04/01/2015

ĐỨC TỪ BI VÀ NHẪN NHỤC




   Từ bi và nhẫn nhục là hai pháp tu tối thiết yếu của người Phật tử cũng như người xuất gia. Từ bi là ban vui cứu khổ. Người có lòng từ bi là người thương tất cả chúng sinh bình đẳng như nhau. Vì thương mọi người nên đem hết tâm tư sức lực của mình làm cho mọi người được vui, hết khổ nên gọi là ban vui, cứu khổ.


   Ở đời ai không có khổ, hoặc nhiều hoặc ít thôi. Chư Phật và Bồ tát thương muốn cho chúng ta hết khổ nên các Ngài dạy chúng ta tu. Vì vậy, từ bi là hạnh thiết yếu trong đạo Phật. Kế đến là nhẫn nhục. Bởi có từ bi mà thiếu nhẫn nhục thì không bao giờ thực hiện được hạnh từ bi. Nhẫn nhục lúc nào cũng ở bên cạnh từ bi, không thể riêng rẽ được, nên tôi giảng chung từ bi và nhẫn nhục.



 Trong kinh Pháp Hoa, Phật có dạy: "muốn vào nhà Như Lai tức phải có lòng từ bi, muốn mặc áo Như Lai tức phải nhẫn nhục". Tóm lại, muốn vào nhà Phật, mặc áo Phật phải tu hạnh từ bi và nhẫn nhục. Nếu không có từ bi, không có nhẫn nhục thì không thể vào nhà Phật, mặc áo Phật được. Nên người Phật tử thiếu từ bi thì chưa phải Phật tử. Đây là vấn đề mà quí Phật tử cần phải hiểu.



   Nói từ bi theo nghĩa cứu khổ ban vui, quí Phật tử cảm thấy khó hiểu. Để gần gủi và dễ hiểu hơn, tôi có thể nói từ bi là tình thương, vì mọi người chứ không phải vì mình. Chúng ta ai cũng có tình thương, nhưng tình thương vì mình nhiều hơn vì mọi người. 
   Ví dụ, ta đi đâu trễ xe hoặc trễ đò, có một người tử tế mời vào nhà uống nước, ăn cơm để chờ tới chuyến đò, chuyến xe sau. Họ đối xử rất tốt nên ta nói người đó dễ thương quá. Tại vì họ tốt với mình nên mình nói dễ thương. Nếu người ấy xấu với mình thì mình không thương. Như vậy để thấy tình thương của chúng ta đi đôi với bản ngã. Tình thương đó không gọi là từ bi. 



   Đến bao giờ chúng ta thấy người lem luốc, xấu xí, không lễ độ, đói khổ mà ta vẫn thương; chúng ta cho chén cơm, ổ bánh mì, dù họ không cảm ơn nhưng chúng ta vẫn thấy vui. Đó là tình thương của lòng từ bi, thấy người khổ mình thương, mình giúp mà không cần đền đáp. 
   Là người Phật tử biết học Phật, tu Phật thì nên tập mở rộng tình thương. Ai khổ, ai đói thì chúng ta thương, không vì bản ngã, không đợi người giúp mình, mình mới thương lại. Đó là tình thương của lòng từ bi. Còn vì mình thì chưa phải từ bi. Nên hiểu cho tường tận, chữ thương người nầy, thương người kia rồi cho đó là từ bi là không thể được.



   Bởi lòng từ bi hệ trọng như vậy nên người Phật tử bước chân vào đạo nên tập mở rộng lòng thương mọi người. Đó là tập tâm từ bi. Có tâm từ bi rồi chúng ta mới có thể tiến tu được. Còn chưa có lòng từ bi thì không thể nào chúng ta tiến được trên đường tu.



   Tại sao từ bi phải đi đôi với nhẫn nhục? Như ở thế gian có người con hiếu thảo, thương cha mẹ nhưng vì gia cảnh nghèo làm không đủ ăn. Bấy giờ giám đốc một xí  nghiệp nhận vào làm, trong xí nghiệp anh ta bị rầy, bị quở nhiều thứ, xúc chạm tới tự ái. Nhưng vì thương cha mẹ thiếu thốn nên vẫn chịu đựng, nhịn nhục làm có tiền để nuôi cha mẹ. Do đó, phải ẩn nhẫn, cực khổ, nhục nhã chứ không dám bỏ việc…



   Như vậy, tình thương giúp cho chúng ta có sức chịu đựng, sức nhẫn nại. Đó gọi là nhẫn nhục. Nếu chúng ta không thương cha mẹ, thì khi gặp cảnh bị rầy la, khinh bạc liền bỏ quách, cần gì phải làm, chỗ nầy không được kiếm chỗ khác. Nhưng vì thương cha mẹ cho nên nhẫn chịu mọi sự phiền hà, xúc chạm. Đó là vì tình thương mà phải nhẫn nhục…



   Một ví dụ nữa, như người phụ nữ gặp ông chồng bạo hành, nhưng đã có với nhau hai, ba mặt con. Người chồng bạo hành, chịu hết nổi thì lẽ ra phải ly dị nhưng vì thương con, sợ con bơ vơ không còn đủ cha mẹ, việc học hành sa sút v.v… thương con mà nhẫn nhịn sự bạo hành của chồng. Như vậy, cũng vì tình thương mà phải chịu đựng. 
   Trường hợp trước là người con hiếu, vì thương cha mẹ mà nhận chịu mọi sự khó khăn, khinh bỉ. Trường hợp sau vì thương con mà không bỏ được người bạn từng hành hạ mình, chịu đựng mọi điều v.v… Nên biết, nhờ tình thương mà người ta có thể nhẫn chịu những cái khó nhẫn. Nếu không có tình thương thì chắc rằng con người sẽ không đủ sức vượt qua những cảnh khó khổ.



   Sống trong đời chúng ta muốn làm điều lành, điều tốt nhưng chắc gì được mọi người tán thán. Cho nên muốn làm điều lành, điều tốt để giúp mọi người, thì trước chúng ta phải tập có lòng thương mạnh mẽ đối với mọi người. Đó là từ bi. Kế phải có sức nhẫn nại, chịu đựng những khó khăn. Chúng ta không nên hiểu lầm nhẫn nhục là điều xấu, theo quan niệm của nhiều người, nhẫn là phải chịu nhục.



   Theo tôi thì không phải vậy. Nhẫn nhục là một sức mạnh chớ không phải yếu đuối. Thế gian thường cho rằng người làm việc gì bị la rầy, quở mắng nhưng vẫn ráng chịu đựng là người yếu đuối, nhu nhược, vì không dám chống cự lại, đôi khi còn bảo là ngu. Nhưng trong đạo Phật không phải vậy. Đạo Phật dạy nhẫn nhục là một sức mạnh. Nếu chúng ta để ý sẽ thấy rõ ở những ngôi chùa xưa thường viết câu: Đại Hùng Bửu Điện, tức là Điện Báu thờ đức Đại Hùng. Đức Phật là đấng Đại Hùng, nhưng Ngài có đánh dẹp ai đâu mà tôn vinh là Đại Hùng?



   Trong kinh Pháp Cú, Phật có dạy thế nầy:
Thắng một vạn quân không bằng thắng mình
Thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.



   Nghĩa là người nào thắng được mình mới gọi là người hùng. Thắng giặc bên ngoài chưa phải là hùng.    Như vậy, nhẫn nhục là việc dễ hay khó? Bị người sĩ nhục, mắng nhiếc ta, ta sĩ nhục mắng nhiếc lại là dễ hay nhịn nhục là dễ? Mắng lại là dễ chớ bỏ qua khó lắm. Đừng nói chi người lớn, trẻ con khi bị hiếp nó tức giận la lối hay làm thinh dễ? Như vậy khi trái ý, nổi giận la lối con nít cũng làm được, còn nhẫn nhịn người lớn đôi khi làm chưa nổi nữa. 
   Qua đó thì biết cái nào khó! Khó mà làm được nên gọi là Đại Hùng. Đức Phật được gọi là Đại Hùng vì ngài nhẫn được những điều khó nhẫn.



   Trong kinh kể lại, có lần đức Phật trên đường du hóa, một thầy Bà la môn lẽo đẽo theo sau chửi nhưng Phật cứ thong thả đi. Ông tức giận quá chận lại hỏi:
   -Ngài Cồ Đàm! Ngài có điếc không?
   Phật đáp: 
   -Không.
   -Không điếc sao ông nghe tôi mắng chửi mà không có phản ứng?
   -Ta không điếc. Việc mắng chửi của ông có liên hệ gì với ta đâu?
   Phật liền nói ví dụ: 
  - Như nhà ông có giỗ mời bà con quyến thuộc tới dự. Khi họ sắp về, ông gởi quà bánh tặng. Những người ấy không nhận thì quà đó về ai? 
   Ông Bà la môn đáp:
   -Nếu  họ không nhận thì quà đó về tôi chứ ai.
   Phật bảo:
   -Cũng vậy, ông chửi mà ta không nhận thì những lời mắng chửi đó xin gởi lại cho ông.



   Người ta cứ nghĩ là nhịn là thua, nhưng trường hợp vừa kể đức Phật có thua không? Chửi Ngài mà Ngài không chống cự thì hậu quả tự trở về người chửi. 
   Chúng ta thử tập khi bị mắng chửi mà chúng ta cứ lặng lẽ làm thinh, không nói gì hết thì rốt cuộc người nào tức hơn. Người bị chửi tức hay người chửi tức? 
   Cho nên tưởng rằng tranh hơn thua là hay, không ngờ càng tranh càng lún sâu vào phiền não, chẳng khác nào như lửa cháy mà cứ thế thêm dầu vào. Còn một bên nóng giận, một bên im lặng, không có lời thách đố nhau thì làm gì có chuyện đấu tranh để dẫn đến những tai hại lớn lao. 



   Rõ ràng nhẫn nhịn là điều hết sức quan trọng, không phải việc thường. Người biết nhẫn nhịn thì là người làm được việc lớn, còn người không nhẫn nhịn được thì không làm được việc gì hết. Cho nên chúng ta muốn làm được điều hay, điều tốt thì phải có đức nhẫn nhịn mạnh mẽ, như vậy việc làm mới thành công.
   Chúng ta ai cũng biết câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Tôi lược kể điểm hay đặc biệt của bà Quan Âm Thị Kính. 
   Theo sử sách Trung Quốc thì bà thuộc gia đình khá giả, có danh giá, chồng bà là một Nho sinh hiếu học. Gia đình hai bên cũng môn đăng hộ đối. Một hôm nhân chồng học hành mệt mỏi nên nằm ngủ trưa. Bà nhìn thấy có sợi râu mọc ngược lên trên khó coi, nên lấy kéo định hớt giùm sợi râu. Nhưng vừa đưa kéo đụng vào thì ông giật mình chụp tay la: “Ám sát tôi”. Ông la lên như vậy thì cả nhà đều tin theo, nói bà định dùng kéo ám sát ông chồng. Việc đó có oan không? Vì ông ngủ mơ màng không tỉnh táo nên bị đụng vào da liền giật mình hoảng hốt, thấy bà đang cầm kéo thì la lên nói vợ ám sát mình. Dù bà có nói gì thì cũng không ai tin hết. Cuối cùng gia đình bên chồng giao trả bà về cha mẹ của bà, vì là nàng dâu hư. Cha mẹ bà cũng không biết nói sao hơn nên đành đem con về. 
   Về nhà mình rồi bà nghĩ sự tủi nhục vì là con nhà thế phiệt mà bây giờ mang tiếng giết chồng, nhưng không biết làm sao minh oan được. Vì vậy, bà định đi tu để khỏi mang tiếng cho cha mẹ.
   Hồi xưa ở Trung Hoa chưa có phái nữ đi tu, chỉ có phái nam thôi. Nên muốn đi tu bà phải giả trai. Khi vào chùa được Hòa thượng nhận cho ở, nhưng vì có nhan sắc nên giả trai bà cũng đẹp, do đó động lòng Thị Mầu, con một nhà giàu thường lui tới viếng chùa.
   Thị Mầu có tâm không tốt nên sau nầy gần gũi với người nô bộc của gia đình, cô mang thai rồi đổ oan cho ông đạo Kỉnh Tâm – tức pháp danh của bà. Sự việc Thị Mầu khai trước làng xã, bà bị đưa đến công đường tra hỏi… bà trả lời không có gì hết nhưng chẳng ai tin. Dù bị tra khảo đánh đập đi không nổi nhưng bà vẫn chịu đựng, không tiết lộ mình là người nữ để minh oan. Cuối cùng làng mời Hòa thượng đến trả bà về chùa nuôi dạy lại. Như vậy mới thấy sức chịu đựng phi thường của bà.
   Khi về chùa, Hòa thượng không biết sự việc thế nào nên xử sự với bà khác lúc trước. Bà không được ở trong chùa mà phải ở hành lang. Thời gian sau Thị Mầu sanh đứa con trai, cô bồng đứa bé đến chùa giao cho bà nói rằng: “Con của ông nay tôi giao trả cho ông”.
   Chúng ta thấy rõ ràng sự việc không có gì dính dáng mà bây giờ xảy ra đến mức độ như vậy. Bà can đảm nhận nuôi đứa bé, bởi bà nghi người tu dù công phu nhiều mà không có lòng từ bi thì cũng không xứng đáng. Vì chúng sinh, vì cứu một mạng người nên bà chấp nhận hết mọi nhục nhã, mọi hình phạt. 
   Cho nên trong một đoạn thơ truyện Quan Âm Thị Kính có câu nầy:
Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người.

   Phù đồ tức cái tháp, ý câu nầy dù xây tháp chín tầng, không bằng cứu sanh mạng một người. Nghĩ vậy nên bà đành ôm đứa nhỏ nuôi. 
   Sự việc nầy càng làm cho Hòa thượng nghi ngờ, nếu không phải con của bà thì sao nhận lãnh nuôi. Sống trong hoàn cảnh ấy bà vẫn âm thầm chịu đựng. Mỗi ngày ẳm đứa bé đi khắp xóm làng xin sửa bú, chịu đựng mọi khinh bỉ, chê bai của thiên hạ, bà kiên nhẫn nuôi đứa bé lớn lên. Thời gian chịu nhục nhã không biết là bao nhiêu. Một đứa trẻ không có liên hệ máu mủ gì hết mà vì lòng từ bi muốn cứu một mạng sống, không để cho nó chết nên bà phải chịu nhục nhã, đủ thứ xấu xa. 
   Tới khi đứa bé lớn rồi, từ đó bà mới được tu hành yên ổn, đến lúc lâm chung mọi người phát hiện bà là người nữ thì bà đã đắc quả vị Bồ tát. Người đời sau thường gọi là Quan Âm Thị Kính.
   Đó là tôi kể tổng quát, bây giờ tôi nhấn mạnh thêm tinh thần nhẫn nhục của bà để chúng ta noi theo tu tập.
   Thứ nhất bà nhẫn khi bị chồng vu oan. Việc ngẩu nhiên thôi mà bị hàm oan như thế, nếu người không có can đảm, bị oan ức đó có thể tự tử. Thường người ta cho là tự tử là gan, nhưng tôi thì nói ngược lại, tự tử là không can đảm. Bởi vì xấu hổ chịu đựng không nổi, không đủ sức nhẫn nên mới tự tử, nếu đủ sức nhẫn đâu có tự tử. Bà không tự tử mà sống và tu. Đó là một đức nhẫn nhục lớn.
   Thứ hai, khi đi tu bị người ta vu oan là quan hệ với Thị Mầu có thai. Điều đó hết sức vô lý vì bà là người nữ. Nếu muốn minh oan rất dễ, chỉ cần nói “tôi là người nữ” thì mọi việc đều êm xuôi hết. Nhưng vì muốn tiếp tục tu hành, bà không muốn lộ tông tích mình là người nữ, nên phải nhận lãnh sự hành hạ, đánh đập, khảo tra.
   Trường hợp trước, nhẫn để được sống và tu.
  Trường hợp thứ hai, vì sự tu nên cam chịu khổ nhọc. Và đến giai đoạn cuối cùng là lòng từ bi thương đứa bé ra đời không có cha mẹ nuôi dưỡng. Sợ nó chết tội nên nhận nuôi, chịu nhục nhã, không phải một ngày mà cả mấy chục năm trời. 
   Chính vì lòng từ bi nên bà đã có sức kiên nhẫn phi thường như vậy. Khi đã vượt qua sức chịu đựng đó bà liền thành tựu Bồ tát. 
   Chúng ta thấy lòng từ bi, sức nhẫn nhục vượt hơn tất cả người thường tình. Do đó thành tựu được Bồ tát hạnh. Bây giờ chúng ta tôn vinh bà là Phật Bà Quan Âm.
   Như vậy, người chịu đựng được là người mạnh mẽ, có một sức nhẫn phi thường. Cho nên tu muốn đến nơi đến chốn đòi hỏi chúng ta phải có hai mặt, vừa có lòng từ bi vừa có đức nhẫn nhục. Từ bi, nhẫn nhục đủ thì chúng ta mới tu tiến, mới thành công. Chỉ có từ bi mà thiếu nhẫn nhục thì khó thành công. 
   Ví dụ như chúng ta thấy người nghèo khổ muốn giúp đỡ nhưng họ không biết mang ơn, vậy là chúng ta không muốn giúp nữa. Đó là chúng ta làm việc lành, việc tốt mà chưa có đức nhẫn nhục nên dễ lùi lắm.
   Đó là tôi nói Bồ tát Quán Thế Âm ở trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính. Bây giờ tôi nói Bồ tát Quán Thế Âm trên hình tượng mà quí vị đang thờ.
   Chúng ta đến chùa lễ Bồ tát Quán Thế Âm thường thấy ngài dưới hình thức người nữ, nhưng thật ra Bồ tát không có nam nữ. 
   Trong kinh Phổ Môn có nói rõ (kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn), Bồ Tát Quán Thế Âm khi cần độ đồng nam thì hiện thân đồng nam, khi cần độ đồng nữ thì hiện thân đồng nữ, cần độ tể quan thì hiện thân tể quan. Như vậy, Ngài không có thân nhất định là nam hay nữ, mà tùy theo căn cơ chúng sanh thích thân gì thì hiện ra thân đó. 
   Song vì người nữ giàu tình thương. Ngài thường hiện thân nữ. Vì vậy, khi nói về tình thương, người ta hay nói như mẹ hiền thương con. Cha cũng thương nhưng có khi phải răn, phải đánh. Còn mẹ thương thường vuốt ve mà ít đánh. Do đó mà nói mẹ hiền, ít nói cha hiền. Cha nghiêm nên hay gọi nghiêm phụ, mẹ hiền nên hay gọi từ mẫu. Do đó, lòng từ thường được tượng trưng qua người nữ. Ngài Quán Thế Âm tu hạnh từ bi nên Ngài hiện thân người nữ để thể hiện hạnh nguyện của mình.
   Kế đó chúng ta thấy trên tay trái Ngài cầm tịnh bình, tay phải cầm cành dương. Như vậy ý nghĩa như thế nào? Bình là để chứa nước cam lồ. Tôi xin đọc lại một đoạn nguyên văn chữ Hán trong Từ bi Thủy sám: “thùy dương liểu nhi biến sái cam lồ. Trừ diệt não dĩ giai đắc thanh lương. Tầm sinh cứu khổ ư tứ sanh. Thuyết pháp độ thoát ư lục đạo”.
   Như vậy là Ngài cầm cành dương rưới nước cam lồ từ trong tịnh bình. Nước cam lồ và cành dương tượng trưng cho cái gì? Chữ cam là ngọt, lộ là sương. Mù sương đọng trên lá cây, nước đó là ngọt nên gọi là cam lồ. 
   Nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Tâm ấy trong sạch, dịu ngọt như cam lồ. Vì vậy, từ bi tới đâu thì lửa nhiệt não tắt ngụm tới đó. Ngọn lửa phiền não của chúng ta cháy hừng hực nên chỉ có nước từ bi mới dập tắt được. Phiền não nóng giận là sân. Muốn cho hết sân, qua được cơn nóng giận phải có lòng từ bi. 
   Nên nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi. Khi ta gặp khổ đau, người có lòng từ bi khuyên dạy ta sẽ giảm. Những chúng sanh đang trong cảnh đói thiếu, đủ thứ tai nạn, được gặp những người có lòng từ bi thì họ sẽ được cứu giúp. Cho nên khổ đau chỉ có lòng từ bi mới đưa đến sự bình an. 
   Nước cam lồ được rưới cho mọi người được mát mẻ thì phải nhờ cành dương. Có người lấy cành trúc hay cành tre thay thế cành dương để rưới nước cam lồ. 
   Nhưng sự thật ý nghĩa nước cam lồ chỉ rưới được qua cành dương. Tại sao vậy? Vì cành dương nhỏ, mảnh, khi gặp gió thì nó uyển chuyển nhưng mà không gãy. Như vậy, để nói lên ý nghĩa người có đức nhẫn nhục gặp cảnh khó khăn luôn tùy thuận, nhẫn nại, không chống đối. Mới nhìn như yếu, lại dẽo dai chịu đựng, không bị gãy, bị thua. Như vậy, hình ảnh cành dương nói lên đức nhẫn nhục. Vì nhẫn nhục mới có thể đem nước cam lồ hay lòng từ bi chan rãi cho mọi người được. Nếu không có nhẫn nhục thì không bao giờ chan rải được lòng từ bi.
   Rõ ràng từ bi và nhẫn nhục nương nhau thì làm việc gì cũng thành tựu. Có từ bi mà thiếu nhẫn nhục hay ngược lại, có nhẫn nhục mà thiếu từ bi cũng không được. Cho nên trong kinh nói cầm cành dương Ngài rưới nước cam lồ lên khắp cả. 
   Diệt trừ phiền não, Ngài làm cho mọi người đều được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh. Ngài thuyết pháp độ khắp lục đạo. Qua đó chúng ta thấy hình tượng Ngài cầm cành dương rải nước cam lồ lên tất cả mọi người, đó là đem lòng từ bi chan rải khắp muôn loài.
   Do sức mạnh của lòng từ bi mà tiêu diệt được lòng sân hận của con người. Chúng ta sống nếu không có lòng từ bi thì không thể nào thực hiện được những điều đức Phật đã dạy.
   Tôi nhắc lại khi đức Phật còn tại thế, có lần trên đường giáo hóa, gặp một nhóm côn đồ mắng chửi thậm tệ, nhưng Ngài vẫn thản nhiên, không có thái độ nào tỏ vẻ khó chịu hay bất mãn. Nhưng Tôn giả A Nan chịu không nổi liền thưa với Phật:

   -Bạch Thế Tôn, chúng ta nên đi nơi khác.
   Phật bảo:
   -Bây giờ đi chỗ nào A Nan?
   Ngài thưa rằng:
   -Đi chỗ nào không có người chửi mắng mình thì mới có thể truyền đạo.
   Phật bảo:
   -Giả sử chúng ta đi đến chỗ khác cũng có người mắng chửi nữa thì làm sao A Nan?
   Ngài A Nan thưa:
   -Như vậy thì chúng ta tìm lại những nơi đã từng giáo hóa như thành Xá Vệ hoặc những nơi có đệ tử của Ngài.
   Phật bảo:
   -Nầy A Nan! Nếu là thầy thuốc giỏi thì có nên treo tấm bảng trước nhà rằng: “Ở đây chỉ nhận chửa những bệnh thông thường, còn bệnh nặng thì mời đi nơi khác”?.
   Ngài A Nan thưa:
   -Không.
   Phật hỏi:
   -Tại sao vậy?
   Ngài A Nan thưa:
   -Thầy thuốc giỏi thì trị bệnh nặng, còn bệnh thường thì có gì quan trọng.
   Phật bảo:
   -Cũng vậy, người ta đang bệnh ta phải trị cho họ, chừng nào họ không cần thì ta mới đi.
   Ngài A Nan nói:
   -Họ đang chửi mình thì họ đâu cần mình. 
   Những người côn đồ nghe nói vậy liền thức tỉnh lên tiếng:
   -Bạch ngài, chúng con cần ngài.
   Do đó, đức Phật ở lại giáo hóa độ những người đó.
   Câu chuyện đã cho chúng ta thấy. Phật dù hóa độ chúng ta nhưng không phải tới đâu người ta cũng kính ngưỡng như nhau. Ngay cả đức Phật đi giáo hóa cũng gặp nhiều cay đắng, bị trở ngại đủ thứ hết, nhưng Ngài cũng thản nhiên chịu đựng. Nhờ vậy, Ngài mới thành đạo và truyền bá Phật pháp cho tới ngày nay.
   Chúng ta là hàng đệ tử của Phật thì phải học gương sáng của Ngài. Vì thương những người khổ hay người ngang ngạnh nên dù họ có gây khó khăn, làm điều hung dữ, chúng ta vẫn phải độ họ, không nên giận họ. 
   Trong đạo Phật lúc nào cũng nhắc nhở người Phật tử luôn cố gắng thực hiện cho được tinh thần từ bi nhẫn nhục. Chưa hành được hạnh đó thì chúng ta chưa phải là đệ tử của Phật. Thật ra ai cũng có lòng từ bi, nhưng lòng từ bi đó bị hạn chế. 
   Ví dụ: có người đi xem hát thấy các diễn viên bi lụy rơi nước mắt họ cũng khóc theo, như vậy thì có tình thương, thấy cảnh khổ mới khóc. Nhưng có điều là thấy cảnh khổ trên sân khấu thì khóc, mà thấy người khổ thật ngoài đời thì thản nhiên. Nên cái khóc đó là do các diễn viên khéo gợi cảm xúc của mình, còn những cảnh khổ không gợi được cảm xúc thì không khóc, chỉ thương vì tội nghiệp thôi.



***
Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét