Thuyết Duyên khởi cũng được gọi là Nhân
duyên sinh và vì bao gồm 12 thành phần nên cũng có tên khác
là Thập nhị nhân duyên, là một trong những giáo lí quan trọng nhất
của đạo Phật. Thuyết này chỉ rõ là mọi
hiện tượng tâm lí và vật lí tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên
hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của
một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này
làm loài hữu tình cứ mãi vướng
mắc trong Luân hồi .
Giáo lí duyên khởi được ghi
lại trong kinh như sau (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):
"Imasmiṃ sati, idaṃ hoti; imass`uppādā,
idaṃ uppajjati; imasmiṃ asati, idaṃ na hoti; imassa
nirodhā, idaṃ nirujjhati. (MN II.32, SN II. 28)
Nếu cái này tồn tại
thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không
tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt."
Duyên
khởi và Vô ngã là hai giáo lí làm rường cột
cho tất cả các tông phái Phật giáo. Các nhân duyên (nguyên nhân chính và điều
kiện phụ) này gồm có 12 yếu tố:
1.
Vô minh sự không thấu hiểu Tứ diệu đế, không hiểu Khổ là tính chất căn bản của đời sống;
2.
Vô minh sinh Hành hành động tạo nghiệp. Hành động này có thể tốt, xấu hay trung
tính. Hành có thể ở trong ba dạng: thân, khẩu và ý;
3.
Hành sinh Thức làm nền tảng cho một đời sống tới. Thức này
đi vào bụng mẹ. Thức lựa chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu quy định;
4.
Thức sinh Danh
sắc là toàn bộ
tâm lí và vật lí của bào thai mới, do Ngũ uẩn tạo thành;
5.
Danh sắc sinh Lục
căn là các giác quan,
sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu);
6.
Lục căn bắt đầu tiếp
xúc với bên ngoài gọi là Xúc.
7.
Xúc sinh Thụ là cảm nhận của con người mới với thế giới bên
ngoài;
8.
Thụ sinh Ái tham ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh;
9.
Ái sinh Thủ là điều cá nhân mới muốn chiếm lấy cho mình;
10.
Thủ dẫn đến Hữu là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống,
thế giới;
11.
Hữu dẫn đến Sinh một thế giới và cá nhân mới xuất hiện hẳn hoi;
12.
Sinh sinh ra Lão
tử vì có Sinh nên có hoại diệt.
Kinh nghiệm giác ngộ lí duyên khởi bao gồm Mười hai nhân duyên của Phật được ghi lại
trong Luật tạng, phần Đại
phẩm như sau (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):
“Thời nọ, Phật Thế Tôn an trú tại Ưu-lâu-tần loa, bên bờ sông Ni-liên-thiền dưới gốc một cây bồ-đề, lần đầu tiên đạt chính đẳng giác. Phật Thế Tôn ngồi chân tréo
kết già bảy ngày dưới gốc cây bồ-đề, thưởng thức sự an lạc của giải thoát.
Vào canh thứ nhất, Phật quán chiếu trong thâm tâm nguyên lí
duyên khởi hướng xuôi chiều và ngược chiều: Từ vô minh mà các hành phát sinh, từ các hành mà thức phát
sinh, từ thức danh sắc, từ danh sắc là sáu giác quan (cùng với sáu đối tượng
của chúng), từ sáu giác quan sinh ra xúc, từ xúc sinh ra thụ, từ thụ tham ái,
từ tham ái ra thủ, từ thủ ra hữu, từ hữu ra sinh, từ sinh ra lão tử, ưu sầu,
hoạn nạn, bất hạnh, tuyệt vọng. Sự hình thành của nguyên khối khổ này là như
thế.
Qua sự chấm dứt và tiêu diệt của vô minh mà các hành chấm dứt,
qua sự chấm dứt của hành mà thức chấm dứt, qua sự chấm dứt của thức mà danh sắc
chấm dứt, qua sự chấm dứt của danh sắc mà sáu giác quan chấm dứt, qua sự chấm
dứt của sáu giác quan mà sự chạm xúc chấm dứt, qua sự chấm dứt của sự chạm xúc
mà thụ chấm dứt, qua sự chấm dứt của thụ mà tham ái chấm dứt, qua sự chấm dứt
của tham ái mà thủ chấm dứt, qua sự chấm dứt của thủ mà hữu chấm dứt, qua sự
chấm dứt của hữu mà sinh chấm dứt, qua sự chấm dứt của sinh mà lão tử, ưu sầu,
hoạn nạn, bất hạnh, tuyệt vọng chấm dứt. Sự chấm dứt của nguyên khối khổ này là
như vậy.
Lúc ấy, sau khi nhận thức rõ điều này, Thế Tôn thốt lên một cách
cảm kích: "Thật như thế, khi các pháp hiện rõ cho một người tinh tiến, một
hiền nhân đang quán chiếu thì tất cả những nghi hoặc của ông ta tan biến, bởi
vì ông ta đã nhận thức được Pháp với nguyên nhân của nó "
***
"Vô
Minh" là gì? "Vô Mình" là sự thiếu hiểu biết . Trong ngôn
ngữ hàng ngày thi gọi là " bị lẫn lộn". Nghĩa là quý vị không hiểu rõ
cái thật. Vì quý vị bị lẫn lộn và không hiểu rõ nên mới có những sinh hoạt mê
lầm sai trái. "Sinh hoạt sai lầm" trong ý nghĩa này là quý vị làm
những điều mà đáng lý không nên làm. Những sinh hoạt sai lầm này đưa đến nhận
thức giả tạo hay là ý thức. Ý thức dẫn đến lầm lẫn danh và sắc. Lầm lẫn danh
sắc đưa đến lầm lẫn lục nhập. Bởi con người có sáu giác quan, dữ kiện bên ngoài
đưa vào cơ thể và trí óc qua sáu giác quan này. Từ lầm lẫn thâu nhận của giác
quan, khởi sanh lầm lẫn tiếp xúc. Khi có lầm lẫn tiếp xúc thì người ta muốn lầm
lẫn cảm thọ. Từ lầm lẫn cảm thọ sanh ra lầm lẫn yêu thương hay ham muốn. Từ lầm
lẫn ham muốn, nảy sanh lầm lẫn nắm bắt. Một khi có lầm lẫn nằm bất, thì có lầm
lẫn thành. Từ lầm lẫn thành, người ta lại sanh. Từ sanh mà có già và chết.
Những nhân duyên này khởi đầu từ vô mình hay lầm lẫn. Vì con
người mê lầm từ đầu, nên mê lầm đến cuối; họ mê lầm trôi lăn từ đời này đến đời
kế, và đến đời kể họ vẫn lầm mê. “Mười Hai Nhân Duyên” bắt đầu từ trạng thái
tâm mê muội, và giải thích nguyên nhân làm chúng ta mê muội. Tiếc thay, người
đời thường không hiểu được đạo lý này.
Trong khi thật sự “Mười Hai Nhân Duyên” dạy chúng ta rằng:
"Chúng ta chết như thế nào là tùy thuộc vào cách sống của chúng ta.”.
Không may, vì người đời không hiểu rõ, họ đã làm ngược lại đạo lý này. Kết quả
là những vấn đề rắc rối của họ càng ngày càng lớn hơn đến nỗi họ mang thai. Lúc
đó vấn để sẽ càng rắc rối hơn nữa khi thay vì sanh đẻ đứa bé, họ lại phá thai
khi thai nhi chỉ mới được vài tháng.
Các dục vọng của con người, dù đó là ham muốn về thức ăn hay tình
dục, do đâu mà ra? Tất cả đều là sản phẩm của vô mình. Vô mình chỉ là một tên
khác của mê lầm. Khi niệm tưởng phát khởi, một mong muốn hành động liền theo
sau. Vì có vô minh, nên có sinh họat tình dục. Những sinh họat tình dục mê lầm
bắt nguồn từ trạng thái bị mê lầm, đây là "Vô Minh duyên Hành". Khi
có hoạt động mê lầm thì ý thức mê lầm khởi sanh, và khởi sự tạo nên sự phân
biệt mê lầm. Ý thức này còn được gọi là "thân trung ấm" (là thân hiện
hữu trong khoảng giữa từ lúc chết đến khi có thân kể tiếp). Khi người đàn ông
và đàn bà quan hệ tình dục, nếu thân trung ấm này có những nhân duyên liên hệ
gia đình với hai người này, thì thân trung ấm này sẽ tìm cách sanh trở lại làm
con của họ. Mối duyên ràng buộc giữa ý thức của thân trung ấm và hai người đang
quan hệ tinh dục đó mạnh đến nỗi dù xa cả hàng ngàn hay hàng vạn dậm, và dù chỉ
có một đốm sáng nhỏ nhoi phát ra bởi hai người lúc quan hệ tình dục, thân trung
ấm sẽ thấy ánh sáng đó và sẽ đến chỗ hai người đó để trở thành bào thai trong
lòng mẹ. Do đó mới nói rằng "Hành duyên Thức".
“Thức duyên Danh Sắc ". Câu này có nghĩa khi bào thai trở nên
hiện hữu thì có "danh xưng và hình tướng". "Danh" chỉ bốn
uẩn thọ, tưởng, hành, thức, trong khi sắc là nói đến sắc uẩn. Bốn trong
năm uẩn (tức là thọ, tưởng, hành, thức) hiện hữu từ lúc trong lòng mẹ nhưng chỉ
là những danh xưng; chưa thành hình. Khi hài nhi được sinh ra, tất cả năm uẩn
(tức là danh và sắc) đều đầy đủ, sáu giác quan hay nơi để cảm nhận (mắt, tai,
mũi, lưỡi, xúc giác và ý) cũng vậy.
Đây
gọi là “Danh Sắc duyên Lục Nhập". Sáu cơ quan cảm nhận nầy cùng với sáu
đối tượng của cảm nhận (hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác xúc chạm, và đối
tượng tâm thức) là khởi sanh ý thức về cái thấy, cái nghe, mùi, vị, xúc chạm và
ý nghĩ. Khi tất cả sáu cơ quan cảm nhận hiện hữu đầy đủ, đứa bé bắt đầu biết
liên hệ tiếp xúc với ngọai cảnh Vì thế, nên mới nói: "Lục Nhập duyên
Xúc". Sau khi có sự tiếp xúc, đứa bé bắt đầu có cảm giác thọ nhân tiếp
xúc; ví thế "Xúc duyên Thọ". Khi có cảm thọ, lòng yêu thích phát khởi
(như là ưa thích hoàn cảnh vui sướng dễ chịu, và ghét hoàn cảnh không vừa ý).
Vì thế, "Thọ duyên Ái (ưa thích)”. Sau khi sự ưa thích khởi sanh, đứa bé
mong muốn để tìm kiếm và nắm bắt những gì nó thích. Vì thế " Ái duyên Thủ
(nắm bắt)". Sau khi đã sở hữu cái mình ham muốn, việc nắm bắt sở hữu nầy
đưa đến sự hình thành (trong dục giới, sắc giới hay vô sắc giới). Vì thế gọi là
"Thủ duyên Hữu". Bước kế tiếp là " Hữu duyên Sanh "; nghĩa
là do sự nắm bắt và bám chấp, lại có sự tiếp tục tái sinh. Sau cùng " Sanh
duyên Lão Tử (già và chết)". Sau khi Sanh thì sẽ đến Già và Chết . Toàn bộ
diễn trình này là vòng quay "Mười Hai Nhân Duyên”.
Nếu
không có Vô Minh thì sẽ như thế nào? Thì sẽ không có Hành (sinh hoạt). Nói một
cách khác, khi Vô Minh bị tiêu diệt, thi Hành bị tiêu diệt. Khi Hành bị tiêu
diệt thì Thức bị tiêu diệt. Khi Thức bị tiêu diệt thi Danh Sắc bị tiêu diệt.
Khi Danh Sắc bị tiêu diệt thì Lục Nhập bị tiêu diệt. Khi Lục Nhập bị tiêu diệt
thi Xúc bị tiêu diệt. Khi Xúc bị tiêu diệt thi thì Thọ bị tiêu diệt. Khi Thọ bị
tiêu diệt thì Ải bị tiêu diệt. Khi Ải bị tiêu diệt thị Thủ bị tiêu diệt. Khi
Thủ bị tiêu diệt thì Hữu bị tiêu diệt. Khi Hữu bị tiêu diệt thì Sanh, Lão và Tử
đều bị tiêu diệt. Đó là cách để chấm dứt chu kỳ Mười Hai Nhân Duyên. Do đó mới
nói rằng: “Không vô minh tận vì tự tánh không”.
Khi
tất cả mười hai nhân duyên liên hệ lẫn nhau nầy ngưng hiện hữu thì giống như
bầu trời trong vắt xa thắm vạn dậm, giống như ánh trăng vằng vặc phản chiếu
trên mặt nước trong. Nếu quý vị thật sự hiểu thấu đáo “Mười Hai Nhân Duyên” thì
sẽ thấy giống như uống nước, khi quý vị khát nước và uống nước vào, thì quý vị
sẽ tự mình biết được là nước đó nóng hay lạnh. Nếu quý vì không thật sự dụng
công để tu hành và tỉnh ngộ hiểu được đạo lý “Mười Hai Nhân Duyên” thì thật vô
dụng dù cho quý vị có nói rằng “Ồ, Mười hai nhân duyên là tất cả đều không,
không, không!".
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét