vào lưng, mang ba lô lên vai và xách súng mở cửa sau, túm lấy sợi dây mây nhún chân đu sang cây đa. Ôm được nhánh rễ phụ, tôi móc sợi dây vào đó rồi tụt xuống đất vòng ra phía sau, nơi có cái hốc giấu vũ khí. Nhanh lên, chúng sắp đến rồi! 

Chuồi ba lô và khẩu M.4 vào hốc cây, tôi với tay lấy khẩu AR15 tháo tấm nilon bọc ngoài, lắp băng đạn vào và kéo khóa nòng lên đạn. Sau đó, tôi gạt lớp lá khô, mở nắp thùng lựu đạn lấy năm quả cài vào thắt lưng. Chừng đó đủ rồi mang nặng quá khó vận động. 

Chọn chỗ nấp sau khúc rễ cây to tướng, tôi nằm xuống giương súng và chăm chú quan sát. Không hiểu sao tôi cứ mong có bọn thám báo xuất hiện chứ đừng phải trông thấy một con cọp bước ra bãi cỏ, trong người lại rần rần cái cảm giác vừa phấn chấn vừa hồi hộp như hôm nào rình bắn con trăn mốc. 

Nhưng lần này không phải đợi lâu. Chỉ sau vài phút, nơi bìa rừng non có mấy nhánh lá rung rung, rồi tên địch đầu tiên lấp ló sau bụi cây. Nó nhẹ nhàng toại người nằm xuống cỏ và nâng súng lên. Sau lưng nó xuất hiện một tên khác lăm lăm súng trong tay, mắt nhớn nhác nhìn quanh. 

Cách đó chừng chục mét một khóm cây khác lay động: lại thêm hai tên ló mặt ra. Phía sau còn không? Có lẽ đây chỉ là toán mở đường. Chúng là những con người đầu tiên tôi gặp sau hai năm vắng bóng đồng loại. 

Qua kính ngắm xa, cự ly một trăm hai mươi mét vụt gần lại còn vài chục mét. Xem nào! Mũ vải ngụy trang, áo quần loang lổ màu đất và màu cây lá, súng tiểu liên AR15 thắt lưng đạn, lựu đạn, hai khối hình trụ màu vàng chắc lựu đạn khói. Trang bị nhẹ của lính trinh sát. 
Tôi hướng kính ngắm vào mặt một tên: khuôn nhặt ngăm đen, bộ ria con kiến, trạc ba mươi tuổi hoặc già hơn một chút, đôi mắt láo liên đảo qua đảo lại gian xảo. Giá biết đang được "quay phim" chắc nó cố diễn xuất đẹp hơn, chứ lúc này điệu bộ nó trông rất xấu. Gì nữa? Cấp bậc thượng sĩ, phù hiệu lính dù. Chà! Đụng loại "thứ dữ” đây! 
Trong đầu tôi lướt nhanh một loạt các tình huống. Lính gì cũng thế thôi, không đáng ngại! Ở đây rừng là nhà tôi! Khi chúng bước ra bãi cỏ coi như sa vào bẫy. Diệt gọn tốp này không khó, nhưng phía sau còn bao nhiêu tên? Diệt bọn này, chúng sẽ đổ quân lùng sục. Có cần thiết phải đụng độ không, trong khi tôi có nhiệm vụ khác quan trọng hơn? Hay mình lẩn sâu vào rừng, đố chúng làm gì được! Có điều làm vậy sẽ không biết được ý đồ của địch, và những gì tìm thấy ở đây càng kích thích chúng tò mò hơn... 
Tuy nghĩ như vậy, nhưng tự trong thâm tâm tôi biết mình đang ao ước được tiếp xúc với con người, một nhu cầu mãnh liệt đến nỗi tôi không muốn bỏ đi, dù con người trước mặt lúc này là kẻ thù. Chả lẽ không có cách nào để nói chuyện với nhau mà không dùng tới súng đạn ư?...
Tốp lính đã phát hiện ra ngôi nhà. Hai tên ghìm súng yểm trợ, hai đứa khác lom khom tiến ra bãi cỏ. Ngang chỗ mấy gốc cây mọc giữa bãi, chúng nằm lại giương súng. Hai tên phía sau vượt lên. Rất bài bản! Lúc này có thể tỉa từng đứa dễ dàng, nhưng tôi chưa bắn. Để xem chúng còn làm gì... 
Bốn tên lính chỉ cách ngôi nhà một quãng ngắn. Một thằng vận động tới nấp sau chiếc bàn đá. Nó quan sát ngôi nhà khá lâu rồi giơ tay ra hiệu cho đồng bọn. "Hiểu rồi! Mày định ghé thăm nhà tao đây mà..." Tôi đoán không sai. Nó chạy mấy bước tới chân cầu thang và cắp súng vọt lên. Có tiếng chân đạp cửa. 
Một phút... hai phút... Nó làm trò khỉ gì trên đó mà lâu thế không biết! Tôi đâm cáu. Chẳng phải sợ nó lấy cắp mất thứ gì, (Có gì đâu mà lấy, cùng lắm chỉ mất mấy xâu thịt khô treo trên bếp) nhưng nhìn cảnh thằng giặc chạy xống xộc lên nhà mình, tức không chịu được! 
Kia rồi Đôi giày lính màu đen giẫm rung những bậc cầu thang. Xuống tới đất, tên lính cúi người trên ba lô đá. Hắn mở nắp ba lô, cầm một hòn lên săm soi vẻ ngạc nhiên rồi bỏ vào túi quần. Tôi buồn cười quá, nhưng cố nén. Tên lính xách súng chạy nhanh đến nấp sau gốc cây, ngoái đầu sang nói gì đó với đồng bọn. Tôi chỉnh kính ngắm vào mặt nó để đọc trên cặp môi mấp máy xem nói gì, nhưng không được. Lại cái thằng thượng sĩ lúc nãy, chắc hắn chỉ huy tốp lính này. 
Tôi đang phân vân thì tên thượng sĩ đã quyết định. Hắn rút quả lựu đạn cài ở thắt lưng đưa lên miệng cắn chốt. Thôi chết, thằng này định phá nhà. Tôi ngắm nhanh vào vai hắn và bóp cò. Muộn rồi! Phát súng nổ đúng lúc hắn rút xong chốt lựu đạn. Hắn nẩy người loạng choạng, cánh tay phải thõng xuống, quả lựu đạn rơi xuống đất. Trong một thoáng, hắn ngẩn mặt nhìn quả nổ chết chóc đang nằm giữa hai chân, làm như nó vừa trên cây rồi xuống chứ không phải của hắn. Đáng ra phải đá văng nó đi và lăn nhào để tránh, nhưng viên đạn bất ngờ găm vào vai đã làm hắn tê liệt mọi phản xạ. 
Một ánh lửa bùng lên ngay dưới chân thằng thượng sĩ, hất hắn nhảy dựng lên rồi ngã vật xuống trong đám khói bụi. Tiếng nổ dội rền rền trong rừng. 
Phát súng khai cuộc đã nổ. Sau vài giây choáng váng, ba tên còn lại giương súng bắn xôi xả vào gốc cây đa. Mảnh vỏ cây văng tung tóe, nhựa trắng chảy ròng ròng từ những vết đạn.
Đến lượt chúng mày! Tôi chọn thằng nấp sau hòn đá. Thằng này có vẻ kinh nghiệm, hắn bắn từng loạt ngắn chắc mạch. Tôi găm một phát vào cánh tay đang bóp cò súng, chỗ gần vai. Khẩu súng rơi xuống, tên địch ôm tay lăn nhào nấp sau hòn đá. 
Để mặc tên bị thương, tôi hướng nòng súng vào tên nấp sau gốc cây, lần này ngắm vào bàn tay đỡ súng. Viên đạn bắn trúng mu bàn tay, hất khẩu súng văng ra.
Hai phát súng vừa rồi đã giúp tên còn lại phát hiện được chỗ tôi nấp. Hắn bắn rát. Từng tràng đạn cắm phầm phập vào khúc rễ cây và bay chiu chịu trên đầu, khiến tôi phải ôm súng lăn mấy vòng ra sau gốc đa để tránh. "Oang... Oang”, chúng ném liên tiếp hai quả lựu đạn. Một quả nổ sát gốc cây đa, quả kia trúng nhánh rễ phụ bật ngược trở lại nổ trên bãi cỏ.

Lợi dụng lúc khói bụi mù mịt, tôi dán người sát đất trườn lui một quãng rồi bò nhanh sang vạt rừng phía bên phải. Ở đây rậm rạp, không không dễ gì phát hiện ra được. 

Nấp sau gốc cây, tôi thận trọng ló đầu quan sát. Hai tên bị thương đang cuống quít băng vết thương, tên còn lại vẫn giương súng bắn từng loạt quanh cây đa. Ngoài dải rừng non không thấy có bọn khác xuất hiện. Tốt lắm! Đến lúc phải săn sóc thằng đang bắn. Hắn nấp kín quá, chỉ nhìn thấy một bàn chân thòi ra. “Thì chân vậy!" Tôi ngắm vào chiếc giày linh màu đen và bóp cò. Hắn rụt chân nhanh như chớp và hét váng lên. 

Tranh thủ lúc đó, tôi xách súng lủi qua những lùm cây tiến đến gần hơn. Nhanh lên, càng áp sát càng tốt! Lỡ trực thăng tới yểm trợ... 

Có tiếng sột soạt phía sau. Tôi ngoảnh lại và suýt bật kêu mừng rỡ khi nhìn thấy con báo ló đầu ra. Lực lượng tiếp ứng đến thật đúng lúc. Tôi đang yếu, nếu phải cận chiến cầm chắc thua. Giờ thì khỏi lo rồi! Vẫn biết báo Aga đã quen với tiếng súng những lúc cùng tôi đi săn, nhưng thật bất ngờ khi nó dám chạy về tìm tôi giữa lúc súng nổ ầm ầm như thế này. Tôi xoa đầu con báo rồi tiếp tục luồn đi, lát sau đã đến bên hông tụi lính, chỉ cách hai chục mét. Hai tên bị trúng đạn ở tay đang gác súng lên mấy hòn đá bắn hú họa canh chừng cho tên kia tháo giày băng vết thương. Thằng này nhặt mày nhăn nhó méo xẹo, chứng tỏ hắn đau và hoảng hốt đến cực độ. 

Tôi trườn tới gốc cây giáp bãi cỏ. Mấy tên lính vẫn chưa hay biết gì, chúng đang hớt hải giục nhau rút. Một thằng cầm chiếc máy truyền tin đưa lên miệng. Tôi nâng súng, gạt sang nấc bắn liên thanh và thét to: "Bỏ súng xuống, giơ tay lên?" Tiếng thét kháo kháo nhưng cũng đủ làm cho tốp lính giật mình. Hai tên nấp sau tảng đá hoảng hết thả rơi súng, nhưng tên kia lại quờ tay định chụp khẩu tiểu liên đặt trên cỏ. Tôi bắn nhanh một loạt. Đạn cày tung đất cạnh nó, mấy viên xuyên vỡ báng súng làm tóe lên những mảnh nhựa màu đen. 

- Đừng liều lĩnh vô ích. Đưa tay lên! - Tôi lại quát, lần này dõng dạc hơn. 
Hai tên lính từ từ đứng dậy, nhưng chỉ có cánh tay lành là giơ được quá đầu. Tên bị ở chân vẫn ngồi trên cỏ giơ cả hai tay, mắt lấm lét. Tôi bước ra khỏi gốc cây, gằn giọng nói: 
- Nếu muốn giết các anh, tôi chẳng cần nổ súng lần thứ hai đâu. Muốn sống phải làm theo lệnh tôi, nghe rõ chưa? 
- Dạ... - Cả ba đứa li nhí, nhìn tôi sững sờ. 
- Cởi nịt đạn ra? - Tôi ra lệnh. 
Chúng luống cuống tháo thắt lưng đạn. Tên trung sĩ, kẻ bị bắn vào mu bàn tay, cởi luôn chiếc máy truyền tin đặt xuống cỏ. 
- Lùi lại năm mét. Đứng vào một chỗ. - Tôi lệnh tiếp. 
Hai tên đi giật lùi. Tên què chân chống tay lết, cuộn băng băng dở tháo ra trải dài trên cỏ, máu loang từng vệt đỏ sẫm. Tôi bước tới nhặt mấy thắt lưng đạn ném vào gốc cây và hỏi tiếp, giọng nhẹ hơn: 
- Các anh có mấy người? - Dạ... thưa... tụi em có bốn... - Tên trung sĩ trả lời run run. 
- Nói láo! Nếu đồng bọn của các anh xuất hiện, thì các anh là người chết trước đó? - Dạ, thiệt tình... tụi em chỉ bốn người. - Tên què chân trả lời... 
- Còn trên máy bay? 
- Dạ, có phi công. 
- Mấy người? 
- Dạ một ạ! 
- Thế lái phụ?
- Dạ bay tầm ngắn nên không cần lái phụ. 
- Thôi được! - Tôi nói - Giờ nghe đây! Tôi biết các anh là những người giỏi cận chiến, nhưng không đọ nổi với vệ sĩ của tôi đâu, nên đừng có giở trò làm liều, rõ chưa? 
- Dạ... - Cả ba ấp úng, mắt lấm lét nhìn con báo. Nãy giờ nó theo tôi như hình với bóng, thỉnh thoảng lại nhe răng gầm gừ vì ngửi thấy mùi máu tươi. Tôi phải vỗ vỗ lên đầu nó để trấn an. 
Tôi bắt ba tên lính quay lưng lại, bước tới soát người chúng cho chắc ăn. Mất cảnh giác với bọn này là mất mạng. Trong người chúng không có vũ khí. 
- Cho các anh ngồi xuống, băng lại vết thương đi! - Tôi giật mấy cuộn băng cá nhân cài ở nịt đạn ném cho chúng.
Trong lúc chờ bọn lính băng vết thương, tôi nhặt mấy khẩu súng tháo băng đạn ném vào một chỗ, kéo khóa nòng cho viên đạn trong súng rồi xuống cỏ. 
Đợi chúng băng bó xong, tôi mới hỏi tiếp: 
- Các anh lên đây làm gì? 
- Dạ... thưa... tụi em được lệnh thám sát... 
- Thám sát cái gì? 
- Dạ... tụi em chỉ làm theo lệnh... - Y ấp úng. 
- Nói rõ đi! - Tôi quát - Dối trá thì không còn được sống mà về đâu! 
- Dạ, - tên trung sĩ vội đáp - Máy bay trinh sát chụp ảnh, họ phát hiện ở đây có những dấu vết đáng ngờ. Bên tham mưu giao tụi em lên kiểm tra tại chỗ... 
- Dấu vết gì? 
- Dạ, trong ảnh chụp thấy có đốt lửa và có lối đi, mấy ổng nghi có người ở đây... 
- Ảnh đâu? 
- Dạ, để trên máy bay... 
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói: 
- Tôi sẽ kiểm tra lại điều đó. Nếu đúng vậy, sẽ cho các anh về. - Tôi cầm chiếc máy truyền tin đưa cho tên trung sĩ - Cho phép anh gọi trực thăng, nhớ dặn họ đừng có giở trò.

Tên trung sĩ cầm máy chưa kịp nói gì thì tôi nhặt mấy khẩu súng rỗng ném trả cho chúng: "Cầm lấy!" 

Bọn lính sửng sốt. Chúng không ngờ tôi lại rộng rãi như thế. Hoặc chúng đang căng óc cố nghĩ xem tôi là người thế nào? Áo quần như chúng, súng đạn đầy người và cũng hiện đại không kém, nhưng mặt mày đen sạm hốc hác cùng mái tóc dài buộc túm sau gáy thì giống người rừng? Lại còn con dã thú theo sát từng bước, chốc chốc lại nhe hàm răng trắng ớn nhọn hoắt với cái miệng đỏ lòm. Chừng đó đủ gây  ấn tượng mạnh hơn cả một nòng tiểu liên lăm lăm săn sàng nhả đạn. 

- Nhìn cái gì? Liên lạc đi! Tôi không thèm lừa các anh đâu! Thấy bọn lính cứ nhìn chăm chăm, tôi phát cáu. 

Tên trung sĩ vội bật máy gọi: 

- A lô! Anpha đâu? Đây Bê ta gọi Anpha. 

Trong máy có âm thanh trả lời, giọng eo éo nghe không rõ. 
- …Dạ, Bêta có ba người bị thương, thượng sĩ đã chết. Xin trực thăng xuống đón. 
Tiếng trong máy hỏi lại gì đó. Tên trung trả lời: 
- Dạ tụi em bị bắt... ở đây có một... - Y liếc nhìn tôi ấp úng. 
Tôi chìa tay. Y vội đưa máy cho tôi. 
- Phi công nghe đây! - Tôi gằn giọng nói vào máy - đồng bọn của anh có một người chết, ba người bị thương đang bị bắt giữ. Cho phép anh xuống đưa họ về... 
- Dạ thưa... - Tên trung sĩ xen vào. Tôi quắc mắt nhìn hắn: 
- Cái gì? 
- Dạ thưa quý anh, phi công là đàn... là... phụ nữ ạ! 
Tôi ngớ người kinh ngạc. Chuyện lạ! Xưa nay trên thế giới cũng có phụ nữ lái máy bay chiến đấu, nhưng ở Việt Nam thì đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến. Chà! Xưng hô thế nào nhỉ? Chị? Bà? Cô? Mụ?... Nói chuyện với đàn ông, dù là kẻ thù, vẫn dễ hơn. 
Trong máy có tiếng nói vọng ra. Giờ thì tôi biết đó là giọng nữ chứ không phải vì máy nên âm thanh khác đi: 
- Ông là ai? 
- Cứ gọi tôi là... người của rừng cũng được. - Tôi cười nhẹ - Chuyện đó đâu có gì quan trọng! 
- Làm sao tôi tin ông được?
- Nghe đây? - Tôi nói như quát vào máy làm mấy tên lính cũng giật mình - Tôi không cần cô tin hay không. Đồng bọn của cô có người bị thương cần được cứu chữa, người chết cần đưa về chôn cất. Cô có thể bỏ mặc họ mà về gọi thêm người tới đây nhưng tôi tin khi đó chỉ còn mấy khúc xương thôi. Ở đây thú dữ không thiếu, chúng đang ngửi thấy mùi máu tươi đấy? Chẳng lẽ cô... không có chút tình người nào với họ sao? 
Một lát im lặng. Rồi giọng trong máy hỏi lại: 
- Máy bay có thể đáp xuống ở đâu? 
Tôi quay sang hỏi tên trung sĩ: 
- Trực thăng hiện đỗ ở đâu? 
- Dạ trên đỉnh đồi... nơi có vạt cỏ cháy. 
- Hiểu rồi! Đấy là chỗ tôi vẫn thường ngồi nghỉ giữa chặng tập. Tôi nói vào máy: 
- Cách chỗ cô đang đứng khoảng hai cây số về hướng tây bắc có một tràng cát rộng nằm cạnh con suối. Tôi sẽ dẫn mấy người bị thương ra đó. Khi nào được gọi, cô cho máy bay đỗ xuống, rõ chưa? 
- Rõ rồi! - Giọng trong máy trả lời cộc lốc. 
Tôi đưa máy cho tên trung sĩ cầm để được rảnh tay, và nói với chúng:
- Các anh đi ra chỗ tràng cát, máy bay sẽ xuống đó. Còn người kia... - Tôi lưỡng lự - Thôi, để tính sau. Đi đi! 
Cả ba dìu nhau đứng dậy đi theo hướng tôi chỉ. Tên bị thương ở chân chống súng bước nặng nhọc. Lúc tới dải rừng non, tôi rút dao chặt một thân cây nhỏ có nạng đưa cho hắn: 
- Anh cầm chống đi cho dễ! 
- Cám... cám ơn... quý anh! - Hắn lắp bắp. 
Cho ba tên lính đi trước, tôi theo sau cách vài mét. Ra tới một phần ba tràng cát, tôi bảo cả bọn đứng lại rồi hỏi tên trung sĩ:
- Trên máy bay trang bị vũ khí gì? 
- Dạ không có. Trực thăng chở quân bình thường, không gắn súng. 
- Thế còn phi công! 
- Dạ, chị Thủy có cây ru lô. 
- Được! Anh gọi máy bay đi! 
Y mở máy gọi. Phía trên đồi có tiếng động cơ phành phạch. Một chiếc HU1A từ từ lên cao, chao nứa vòng rồi bay thẳng về hướng tôi. Bất giác tay tôi siết chặt khẩu súng. Cảm giác khi bị trực thăng săn đuổi ngày nào giờ như trở lại... 
- Anh nói máy bay đỗ giữa bãi. - Tôi bảo. 
Tên trung sĩ gọi vào máy. Chiếc trực thăng xuống thấp hạ càng chính giữa tráng cát, cánh quạt cuộn tung bụi mù mịt. Tôi cầm chiếc máy từ tay tên trung sĩ và gọi: 
- Phi công nghe đây! Tắt máy. Bước xuống đứng cạnh máy bay! 
Tiếng động cơ im bặt. Cánh quạt quay chậm dần rồi ngừng hẳn. Cửa bên mở ra, một người bước xuống. Cô ta gỡ chiếc mũ phi công bỏ lại vào buồng lái, tháo cặp tóc đưa lên miệng ngậm, hơi ngửa đầu lắc lắc cho mái tóc xõa ra rồi đưa cả hai tay ra sau vuốt tóc kẹp lại. 
Tôi hơi ngỡ ngàng. Không ngờ cái cô "giặc lái" này lại có những động tác đầy nữ tính đến như thế. Mà lại để tóc dài nứa chứ! Nếu tóc cô ta uốn, ép gì đó, chắc tôi không ngạc nhiên. Nãy giờ tôi vẫn hình dung trong đầu một mụ đàn bà cao to, tướng tá dữ dằn bặm trợn, cỡ trên ba chục tuổi. Cô này trông còn trẻ và thon thả.

Tôi quay sang bảo mấy tên lính: "Tới đi". Chúng thất thểu bước tới. Tôi theo sau. Lát sau tôi đã nhìn rõ cô ta: áo pilốt, quần lính, trạc hăm bốn, hăm lăm tuổi, khuôn mặt tròn tròn trông cũng... dễ coi. Cô ta đứng cạnh máy bay chằm chằm nhìn chúng tôi, có vẻ không sợ hãi gì.

Còn cách chiếc trực thăng một quãng ngắn, tôi ra hiệu cho bọn lính dừng lại rồi đi vượt lên, tới trước mặt cô gái và dừng chếch sang một bên để có thể kiểm soát được cả tốp lính. Cô ta nhìn tôi, lại nhìn xuống con báo lúc này vẫn theo tôi sát gót, vẻ ngạc nhiên lẫn tò mò. 

Không nói gì, tôi nhìn thẳng vào mắt cô ta và chìa tay trái ra, tay phải vẫn nắm chặt súng, ngón trỏ đặt hờ trên vòng cò. Hiểu ý, cô gái từ từ mở bao súng rút khẩu ru lô, cầm đầu nòng chìa báng đưa cho tôi. "Lịch sự gớm nhỉ!". Tôi thoáng cười, cầm khẩu ru lô bấm chốt lắc ổ đạn ra, dốc cả sáu viên đạn rơi xuống cát rồi vẫy tay hất ổ đạn sập trở lại và đưa trả. Cô ta nhận súng, nét mặt hiện chút sửng sốt nhưng ngay lập tức trở lại bình thản. 

- Nghe tôi hỏi đây! - Tôi nói chậm rãi - Các người tới đây làm gì? 


Cô ta im lặng, ánh mắt lộ vẻ thách thức. Tôi cười khẩy: 
- Cô có thể không trả lời. Chẳng qua tôi đã hứa với mấy người kia là sẽ để cho họ sống nếu nói đúng sự thật, giờ chỉ kiểm tra lại thôi! 
- Chị Thủy... - Tên bị thương ở chân kêu lên. Cô ta lạnh lùng trả lời: 
- Tôi được lệnh chở những người này tới đây, thế thôi! 
- Tấm không ảnh đâu? - Tôi hỏi luôn. 
Cô ta ngạc nhiên nhìn mấy tên lính nhưng không nói gì chỉ quay người với tay lên buồng lái lấy xuống chiếc cặp mỏng, thản nhiên đưa cho tôi. 
Một mặt chiếc cặp làm bằng mi ca trong suốt. Tấm ảnh đen trắng to cỡ trang sách cài trên tấm bản đồ bay. Tôi nhìn qua và hiểu ngay: trong ảnh là một vùng đồi núi được chụp từ trên cao, thấy rõ cả mảng đen của cỏ cháy và lối mòn lờ mờ ngoằn ngoèo. 
Tôi xem tiếp tấm bản đồ bay: đường bay kẻ bằng chì xanh, xuất phát từ Đà Nẵng chạy dịch dắc qua mấy điển cao, chắc để dễ định hướng, rồi kết thúc ở điểm có dấu chì đen. Tôi định thu tấm bản đồ, nhưng sau lại thôi. Thứ này chỉ dùng cho những kẻ "đi mây về gió". Hơn nữa, nó chỉ có vùng từ vĩ tuyến mười sáu trở vào. 
Đưa trả cô ta chiếc cặp, tôi hỏi tiếp: 
- Cô bay tới đây mấy lần rồi? 
- Lần đầu? - Cô ta đáp cụt lủn.  
- Trong kia có một người chết, cô nên đưa xác anh ta về. Trên máy bay có băng ca không? 
Cô ta không nói, chỉ gật đầu. 
- Lấy xuống đây? - Tôi ra lệnh, đã thấy bực mình nhưng cố nhịn. "Được rồi! Thế nào cũng phải cho cô ta một bài học..." Tôi tự nhủ, nhưng bài học gì thì lúc này chưa nghĩ ra. 
Cô ta mở cửa hông máy bay lôi xuống chiếc băng ca khung nhôm, loại gấp được. Tôi liếc mắt, thấy trong khoang máy bay trống trơn. 
Quay sang tên lính bị thương ở chân, tôi nói: 
- Anh ở lại đây. Nếu sợ cọp thì leo lên máy bay mà ngồi. Còn hai anh kia đi theo tôi. Cả cô nữa, xách băng ca theo. 
Cô ta không nói gì, định vác chiếc băng ca lên vai, nhưng tên trung sĩ đã đưa cánh tay không bị thương đỡ lấy: "Chị để em!" Giọng anh ta có vẻ kính nể, mặc dù cô gái trông ít tuổi hơn. 
Tôi đi trước, ba "vị khách" theo sau. Báo Aga uyển chuyển sãi bước bên cạnh. Bọn chúng sẽ không dám phản phúc, ít nhất cho đến lúc đưa được xác tên kia về.
Mười giờ trưa. Mặt trời đổ lửa xuống tràng cát, hơi nước bay lên thành những lớp không khí lung linh. Bọn chúng tôi, hai lực lượng đối địch, đi bên nhau dưới cái nắng chói chang. Hai tên lính bị thương bước nặng nhọc. Tôi biết chúng mệt, nhưng không còn cách nào khác. Chả lẽ chỉ tôi với cô ta lẽo đẽo kẻ trước người sau khiêng cái xác? Vả lại, không phải giải quyết hậu quả do chính chúng gây ra. 
Qua khỏi dải rừng non, chúng tôi đến bên xác tên thượng sĩ. Quả lựu đạn nổ làm hai chân hắn nát bấy. Ruồi nhặng vù vù trên vũng máu đen đặc. Bầy kiến kéo tới bu đầy cả trên mặt, trên đôi mắt lúc này đã trắng dã nhưng vẫn mở trừng trừng như còn kinh sợ. Tôi nhặt khẩu súng gãy và cởi nịt đạn đem tới bỏ vào đống vũ khí thu được lúc nãy, bảo hai tên lính vuốt mắt cho kẻ chết. Cả hai luống cuống làm mãi không được. Tôi đành gạt chúng ra, đặt bàn tay lên đôi mắt của xác chết, để một lúc rồi vuốt cho chúng nhắm lại. Mấy tên lính thuỗn mặt đứng nhìn. 
Chúng tôi hì hục vần cái xác. Cô gái cũng định mó tay vào nhưng tôi gạt đi. Dù sao cô ta cũng là phụ nữ. 
Đặt được cái xác lên băngca, tôi bảo cả bọn đứng đợi, lên nhà lấy bi đông nước xuống đưa cho hai tên lính. Chúng mừng rỡ cảm ơn rối rít, nhưng chưa uống ngay mà trao cho cô gái:
- Chị Thủy uống nước? 
- Các anh uống đi, tôi không khát! 
Cô ta trả lời, đưa mắt nhìn ngôi nhà và cảnh vật xung quanh vẻ ngạc nhiên. Lúc nhìn xuống dòng suối, cô ta mở tròn đôi mắt thích thú, mặt rạng nét hồn nhiên đến ngây thơ. Nãy giờ tôi vẫn kín đáo quan sát cô ta, vì tò mò hơn là cảnh giác. "Con gái trẻ thế mà lái được trực thăng...", trong lòng tôi không khỏi thán phục. Đối với tôi, lái trực thăng là một lĩnh vực quá ư phức tạp. Bắn rơi nó dễ hơn nhiều. Càng lúc càng thấy cô "giặc lái" này thật khó hiểu. Không rõ cô ta cấp bậc gì, nhưng chắc không phải loại vừa vì tụi lính tỏ ra kính nể thật sự.

Chúng tôi, bốn người nắm bốn góc băng ca khiêng cái xác ra máy bay. Lúc này tôi rất mệt. Sức tôi còn yếu, sáng nay chưa ăn uống gì. Trận đánh vừa rồi tuy đơn giản nhưng hết sức bất ngờ làm đầu óc căng thẳng, giờ lại luôn ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. "Dù sao cũng đỡ hơn là phải đào hố chôn xác tụi nó...". Tôi tự an ủi và nghĩ xem có thể khai thác được gì ở tốp lính bại trận này.

Có thể chúng khai đúng, đây chỉ là một cuộc trinh sát bình thường. Bức không ảnh cùng chiếc trực thăng không vũ trang nói lên điều đó. Hơn nữa, tốp lính ít ỏi, trang bị nhẹ và hoàn toàn bị bất ngờ khi chạm súng. Nhưng có mối liên hệ nào giữa chuyến bay hôm nay với những chiếc trực thăng tới đây từ hơn hai năm về trước? Nếu có, chắc gì tụi này đã biết? Chúng chỉ là những quân tốt đen trên bàn cờ. 

Đẩy được cái xác lên máy bay, tôi đưa tay áo gạt mồ hôi, nói với cả bọn: 

- Các người nghe đây! Tôi làm tất cả những việc này vì lòng nhân đạo, chứ đúng ra các người không đáng được đôi xử như vậy khi vô cớ dùng súng đạn tấn công vào một con người sống đơn độc giữa rừng... 

Mấy tên lính cúi rặt, cô gái vẫn nhìn tôi chăm chứ. Không hiểu cô ta nghĩ gì? Tôi nói tiếp: 

- Chắc các người muốn biết tôi là ai, và vì sao sống ở đây? Chẳng có điều gì phải giấu. Tôi sẽ nói cho các người biết để thỏa trí tò mò và để có cái về báo cáo với cấp trên. Tôi là một người lính Giải phóng lạc trong rừng, đã ở đây hơn hai năm nay. Vạt cỏ cháy do tôi đốt, lối mòn này tôi đi như các người thấy tận mắt. Các người là những con người đầu tiên tôi được gặp sau hai năm vắng bóng đồng loại. Hai năm... tôi khao khát một giọng nói, một tiếng cười nhưng các người chỉ đem đến đây sự chết chóc... Mà thôi! Các người chẳng hiểu được đâu! Nhưng tôi cũng nói luôn: bất cứ kẻ nào đến đây với mục đích làm hại tôi, sẽ bị đánh trả quyết liệt. Nào, có ai muốn nói gì trước lúc chia tay không? - Tôi nói giọng châm biếm. 
Viên trung sĩ lên tiếng: 
- Dạ thưa... xin cám ơn quý anh... Mong quý anh thông cảm, tụi em chỉ làm theo lệnh... 
Tôi ngắt lời hắn: 
- Tôi biết! Các anh là lính mà! Nhưng các anh nên nhớ, trước khi bóp cò súng, cần phải biết mình bắn vào ai và để làm gì? Chúng ta là những con người cả, đừng tự biến mình thành người máy chỉ biết bắn giết... - Tôi chợt muốn bật cười với bài "hùng biện” có vẻ không đúng lúc của mình - ... Còn cảm ơn thì không cần thiết. Chính các anh bị thương vì viên đạn tôi bắn, đúng không? 
Tên lính què chân nãy giờ nhoài người ra cửa máy bay hóng chuyện, nay cũng chen vào: 
- Dạ thưa... tụi em cám ơn vì quý anh đã tha chết... Mà bị thương thế này chắc em sẽ được giải ngũ... 
Anh ta khấp khởi. 
Trời trưa gần tròn bóng. Cuộc trò chuyện kỳ lạ đúng là diễn ra giữa "thanh thiên bạch nhật”. Tôi nói, giọng khản đặc: 
- Còn việc nữa! Cách đây hơn hai năm có một chiếc trực thăng rơi ở đây. Cả ba người trong máy bay đều chết. Nhờ các người về báo cho gia đình hoặc đơn vị họ lên đem hài cốt về quê quán... - Tôi nói đều đều, hơi ngạc nhiên trước sự sững sờ của ba người linh và vẻ mặt tái xanh của cô gái. Theo tôi biết, phi công tên Trà, hai người kia tên Lộc và Tình, người của không đoàn Sáu. 
Cô gái lảo đảo vịn tay vào cửa máy bay, miệng lắp bắp "Sao... sao lại... ở đây?..." 
Tôi nhìn cô ta: 
- Cô biết họ phải không? 
Cô ta chúi đầu vào cánh tay không nói được, đôi vai rung rung. Tôi đưa mắt cho mấy người lính ra ý hỏi. Lúc này họ đã xô đến gần nghe chuyện. Viên trung sĩ nói: 
- Dạ thưa... nếu đúng vậy thì... đấy là máy bay của anh chị Thủy. 
- Anh? Anh ruột? - Tôi ngạc nhiên kêu lên. 
- Dạ phải! 
"Đúng là quả đất tròn! Gặp "oan gia" rồi!". Tôi nhìn cô gái, nghĩ thầm. Cô ta ngước đôi mắt ướt đẫm, hỏi lại như chưa tin: 
- Anh nói... anh Trà chết ở đây? 
- Đúng vậy! Tôi có xem giấy tờ. Nhưng tại sao khi máy bay mất tích mà không ai đi tìm? - Tôi hỏi, nghĩ giờ đây chắc sẽ giải đáp được thắc mắc ám ảnh suốt mấy năm nay. Dạ có tìm... nhưng không biết ở đây... - Cô ta lại khóc nức lên. 
- Cô có thể nói rõ hơn được không? - Tôi sốt ruột. 
Trưa nắng nóng, cái xác đang bốc mùi tanh nồng khó chịu. 
- Anh ấy... bay tiếp tế... - Cô ta nghẹn ngào không nói được. 
Viên trung sĩ xen vào: 
- Dạ, để em kể cho quý anh rõ. Hôm đó ảnh bay đi tiếp tế cho tụi em mà...


Sắp xếp những lời kể khá lộn xộn của viên trung sĩ, tôi được biết như sau: Tiểu đội thám báo của y chốt ở một điểm cao gần A Sầu đã hơn mười ngày. Lương thực hết. Họ gọi lên máy bay thám thính yêu cầu điện về nhà xin tiếp cứu. Ngày hôm sau, họ gặp một đại đội bộ binh hành quân qua, bèn điện xin ý kiến trung tâm chỉ huy và nhập vào toán quân này xuống Huế. Hơn tuần sau họ về tới căn cứ và được biết một chiếc trực thăng bay đi tiếp tế cho họ bị mất tích. Chiếc trực thăng này khi bay được nửa đường thì nhận lệnh từ căn cứ gọi quay về vì toán thám báo đã rút. Đó cũng là lần liên lạc cuối cùng. 

- Thế sao không đi tìm? - Tôi hỏi 

Cô gái giờ đã bình tĩnh hơn, trả lời: 

- Không đoàn tổ chức bay tìm mấy tháng liền. Không ai nghĩ ảnh bay lên tận đây. Các đơn vi đồn trú dọc đường bay của phi vụ hôm đó cũng được lệnh tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Họ nói chỉ thấy máy bay lúc bay đi... 

- Đúng vậy đó, thưa quý anh! - Viên trung sĩ xen vào - Sau khi máy bay mất tích, chị Thủy xin ra đội bay để đi tìm... 

Cô gái cắt ngang lời kể của y: 
- Thưa, mộ anh em ở gần đây không ạ? Em lên đó được không? 
Tôi liếc nhìn đồng hồ, trả lời: 
- Cô nên trở về. Những người bị thương cần được cứu chữa, để lâu vết thương sẽ nhiễm trùng. Còn nếu cô và gia đình mấy người kia muốn đem hài cốt về, lên đây tôi sẽ giúp. 
- Dạ thế nào em cũng lên. Ba em hai năm nay cứ ray rứt hoài nên sanh bệnh... Mà anh cho khi nào? 
- Tùy cô thôi! Nhưng nên lên sớm vì mùa mưa sắp đến rồi. Cô sẵn máy bay, lo gì. - Tôi nói pha chút mỉa mai. Cô này dám thuộc loạt "con ông cháu cụ” đây!
- Dạ, nếu được thì ngày mai... không, chắc phải ngày kia.
- Được! Tôi đợi trong vòng một tuần. Nên lên đây vào buổi sáng. Tôi muốn máy bay không vũ trang, người không mang vũ khí. Cô yên tâm, xuống đây tôi sẽ bảo đảm an toàn cho mọi người. 
- Em hiểu! Nhưng làm sao tìm được anh? 
Tôi chỉ vào cái máy viên trung sĩ đang giữ: 
- Máy này liên lạc được bao xa? 
- Dạ, nghe rõ trong năm ngàn mét nếu liên lạc với máy bay ở trên không. Ở mặt đất còn tùy địa hình. 
- Được rồi, đưa máy đây? Khi cô tới, liên lạc với tôi qua máy. Nếu có trục trặc, ví dụ máy hỏng, máy bay có thể đổ xuống nhưng người không được tự tiện đi vào rừng. Bây giờ các người về đi! 
Mấy người lính gần như đồng thanh: "Dạ, xin cám ơn quý anh”. Cô gái chỉ hơi cúi đầu chào rồi bước lên máy bay. 
Đang định bước đi, tôi chợt nhớ ra một việc nên quay lại nói: 
- Khoan đã, đợi chút? - Tôi cởi chiếc đồng hồ đeo trên tay đặt vào tay cô gái - Đồng hồ của anh cô! Cô giữ lấy! 
Cô ta nhìn chiếc đồng hồ, lật mặt sau ra xem, ánh mắt ngân ngơ: 
- Của anh Trà đây mà! Ảnh mua nó hồi đi tu nghiệp... 
Tôi biết mặt sau đồng hồ có khắc dòng chữ: "Okinawa-1967” 
Mặt trời lên tới đỉnh đầu. Tôi quay lưng đi thẳng một mạch vào rừng, tin chắc không có họng súng nào nhắm theo, cho dù họ có đạn. Lúc vào tới dải rừng non mới nghe tiếng động cơ nổ. Chiếc trực thăng từ từ bốc lên cao rồi bay đi.

< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét