21/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 8)

Chương VIII


< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối


Những ngày kế sau đó, chúng tôi hối hả đi về hướng đông nam, hướng mặt trời mọc. Mọi người đều nặng trĩu nỗi đau trong lòng. Ban ngày còn đỡ, những vất vả lúc đi đường làm chúng tôi bớt nghĩ tới sự việc vừa qua. Nhưng đêm đến, khi ngồi bên đống lửa bập bùng giữa rừng hay chui vào nằm trong căn lều mỏng manh, mới thấy trống trải đến tê tái cả ruột gan. 

Ngày thứ ba kể từ khi rời bờ vực, lúc gặp tráng cỏ nhỏ trên một mỏm núi, chúng tôi dừng lại cắm lều dù mới nửa chiều. Cần nghỉ ngơi chút ít lấy lại sức sau mấy ngày vừa qua. Anh Hùng cũng muốn tìm khoảng trống để ngắm sao. Anh Sơn mất đi là một tổn thất nặng nề cho cả tổ, vì kiến thức và kinh nghiệm của anh hết sức cần thiết lúc đi đường và cho công việc sau này. Hiện giờ không có bản đồ và địa bàn, chúng tôi chỉ còn cách nhìn sao, nhìn mặt trời để định hướng. 

Dựng xong lều, anh Đằng bảo hai chúng tôi cứ nghỉ, rồi xách súng đi vào rừng. 

Tôi ngồi bên anh Hùng buồn rầu nhìn về dãy núi có cái vực thẳm. Với ít nắng đọng vàng trên đỉnh và rừng cây bên sườn đang sẫm lại trong bóng núi, lúc này trông nó cũng hiền lành như mọi dãy núi khác. Từ đây tới đó không xa lắm. Ba ngày qua chúng tôi đi nhiều nhưng phải leo lên tụt xuống, vòng vèo tránh những chỗ khó, thành ra quãng đường đi được chỉ trong tầm nhìn. 
Anh Hùng vẫn im lặng như đang mải nghĩ điều gì. Chúng tôi cùng ngồi lặng lẽ như vậy hồi lâu. Nắng chiều nhạt dần trên ngọn cây. Mây trắng đùn lô xô ở phía chân trời. Một đàn chim đang vội vã bay về tổ, những cánh chim chấp chới trên nền mây, nhỏ dần thành những chấm đen li ti rồi mất hút sau dải rừng xa mờ. 
Anh Đằng trở về xách theo một con chim to. Chúng tôi nướng thịt chim ăn bữa tối. Hoàng hôn đang xuống, bóng tối lan ra từ những hốc rừng âm u. ở góc trời phía tây, vài tia nắng cuối ngày thoáng chốc rạng lên trước khi chìm vào màn đêm. Những vì sao hiện ra, nhấp nháy trên nền trời xanh đen. 
Anh Đằng ngắm chòm sao Bắc Đẩu hồi lâu rồi nói: 
- Mình nghĩ tọa độ cần tìm đang ở gần đâu đây. Hôm bên kia bờ vực Sơn có nói phải đi về hướng đông nam hai chục cây. Mấy ngày qua ta đi được trên chục cây tính theo đường chim bay. Nếu Sơn tính toán đúng thì ta có thể tới nơi trong vài ngày nữa, nhưng phải làm sao đi cho đúng hướng. Các cậu nghĩ sao?
- Tôi thấy cần thận trọng. - Anh Hùng nói - Từ ngày mai phải thường xuyên leo lên cây cao dùng ống nhòm quan sát sục tìm. Cánh đồng cỏ tuy rộng nhưng giữa rừng rậm, nhiều khi đi qua ngay bên cạnh cũng không nhìn thấy. 
- Theo em, ta nên đi theo kiểu dịch dắc. Thế này nhé, - tôi nói và dùng que vẽ trên đất - Lấy đường thẳng từ đây tới đồng cỏ làm trục, ta đi theo những đường gấp khúc qua lại, mỗi đoạn khoảng năm cây số. Góc ở chỗ ngoặt chừng sáu mươi độ. Tuy phải đi quãng đường dài hơn, nhưng ta sẽ rà được cả dải rừng rộng. 
Anh Đằng gật gù: 
- Có lý đấy? Hùng thấy thế nào? 
Anh Hùng hơi mỉm cười: 
- Đúng là nên đi theo kiểu dịch dắc. Có điều... tôi nghĩ khó mà có được cánh đồng cỏ bằng phẳng giữa vùng núi non này. Có khi đó là một vùng đồi, độ cao thấp chênh lệch không lớn lắm nên không phân biệt được trên bức không ảnh chụp chính diện từ trên cao. 
- Có thể như vậy, nhưng ta sẽ xác định được nếu tìm thấy cây thủy tùng. Chà, nếu có Sơn ở đây thì... - Biết mình lỡ lời anh Đằng lúng túng dừng câu nói giữa chừng. 
Mấy ngày vừa qua, không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều cố tránh không nhắc đến sự việc đau đòng ấy, dù chẳng lúc nào nguôi nhớ anh Sơn. Nỗi đau đớn, thương xót lẫn ân hận luôn dày vò tâm trí mỗi người. 
Anh Hùng ôm đầu, nói như nấc lên: 
- Tại tôi, lỗi tại tôi tất cả? Giá như hôm ấy tôi chặt hết nhánh cây thì đâu đến nỗi... 
- Không đúng, cậu không có lỗi gì hết! Người có lỗi là tôi - Anh Đằng nói, giọng hụt đi trong hơi thở nặng nhọc - Nếu hôm đó tôi qua sau cùng, kiểm tra kỹ từng nút buộc...
Tôi không dám nhìn lên, sợ phải trông thấy sự đau đớn tột cùng trên hai khuôn mặt dày dạn lửa đạn đó. Chúng tôi đã trải qua những ngày tháng chiến tranh ác liệt, đã chứng kiến bao nhiêu cái chết của anh em bạn bè... Nhưng chẳng thà chết trong trận đánh, chết vì đạn bom, đằng này anh Sơn hy sinh ngay trước mặt chúng tôi giữa lúc không ai ngờ tới, chúng tôi nhìn rõ cái chết đến với anh từng giây một mà đành bất lực tuyệt vọng... Chính vì thế nỗi đau càng giằng xé mãnh liệt trong lòng mọi người. 
Tôi ngẩng đầu nhìn ngọn lửa, nói khe khẽ: 
- Không ai có lỗi hết, các anh ạ? Đó chỉ là một tai nạn... 
Anh Hùng thét lên: 
- Cậu đừng an ủi! Lỗi ở tôi, tôi có tội với cậu ấy... 
Anh quắc mắt giận dữ. Trong mắt anh là nỗi dằn vặt oán trách chính bản thân mình. Tôi nhìn anh, nói chậm rãi: 
- Không ai có thể biết trước được mọi việc, chúng ta không phải là thần thánh. Mà trên đời này làm gì có thánh, có thần? Nếu có, những người như anh Sơn đã không phải chết oan uổng như vậy... 
- Hải nói đúng? Chẳng ai là thánh, là siêu nhân cả. - Anh Đằng nói - Chúng ta là những con người. Mà đã là con người thì không ai hoàn hảo đến tuyệt đối được. Nhưng chỉ có con người mới biết yêu thương, căm giận, đau khổ... Chẳng thể nói rằng ai đau xót nhiều hơn ai, chỉ có điều ta không để cho sự hy sinh của Sơn trở nên vô ích. Phải đi tới đích và hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta sẽ làm thay phần việc của cậu ấy.
Khi nói câu cuối cùng, giọng anh trầm lại như nói với chính mình. Tôi hiểu đó cũng là lời thề của mỗi người.

Gió rung cành cây xào xạc, ngọn lửa bùng lên cháy rừng rực, ánh lửa soi chập chờn vòm lá trên cao làm trời đêm như cũng xao động. Chúng tôi trầm ngâm hồi lâu bên đống ìửa. Mỗi người đều cảm thấy nỗi khổ tâm vợi bớt đi khi nói ra những suy nghĩ của mình và có được sự đồng cảm sâu sắc. 

Chúng tôi đi theo một đường gấp khúc trong mấy ngày liền. Đã bốn lần đổi hướng, như vậy chặng đường đi được khoảng hai mươi lăm cây số, còn đường thẳng tính theo trục đông nam trên mười cây. Dọc đường mọi người thay nhau leo lên cây dùng ống nhòm quan sát, nhưng chẳng thấy tăm hơi cánh đồng cỏ đâu cả. Hơn nữa tầm nhìn luôn bị hạn chế bởi những ngọn núi nối nhau san sát. Ai cũng lo là đã vượt qua mục tiêu mà không biết. 

Trưa hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại trong một rừng săng lẻ để tranh thủ kiếm thức ăn. Số lương thực mang theo không còn nhiều, tất cả có mười bao gạo sấy và mười hai phong lương khô. 

Chúng tôi căng mấy tấm tăng dựng lều dưới tán một cây săng lẻ cổ thụ, ở gốc cây nổi lên những khía to tưởng trông như cánh của một chiếc tên lửa. 

Dựng xong lều và kiếm đủ củi đốt qua đêm, anh Đằng xách súng đi săn. Anh Hùng rủ tôi đi đào củ mài, nhân tiện xuống suối xách nước một thể. 

Tôi khoác súng lên vai, cuộn cái túi phao bồi dùng đựng nước nhét vào thắt lưng rồi bước theo anh. Phải đi ngược lại đoạn đường vừa qua đến một quả núi khác để tìm củ mài, chứ nơi đây hầu như chỉ độc một loài săng lẻ. Những cây săng lẻ thân thẳng tắp lớp vỏ mỏng bên ngoài phồng rộp bong loang lổ. Mùa này cây mới trổ lá xanh non, bóng râm che mát rượi. Dưới gốc cây, mặt đất thưa thoáng phủ đầy lớp lá rụng đã mềm ra sau mấy trận mưa.
Ra khỏi rừng săng lẻ, hai chúng tôi lội qua con suối nhỏ rồi leo lên một sườn núi thấp. Ở đây chim nhiều vô kể. Hầu như trên vòm cây nào cũng có lũ chim đang nhảy nhót. Tiếng chim hót hòa lẫn vào nhau thành một bản hợp xướng đủ lọi âm điệu, mọi cung bậc mà ta chỉ được nghe khi ở trong rừng già vào một ngày đẹp trời. Nhiều con chim có màu lông rất đẹp, nhưng tôi chỉ nhận ra các chú vẹt với bộ lông sặc sỡ và cái mỏ khoằm khoằm đang tíu tít trên một vòm cây có những chùm quả vàng vàng lấp ló trong tán lá. Chúng khéo léo dùng mỏ rứt từng quả, măm măm như người không có răng rồi lửa vào họng nuốt chửng không cần nhằn vỏ. Quả chi chít trên cây mà chúng vẫn tranh nhau choe choé, những vệt xanh vệt đỏ rối rít loạn xạ quanh mấy chùm quả chín vàng. 
Tìm ra dây củ mài không khó nhưng đào nó lại chẳng dễ dàng chút nào khi trong tay chỉ có cây dao găm. Gần một giờ hì hục, chúng tôi mới đào được hai đoạn củ to bằng cánh tay. Phần còn lại không biết dài ngắn ra sao bởi nó sâu hút trong đất không moi lên được. Nhưng chỉ cần có vậy! Chẳng qua là để thêm món, khỏi ăn mãi thịt thú, chứ ở đây đâu có lo đói. 
Anh Hùng giục quay về vì đã quá nửa chiều. Hai chúng tôi thong thả đi xuống. Bên dưới, tán rừng săng lẻ xanh nhấp nhô theo triền núi. Phía tây nam có một dãy núi cao vượt lên, chạy dài như bức trường thành. Nắng chiều phủ màu vàng xa vời trên những ngọn núi nối nhau chập chùng. 
Sau khi tắm xong, tôi lấy nửa túi nước, dùng dây buộc nhặt miệng túi vác lên vai đi về chỗ nghỉ. Anh Đằng đang ngồi thái thịt trước lều, những tảng thịt đỏ hỏn xếp trên mấy tàu lá chuối. Anh nói: 
- Mình đi mãi mà chỉ gặp toàn thú lớn. Cuối cùng đành bắn con mang, nhưng chỉ xẻ lấy một đùi vì nặng quá. Rõ phí của! 
Tôi rút dao định giúp anh thái thịt, anh vội xua tay: 
- Thôi để đấy! Cậu đi kiếm thêm củi, nhớ lấy những cành to ấy. Đêm nay phải nướng hết chỗ thịt này sấy khô mang theo. 
Khi tôi vác củi về, thấy anh Hùng đang luộc củ mài. Từ đống lửa một làn khói trắng bay lên cao, nửa chừng đổi thành màu xanh lam rồi quấn quít trong vòm lá. 
Lúc ăn tối, anh Đằng hỏi: 
- Chiều nay đi, các cậu thấy thế nào? 
Biết ý anh muốn hỏi gì, nhưng tôi im lặng chờ anh Hùng nói trước. Anh chưa trả lời ngay mà chầm chậm nhai miếng củ mài, ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp: 
- Trên hướng ta đi, nhìn xa về phía dưới chỉ thấy núi. Theo tôi, phải qua hết rùng săng lẻ rồi mới tính được. 
- Lúc chiều mình đi về hướng đông nhưng cũng chưa qua hết cánh rừng này. - Anh Đằng nói - Ba ngày nay ta đi được chừng mười lăm cây số theo đường thẳng. Như vậy, theo tính toán hôm trước là đã vượt quá khu vực đồng cỏ. Có lẽ bị chệch hướng ở một đoạn nào đó. Theo các cậu thì đoạn nào? 
Tôi nói ngay: 
- Theo em nghĩ chỉ trên đoạn từ bờ vực tới đây. 
- Còn Hùng? 
- Tôi cũng nghĩ thế! Nhưng không sao! Ta vượt hết rừng săng lẻ rồi sẽ quyết. Dù có phải quần nát cả vùng núi này, ta cũng không bỏ cuộc. 
- Thì cũng phải tìm kiếm tí chút, chứ đâu dễ dàng đi thẳng tới đích được. - Anh Đằng cười, nói tiếp - Nhưng từ nay phải đánh dấu đường đi, phòng khi lặp lại nơi đã qua mà không biết. 
Đến tối chúng tôi đốt thêm đống lửa trên chỗ ban chiều thái thịt, phòng thú dữ kéo tới. Rừng thưa là nơi sinh sống của nhiều loài thú lớn, nên thú ăn thịt không thiếu.

Chúng tôi dập tắt hai đống lửa rồi ra đi khi trời vừa hửng sáng, mặt trời còn chưa lên khỏi núi. Những giọt sương rơi lộp độp trên lá khô. Anh Hùng đi sau, thỉnh thoảng lại vung dao chém vào thân cây để đánh dấu lối đi. Những nhát dao được quy ước là chém cách quãng năm mươi mét, và chỉ chém ngang tầm nhìn vào những thân cây to dưới vòng tay ôm để dễ tìm khi cần. 

Gần trưa, rừng săng lẻ thưa dần rồi nhường chỗ cho các loài cây khác. Cũng vẫn những cây cổ thụ cao to thân phủ đầy rêu và địa y, còn gần ngọn là lan rừng hoặc các loài tầm gửi đeo bám chi chít. Chốc chốc lại thấy thú rừng thấp thoáng sau các gốc cây hay chạy sột soạt trong bụi rậm, nhưng vội đi nên chả ai để ý. 

Khi ra đến một sườn núi, anh Hùng leo lên cây dùng ống nhòm quan sát. Lát sau anh tụt xuống, lắc đầu: 

- Chỉ thấy núi là núi Cây mọc xanh đều cả, không có khoảng trống nào. 

- Thôi được! Ta nghỉ một lúc, tranh thủ ăn trưa luôn. 

Anh Đằng nói rồi đặt ba lô xuống. Chúng tôi nhóm lửa nướng lại mấy miếng thịt. Tôi ngồi tựa lưng vào ba lô, vừa xé thịt bỏ vào miệng nhai, vừa nhìn lên ngọn cây. Có mấy con chim đang chuyền tít trên cao không nhìn rõ màu lông, chỉ thấy những chấm đen vụt qua vụt lại trong đám lá, nhưng tiếng hót líu lo của chúng vang xuống nghe rất hay. Cùng với tiếng chim là tiếng vo vo của mấy con ong, tiếng gió lao xao trong lá, tiếng cành khô gãy rơi trong bụi rậm, tiếng gà rừng gáy te te đâu ở cánh rừng trước mặt... Đệm cho khúc nhạc rừng trưa có bài ca mùa hè triền miên của ve. Những con ve kêu ra rả từ lúc hừng đông cho tới tận chiều xuống, người nghe quen tai đến nỗi chỉ nhận ra khi chúng đột ngột dừng tiếng. Trời trưa tròn bóng. Mắt tôi lóa lên khi một tia nắng lọt qua tán lá rọi trúng vào mặt. Những giọt nắng lốm đốm vàng trên nền lá rụng ẩm ướt. 
Anh Hùng bảo: 
- Ta bị chệch hướng, nhưng chắc không xa lắm đâu. Bây giờ là lúc phải sục sạo tìm kiếm. Theo tôi, trước mắt nên đi về hướng đông nam thêm vài chục cây số. Vẫn đi theo kiểu dịch dắc nhưng mở rộng khẩu độ, làm thế nào để rà được dải rừng rộng chừng mười cây số. Đến khi đó nếu không gặp, cũng khẳng định được đồng cỏ không có ở hướng này.
Anh Đằng nhìn sang tôi: 
- Ý Hải thế nào? 
- Em nhất trí! 
- Được rồi? - Anh kết luận - Ta sẽ tìm theo hướng đông nam, khi biết chắc không có mới chuyển sang vùng khác. Điều cần nhất lúc này là không được cuống. Nếu không, cứ chạy nháo nhào giữa rừng đến lúc hoảng loạn là mất phương hướng hoàn toàn đấy! Dù vội nhưng ta chỉ đi vừa sức, lúc mệt là nghỉ, công việc còn dài. Nào, đi thôi! 
Chiều đó, chúng tôi đi về hướng giữa đông và đông nam, được chừng sáu cây số thì ngoặt lại một góc khoảng bốn mươi lăm độ theo hướng giữa tây và tây nam. Cứ như thế, trong bốn ngày liền chúng tôi đan những đường chéo qua lại trong dải rừng rộng mười cây số. 
Đó là những ngày vô cùng vất vả. Để giữ đúng hướng, chúng tôi phải đi theo đường thẳng, không vòng tránh bất kỳ chướng ngại nào. Áo quần mặc trên người rách bươm. Đôi dép cao su cũng lần lượt đứt hết quai này đến quai khác. May mà mỗi người đều mang theo mấy bộ quai dự trữ. Anh Đằng còn có hai cuộn chỉ và mấy cây kim. Lúc nghỉ, chúng tôi tranh thủ vá víu lại những chỗ rách để mặc đi đường. Ngoài hai bộ thay đổi, trong ba lô tôi còn một bộ mới nguyên, nhưng phải để dành cho ngày về. 
Sau bốn lần đổi hướng, chúng tôi rà hết dải rừng như dự kiến và quan sát qua ống nhòm một vùng rộng hơn nhiều, nhưng vẫn không tìm ra đồng cỏ. Đã đến lúc phải dừng lại để chuyển sang hướng khác. 
Chúng tôi dựng lều bên một thác nước nhỏ nhưng khá cao. Nó đổ xuống từ lưng chừng vách núi rồi chảy thành một con suối nhỏ len lách qua những tảng đá. Đứng dưới nhìn lên, thác nước như vọt ra tử vách đá. 
Cũng vẫn những công việc phải làm ở mỗi chặng nghỉ: dựng lều, kiếm củi, chuẩn bị bữa ăn, nhưng hôm nay chúng tôi còn được tắm giặt thỏa thuê. Tôi lội dọc suối, lần theo mấy tảng đá ra đứng dưới thác, đưa người hứng dòng nước từ trên cao dội xuống. Thật thú vị khi toàn thân được đấm bóp bởi dòng nước mát lạnh. Mọi mệt nhọc trôi đi cùng ghét bẩn, bụi bặm. Cả những vết rách xước trên da thịt cũng dịu lại, không rát nữa. 
Ngước nhìn lên, tôi chợt sững sờ khi bắt gặp một dải cầu vồng rực rỡ, đẹp lung linh trong bụi nước. Trên đỉnh vách đá có mấy bóng cây trụi lá đứng trầm tư, in những nét gầy guộc lên nền trời xanh. Mặt trời xuống thấp dần, bóng núi từ từ lan ra che mát khoảnh rừng ven suối.
Thấy đã muộn, tôi giặt vội bộ quần áo rồi bước lên bờ. Ra khỏi thác, tiếng ầm ầm trong tai lắng hẳn đi. Không gian trở nên tĩnh mịch, êm ả.
Về đến chỗ nghỉ, thấy anh Đằng đang lúi húi thái mấy cái hoa chuối chuẩn bị cho bữa tối. Lát sau anh Hùng cũng về tới, tay xách một xâu cá câu được ở khúc suối phía dưới. Thì ra trong khi tôi mải mê dưới thác nước, hai anh đã làm tất cả mọi công việc cần thiết. Tôi ngượng đỏ mặt vì sự vô tâm của mình, mặc dù biết hai anh muốn để tôi được nghỉ ngơi. Từ đầu chuyến đi tới giờ, tôi là người luôn được "cưng chiều” nhất. 
Tôi đổ nước vào hai chiếc gô, treo trên đống lửa. Hoa chuối rừng phải luộc qua một lần rồi mới nấu. Tối đó, chúng tôi ăn thịt nướng cùng món canh hoa chuối nấu với cá. Canh hơi chát nhưng tôi thấy rất ngon, một phần vì mấy ngày qua chỉ ăn độc mỗi món thịt thú.

Chúng tôi nhằm hướng tây bắc, cắt ngang dải rừng vừa đi qua để tìm về lại chỗ tiếp giáp với cánh rừng săng lẻ. Phải giữ một điểm mốc trước khi mở hướng tìm kiếm mới, nếu không sẽ rối lên trong mê cung của những dãy núi, lúc đó chẳng còn biết là nên đi về phương nào. 

Đi hơn hai ngày thì tìm đến được gốc cây nơi đã nghỉ trưa hôm ra khỏi rừng săng lẻ. Tôi thực sự kinh ngạc trước tài cắt rừng của anh Hùng. Dường như trong anh có thứ linh cảm kỳ lạ để định hướng một cách dễ dàng khi đi giữa rừng rậm mênh mông. 

Không dừng chỗ gốc cây, chúng tôi xuống chân núi cắm lều trên vạt cỏ nhỏ gần bên khe nước. Anh Đằng quyết định nghỉ hết ngày hôm nay. Quả thực tôi đã rất mệt. Hơn nữa, sự lo lắng làm sức người giảm sút nhanh hơn. Nỗi lo cũng hiện rõ trong ánh mắt của anh Đằng. Riêng anh Hùng vẫn bình thản, nhưng trở nên lầm lì ít nói. Tôi rất thương anh vì biết anh vẫn cứ dằn vặt về cái chết của anh Sơn, mặc dù chẳng ai cho đó là lỗi của anh, ngay cả trong ý nghĩ. 

Lần đầu tiên trong cả chuyến đi, tôi được ngủ một giấc thật thoải mái. Lúc tỉnh dậy thấy bóng cây đã nghiêng dài trên bãi cỏ. Anh Hùng đi đâu vắng, chỉ còn một mình anh Đằng đang ngồi lau súng dưới gốc cây. Tôi xuống khe rửa mặt rồi quay lên ngồi cạnh anh. 

- Anh Hùng đi đâu anh? - Tôi hỏi. 

- Hùng vào rừng. 
- Sao cậu không ngủ nữa đi? 
- Ngủ vừa rồi anh ạ! Suốt mấy giờ liền rồi còn gì! - Tôi cười trả lời. 
Anh lắp băng đạn vào súng, nhỏm dậy: 
- Hải ngồi đây nhé! Mình vào rừng kiếm cái gì ăn. 
Anh vừa đi, tôi cũng rút dao đứng dậy đi lấy củi. Ngay mấy gốc cây quanh bãi cỏ, cành khô không thiếu. Chỉ lát sau, tôi đã kéo về một đống to tướng, đủ đốt suốt đêm. 
Chẳng còn việc gì làm, tôi lại ngồi xuống gốc cây, lơ đãng nhìn cánh rừng đang mơ màng trong nắng chiều. Xung quanh im ắng quá! Gió lùa nhè nhẹ làm ngọn cỏ lao xao lay động. Bên dưới những lá cỏ vươn cao khô cháy có mấy đám màu xanh non mới nhú, chắc nhờ đợt mưa vừa rồi. 
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, nhanh đến nỗi tôi chưa kịp hiểu là điều gì... Đầu tôi căng lên, cố nắm bắt lại ý nghĩ đó. "Mình vừa nghĩ về ngọn cỏ, những giọt mưa... Đúng rồi?" Dòng suy nghĩ lại lóe lên, lần này rõ nét hơn. Tôi sắp xếp những ý nghĩ thành sự suy luận và lướt nhanh trong đầu về chặng đường đã đi hơn nửa tháng nay: chỉ lúc vượt qua những đỉnh núi cao cháy nắng ở biên giới mới có vùng cỏ tranh, còn sau đó, cây rừng luôn phủ kín núi. Đôi lúc có gặp tráng cỏ như ở đây, nhưng thường rất nhỏ, chỉ nhinh hơn mảnh sân nhà là cùng. Vậy cánh đồng cỏ dài rộng như thế phải nằm ở đâu? 
Tôi nhớ lại vài kiến thức địa lý đã học. Như vậy ở vùng này, đồng cỏ, hoặc đồi cỏ như anh Hùng nói, chỉ có ở nơi khí hậu khô nóng khắc nghiệt. ”Hình như mình đã có sự liên tưởng về một dãy núi như bức trường thành... nhưng khi nào? Ở đâu? - Tôi cố nhớ lại - Phải rồi, hôm đi đào củ mài? Bên kia rừng săng lẻ..." 
Tôi chạy vào lều lấy ống nhòm, leo lên cây nhìn về hướng tây. Trong ống kính hiện ra rõ nét một dãy núi cao vượt lên trên những ngọn núi khác và chạy dài xuống phía nam. Còn ở phía đông núi lô nhô xếp lớp lớp theo hình vòng cung và thấp dần về hướng biển. "Nhất định đồng cỏ phải nằm trên dãy núi cao đó. Dưới này mưa nhiều, cây cối tươi tốt thế kia..." Tôi bỗng thấy hăm hở, muốn có cách gì lên ngay trên ấy để nhìn cho biết. 
Tụt xuống đến đất, tôi gặp anh Hùng vừa về tới, trên vai vác túi phao bồi căng phồng. 
- Gì thế anh? - Tôi hỏi. 
- Cậu đoán thử xem! - Anh đặt nhẹ túi xuống cỏ, đưa tay gạt mồ hôi.
Tôi chăm chú nhìn, nhưng mãi chẳng đoán ra. Không phải thú rừng! Nếu săn được thú thì cứ thế vác về, cần gì cho vào túi. Mà cái túi này có vẻ nhẹ, không phải đựng một thứ củ quả nào đó... 
- Em chịu thôi! Anh nói đi? 
- Mật ong đấy! Mình vớ được tổ ong, nhưng chỉ lấy non nửa vì không mang hết. 
Tôi tháo dây buộc miệng túi, bên trong là những tầng sáp ong vàng óng, mùi mật thơm ngát. 
Chúng tôi đang vắt mật vào bi đông thì anh Đằng về, tay ôm mớ củ mài. 
- Mình đào bở hơi tai mà lấy được có mấy khúc. - Anh nói.
- Anh không bắn được con thú nào à? - Sợ các cậu ăn mãi thịt phát ngán nên hôm nay đổi món. Còn thú thì thiếu gì, lúc nào ăn hẵng bắn.
Vừa chuẩn bị bữa tối, tôi vừa kể lại những điều mình suy nghĩ về dãy núi phía tây. Nghe xong, anh Đằng liền lấy ống nhòm leo lên cây quan sát. Lúc trở xuống anh chưa nói gì chỉ bảo anh Hùng: 
- Cậu nhìn đi! Rồi ta sẽ bàn. Anh Hùng chọn một cây cao nhất, leo tít lên đến ngọn, đưa ống nhòm nhìn khắp cả bốn phía. Lúc anh tụt xuống đất anh Đằng hỏi ngay: 
- Thế nào? 
- Phải lên tới nơi mới biết được, anh ạ! Ở đây chưa thể nói trước điều gì. Nhưng tôi tin là Hải đã nghĩ đúng. 
Anh Đằng suy nghĩ một lúc rồi nói: 
- Từ đây tới chân núi không xa mấy, ta gắng đi trong một ngày. Còn leo lên núi thì đến nơi hẵng hay. Đằng nào cũng phải mở hướng mà tìm. Nhưng phải nhanh nhanh lên, các cậu ạ! Kéo dài đến lúc mưa dầm là gay đấy? 
- Anh đừng lo, tôi tin mình sắp đến nơi rồi. - Anh Hùng đáp một cách tự tin và quay sang tôi - Hải này, cậu ăn chè mật ong khi nào chưa? - Thấy tôi lắc đầu, anh nói luôn - Thế thì cậu thái củ mài đi! Cạo sạch vỏ rồi thái kiểu quân cờ ấy! Mình sẽ cho cậu biết chè mật ong nấu với củ mài ngon như thế nào! 
Tôi rất mừng vì trong nhiều ngày qua, giờ mới thấy anh thực sự vui vẻ như vậy. Và món chè nấu bằng mật ong, củ mài với ong non hôm ấy quả là tuyệt vời. Sau này tôi có bắt chước nấu mấy lần, nhưng không hiểu sao không được ngon như hôm ấy.




< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13

14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét