PHẬT THUYẾT
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Nguyên Hán bản: Ngài HẠ LIÊN CƯ
(hội tập)
Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm & Cư sĩ Minh Chánh
Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm & Cư sĩ Minh Chánh
NGUYỆN HƯƠNG
(Quì gối đưa nhang lên nguyện hương)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh
Đều phát lòng bồ đề,
Hết một báo thân này
Sanh về cõi Cực Lạc.
(Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát)
(lạy 1 lạy)
TÁN THÁN PHẬT
(Đứng Lên Đánh Khánh Tụng)
Sắc Thân Như Lai đẹp, trong đời không ai bằng, không sánh, chẳng nghĩ bàn, nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận, trí huệ Phật cũng thế, tất cả pháp thường trú, cho nên con về nương. Sức chí lớn nguyện lớn, khắp độ chúng quần sanh, khiến bỏ thân nóng khổ, sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp, qui y và lễ tán, nguyện cùng các chúng sanh, đồng sanh nước Cực Lạc.
(Đại Chúng Đồng Tụng Nhất Tâm Đảnh Lễ)
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ
Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ
A Di Đà Như Lai
Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Thật Báo Trang Nghiêm Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Tướng Hải Vi Trần
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Phương Tiện Thánh Cư Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Trang Nghiêm Giải Thóat
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Căn Giới Đại Thừa
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Hóa Đến Mười Phương
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Giáo Hạnh Lý Ba Kinh
Tột Nói Bày Y Chánh
Khắp Pháp Giới Tôn Pháp 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Quán Thế Âm Bồ Tát
Thân Tử Kim Muôn ức
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Đại Thế Chí Bồ Tát
Thân Trí Sáng Vô Biên
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Thân Hai Nghiêm Phước Trí
Khắp Pháp Giới Thánh Chúng 0 (lạy1 lạy)
CỬ TÁN
(Đại chúng đồng tụng theo tiếng mõ)
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng kinh Vô Lượng Thọ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
(Quì gối đưa nhang lên nguyện hương)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh
Đều phát lòng bồ đề,
Hết một báo thân này
Sanh về cõi Cực Lạc.
(Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát)
(lạy 1 lạy)
TÁN THÁN PHẬT
(Đứng Lên Đánh Khánh Tụng)
Sắc Thân Như Lai đẹp, trong đời không ai bằng, không sánh, chẳng nghĩ bàn, nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận, trí huệ Phật cũng thế, tất cả pháp thường trú, cho nên con về nương. Sức chí lớn nguyện lớn, khắp độ chúng quần sanh, khiến bỏ thân nóng khổ, sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp, qui y và lễ tán, nguyện cùng các chúng sanh, đồng sanh nước Cực Lạc.
(Đại Chúng Đồng Tụng Nhất Tâm Đảnh Lễ)
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ
Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ
A Di Đà Như Lai
Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Thật Báo Trang Nghiêm Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Tướng Hải Vi Trần
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Phương Tiện Thánh Cư Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Trang Nghiêm Giải Thóat
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Căn Giới Đại Thừa
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Hóa Đến Mười Phương
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Giáo Hạnh Lý Ba Kinh
Tột Nói Bày Y Chánh
Khắp Pháp Giới Tôn Pháp 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Quán Thế Âm Bồ Tát
Thân Tử Kim Muôn ức
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Đại Thế Chí Bồ Tát
Thân Trí Sáng Vô Biên
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Thân Hai Nghiêm Phước Trí
Khắp Pháp Giới Thánh Chúng 0 (lạy1 lạy)
CỬ TÁN
(Đại chúng đồng tụng theo tiếng mõ)
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng kinh Vô Lượng Thọ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
PHẨM THỨ
NHẤT
PHÁP HỘI
THÁNH CHÚNG
Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật
nơi thành Vương Xá, cùng với đại thánh chúng Tỳ kheo một vạn hai ngàn vị đã
chứng thần thông: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giaû Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục
Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v…là những bậc thượng thủ.
Lại có các ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, Di Lặc Bồ Tát và tất cả Bồ Tát trong hiền kiếp đến tập hội.
PHẨM THỨ
HAI
ĐỨC TUÂN
PHỔ HIỀN
Lại có mười sáu vị Bồ Tát tại gia: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện
Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát,
Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ
Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ
Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, là những bậc thượng thủ. Các vị Bồ Tát
này đều tuân theo hạnh nguyện của Phổ Hiền Đại sĩ, thật hành vô lượng hạnh
nguyện quyền hành phương tiện đi khắp mười phương làm các công đức, vào pháp
tạng của chư Phật, rốt ráo giải thoát, nguyện chúng sanh ở vô lượng thế giới
đồng chứng Phật quả. Rời cung trời Đâu Suất, giáng sinh vào cung vua, bỏ ngôi
vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo.
Thị hiện thuận theo thế gian pháp, đem sức định huệ hàng
phục ma oán, đắc pháp vi diệu thành bậc tối chánh giác, người trời qui ngưỡng.
Chuyển bánh xe pháp, đem pháp âm giác ngộ thế gian, phá thành phiền não, lấp ao
tham dục, gột sạch cấu uế, hiển bày đức thanh tịnh, điều phục chúng sanh, tuyên
thuyết diệu lý, tích công lũy đức, gây tạo phước điền. Đem pháp dược cứu liệu
các khổ ba cõi. Làm phép quán đảnh thọ ký Bồ đề. Giáo hóa Bồ Tát nên làm A xà
lê biểu thị vô biên công hạnh, thành thục vô biên thiện căn cho hàng Bồ Tát. Vô
lượng chư Phật đồng đến hộ niệm. Trong tất cả cõi Phật đều có thể thị hiện như
vậy. Như nhà ảo thuật biến ra các hình tướng, nhưng các hình ấy không có thật
tướng. Bậc Bồ Tát này cũng lại như vậy, đã thông đạt tánh tướng của chúng sanh,
cúng dường chư Phật. Dắt dẫn quần sanh, hóa hiện các thân, mau như ánh chớp.
Phá tan lưới chấp, thoát dây ràng buộc, qua khỏi quả vị Thanh văn Bích chi,
chứng nhập ba pháp: Không, vô tướng, vô nguyện.Khéo lập phương tiện hiển thị ba
thừa. Đối với hàng trung hạ căn thị hiện có diệt độ. Chứng đắc vô sanh vô diệt,
vào sâu thiền định, được vô lượng trăm ngàn pháp tổng trì. Ngộ nhập Hoa Nghiêm
tam muội, chứng trăm ngàn tổng trì tam muội, vẫn trụ sâu trong thiền định, thấy
rõ vô lượng đức Phật. Khoảnh khắc đi khắp cõi Phật, được biện tài của Phật. Vào
hạnh nguyện Phổ Hiền.
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ
trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối
với vạn vật tùy ý tự tại. Với lục đạo phàm phu làm bạn không thỉnh. Vâng giữ
pháp tạng nhiệm mầu Như Lai, hộ trì giống Phật khiến không dứt. Phát rộng lòng
thương xót hữu tình, nói lời từ ái, trao pháp nhãn, đóng đường ác, mở cửa lành.
Đối với chúng sanh biểu hiện cởi mở, cứu giúp phò trợ, mong độ chúng sanh đến
bờ giác ngộ. Quyết được vô lượng công đức. trí huệ sáng suốt không thể nghĩ
bàn.
Vô lượng vô biên đại Bồ Tát như vậy đồng đến pháp hội. Lại
có năm trăm vị Tỳ kheo ni, bảy ngàn vị Ưu bà tắc, năm trăm vị Ưu bà di, và chư
thiên cõi Dục, cõi sắc, cõi Phạm chúng đồng đến dự đại hội.
PHẨM THỨ
BA
ĐẠI GIÁO
DUYÊN KHỞI
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện trăm ngàn sắc tướng oai quang
sáng chói, như gương sáng sạch chiếu rõ vạn pháp.
Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ, ngày nay đức Thế Tôn hiện
sắc tướng nghiêm tịnh rạng rỡ nguy nguy, cõi nước trang nghiêm, từ trước đến
nay ta chưa từng thấy, thật là hi hữu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo vai
hữu quỳ gối chấp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay Thế Tôn vào
Đại Tịch Định, an trụ trong pháp đặc biệt, an trụ trong pháp hạnh tối thắng của
chư Phật. Quá hiện vị lai, Phật Phật nhớ nhau. Thế Tôn vì nhớ chư Phật quá khứ,
chư Phật vị lai hay nhớ chư Phật hiện tại phương khác? Vì sao lại có oai thần
hiển diệu thù đặc như vậy, cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy”.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Lành thay! Lành thay!
Ông vì thương xót lợi lạc các chúng sanh mới hỏi điều vi diệu như vậy. Lời thưa
hỏi của ông hôm nay công đức thù thắng hơn trăm ngàn vạn lần nhiều kiếp bố thí
cúng dường các bậc A la hán, Bích chi Phật cùng chư Thiên, nhân loại và
các loài bò bay xuẩn động trong một thiên hạ. Vì sao vậy? Chư Thiên, nhân loại
và tất cả hàm linh đời sau đều nhơn lời hỏi của ông hôm nay mà được độ thoát.
Này A Nan! Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi
nên xuất hiện ở đời, tuyên dương giáo pháp là muốn cứu bạt quần manh, đem lợi
ích chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa ưu đàm hiếm khi xuất hiện, lời hỏi hôm
nay của ông lợi ích rất lớn.
A Nan nên biết: Trí chánh giác của Như Lai rất khó suy
lường, không gì chướng ngại được. Có thể trong một niệm an trụ vô lượng kiếp,
thân và các căn không có sanh diệt. Vì sao vậy?
Định huệ của Như Lai thông đạt vô cùng, tối thắng tự tại
với tất cả pháp. A Nan hãy lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt
giải rõ.
PHẨM THỨ
TƯ
PHÁP TẠNG
NHÂN ĐỊA
Này A Nan: ở vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ lâu xa có
đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh
giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng
phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó trụ thế hóa độ bốn mươi hai
kiếp. Vì hàng chư Thiên và nhân loại mà thuyết giảng kinh pháp”.
Bấy giờ có vị vua tên là Thế Nhiêu nghe Phật thuyết giảng
đạo lý, tâm sanh hoan hỷ lãnh ngộ, liền phát tâm Vô thượng chơn chánh, bèn trao
ngôi vua theo Phật xuất gia làm sa môn hiệu là Pháp Tạng. Tu hạnh Bồ Tát, đức
hạnh cao siêu trí huệ dõng mãnh, thâm tín lý giải đệ nhất. Lại có hạnh nguyện
thù thắng, định huệ tăng thượng kiên cố bất động, tu hành tinh tấn, đến trước
đức Phật đảnh lễ quỳ gối chắp tay tán thán phát đại thệ nguyện, nói kệ rằng:
Thân Như Lai vi diệu đoan nghiêm
Thế gian không ai sánh kịp được
Sáng ngời vô lượng khắp mười phương
Nhựt nguyệt hỏa châu lu mờ cả.
Thế Tôn diễn thuyết một âm thanh
Tùy loại hữu tình thảy thông hiểu
Lại hay hiện sắc thân đẹp đẽ
Tùy loại chúng sanh đều thấy rõ.
Nguyện con thành Phật có tiếng tốt
Đưa Pháp âm đến vô biên cõi,
Tuyên dương pháp: Giới, định , tinh tấn.
Thông đạt rộng sâu pháp nhiệm mầu
Trí huệ rộng lớn như biển cả
Nội tâm thanh tịnh dứt trần lao
Ra hẳn vô biên đường ác thú
Mau đến Bồ đề bờ cứu cánh.
Vô minh tham sân đều dứt sạch
Tuyệt hẳn vọng hoặc, đắc tam muội
Như vô lượng Phật đời quá khứ,
Làm đại Đạo sư khắp quần sanh,
Hay cứu tất cả sự khổ não
Sanh già bịnh chết của chúng sanh.
Thường tu bố thí, giới, nhẫn nhục
Tinh tấn, định, huệ sáu Ba la.
Hữu tình chưa độ khiến được độ,
Kẻ đã độ rồi khiến thành Phật.
Giả sử cúng dường hằng sa Thánh,
Không bằng kiên dõng cầu Chánh giác.
Nguyện an trụ vào Tam ma địa
Hằng phóng hào quang chiếu khắp nơi
Chạm đến được vào nơi thanh tịnh,
Thù thắng trang nghiêm không ai bằng,
Chúng sanh luân hồi trong các cõi,
Mau về cõi con hưởng an lạc.
Thường vận từ tâm cứu hữu tình,
Độ tận vô biên chúng sanh khổ.
Con nguyền quyết định kiên cố tu,
Xin Phật thánh trí chứng biết cho,
Dù cho thân nát trong các khổ,
Nguyện tâm như vậy thề không thối.
PHẨM THỨ
NĂM
CHÍ TÂM
TINH TẤN
Pháp Tạng Tỳ kheo nói bài kệ này rồi liền bạch đức Phật
rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay tu hạnh Bồ Tát, đã phát tâm Vô thượng Chánh
giác, giữ nguyện làm Phật, tất được như Phật. Nguyện đức Phật vì con rộng giảng
kinh pháp, con xin phụng trì, như pháp tu hành, dứt sạch gốc khổ sanh tử, mau
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nguyện khi con thành Phật, trí huệ sáng suốt, hào quang
sáng chói, tiếng tăm quốc độ lan khắp mười phương; trời người cho đến súc sanh,
sanh vào cõi nước con đều thành Bồ Tát. Nguyện con lập đây tất cả đều hơn các
cõi Phật khác, có được chăng?”
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền nói với Pháp Tạng
rằng: “Thí như có người lường nước biển trải qua nhiều kiếp còn có thể đến đáy.
Ngươi đã hết lòng cầu đạo tinh tấn không dứt, quyết sẽ được kết quả! Vậy thì
nguyện gì mà chẳng thành?
Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi
Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh
cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp. Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Điều ấy
quá sâu rộng, không phải cảnh giới của con hiểu được, cúi xin đức Như Lai Ứng
Chánh Biến Tri rộng nói vô lượng vi diệu cõi nước của chư Phật, khi con được
nghe các pháp như vậy rồi, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện con mới được viên mãn”.
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết rõ chí nguyện sâu rộng
của Pháp Tạng, liền nói công đức nghiêm tịnh rộng lớn viên mãn cõi nước của hai
trăm mười ức đức Phật đúng theo tâm nguyện ông mong muốn, trải qua ngàn ức năm.
Bấy giờ Pháp Tạng Tỳ kheo nghe Phật nói rồi, đã được thấy rõ, liền phát nguyện
vô thượng thù thắng. Nơi các cõi xấu, đẹp, thiện, ác, của trời người suy lường
rốt ráo. Chuyên tâm chọn lựa, kết thành đại nguyện, tinh cần cầu tiến, kính cẩn
duy trì tu tập công đức đầy đủ năm kiếp. Ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật công
đức trang nghiêm, rõ ràng thông suốt thành một nước Phật. Khi đã tu tập rồi,
lại đến chỗ của Như Lai thế Tự tại Vương, cúi đầu lạy sát chân, nhiễu Phật ba
vòng rồi, đứng yên chắp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con đã thành
tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Nay chính phải lúc
ông nên nói rõ để mọi người vui mừng, cũng để đại chúng nghe rồi được nhiều lợi
lớn, có thể ở cõi Phật đó tu tập nhiếp thọ trọn đủ vô lượng đại nguyện”.
PHẨM THỨ
SÁU
PHÁT ĐẠI
THỆ NGUYỆN
Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế
Tôn thương xót nghe cho:
·
Con nếu chứng được Vô thượng Bồ Đề, thành Đẳng chánh giác
rồi, cõi nước của Phật ở có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm không thể
nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh các loại. Nếu có chúng sanh
trong ba đường ác cho đến từ địa ngục sanh về cõi con, thọ giáo pháp của con,
tất thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không đọa lại ba đường ác nữa. Được
như vậy con mới làm Phật. Nếu không được như nguyện, thề không thành Vô thượng
Chánh giác.
[1- Nguyện trong nước không có ác đạo.
2- Nguyện không đọa ba đường ác.]
·
Khi con thành Phật, các chúng sanh ở mười phương thế giới
sanh về cõi con, thân tướng sắc vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, đủ tướng
đại trượng phu, đoan nghiêm chánh trực, tất cả đồng một dung nhan, nếu có tốt
xấu, hình thể sai biệt, thề không thành Chánh giác.
[3- Nguyện thân có sắc vàng ròng.
4- Nguyện có ba mươi hai tướng tốt.
5- Nguyện cho thân không sai biệt.]
·
Khi con thành Phật, các chúng sanh sanh về cõi con, biết
rõ vô lượng kiếp trước. Thấy rõ những việc thiện ác đã làm. Nghe rõ sự việc
khắp mười phương cả ba đời khứ lai hiện tại. Nếu không được như nguyện, thề
không thành Chánh giác.
[6- Nguyện có túc mạng thông.
7- Nguyện có thiên nhãn thông.
8- Nguyện có thiên nhĩ thông.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con đều
được tha tâm trí thông, biết được tâm niệm của chúng sanh xa cách trăm ngàn vạn
ức cõi Phật, nếu không như vậy thề không thành Chánh giác.
[9- Nguyện có tha tâm thông.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con,
được thần thông tự tại Ba la mật đa. Trong khoảnh khắc nếu không đi khắp trăm
ngàn vạn ức cõi Phật để cúng dường, thề không thành Chánh giác.
[10- Nguyện được thần túc thông.
11- Nguyện giáp khắp cúng dường chư Phật.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con, xa
lìa tâm phân biệt, các căn tịch tịnh, nếu chẳng an trụ trong định tụ đến đại
Niết bàn, thề không thành Chánh giác.
[12- Nguyện quyết định thành bậc Chánh giác.]
·
Khi con thành Phật, có quang minh vô lượng chiếu
khắp mười phương chư Phật, gấp ngàn vạn ức lần ánh sáng của nhựt nguyệt. Nếu có
chúng sanh nào thấy hay chạm được ánh sáng của con thì được an lạc, khởi từ tâm
làm điều lành, sau sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành
Chánh giác.
[13- Nguyện ánh sáng vô lượng.
14- Nguyện chạm Quang minh được an lạc.]
·
Khi con thành Phật sống lâu vô lượng. Vô số Thanh văn và
trời người trong nước cũng có thọ mạng vô lượng. Giả như chúng sanh ở ba ngàn
thế giới thành bậc Duyên giác trải qua trăm ngàn kiếp để tính đếm, nếu biết
được số lượng ấy, thề không thành Chánh giác.
[15- Nguyện thọ mạng vô lượng.
16- Nguyện Thanh văn vô số.]
·
Khi con thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi ở
mười phương thế giới, nếu không khen ngợi tên con, nói công đức quốc độ của
con, thề không thành Chánh giác.
[17- Nguyện được chư Phật xưng tán.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh
hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, tâm tâm hồi hướng nguyện
sanh về cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, thề không
thành Chánh giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
[18- Nguyện mười niệm tất vãng sanh.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh
hiệu con, phát tâm Bồ đề, tu các công hạnh, hành sáu Ba la mật, kiên cố không
lùi, lại đem các căn lành hồi hướng nguyện sanh về cõi nước con, một lòng nghĩ
đến con ngày đêm không dứt, đến khi mạng chung, con cùng Thánh chúng Bồ Tát
liền đến tiếp đón, khoảnh khắc sanh về cõi con được Bất thối chuyển. Nếu không
được như nguyện, thề không thành Chánh giác.
[19- Nguyện nghe danh phát tâm.
20- Nguyện lâm chung tiếp dẫn.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh
hiệu con, nhớ nghĩ nước con, phát tâm Bồ đề kiên cố không thối lui, trồng các
căn lành, hết lòng hồi hướng sanh về Cực Lạc, đều được toại ý; nếu có ác nghiệp
đời trước, nghe danh hiệu con hết lòng sám hối, làm các điều lành, lại trì kinh
giữ giới nguyện sanh về nước con, mạng chung không lạc vào ba đường ác, liền
sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[21- Nguyện sám hối được vãng sanh]
·
Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ. Nếu có nữ
nhơn nào nghe danh hiệu con, thanh tịnh tin tưởng, phát tâm Bồ đề, chán ghét nữ
thân, mạng chung liền hóa thân nam tử sanh về nước con. Các loại chúng sanh ở
thế giới mười phương, sanh về nước con đều hóa sanh trong hoa sen thất bảo. Nếu
không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[22- Nguyện trong nước không có người nữ.
23- Nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam.
24- Nguyện Liên hoa hóa sanh.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh
hiệu con vui mừng tin tưởng, lễ bái qui mạng, đem tâm thanh tịnh tu hạnh Bồ
tát, chư Thiên và người đời hết lòng tôn kính. Nếu nghe danh hiệu con, sau khi
mạng chung được sanh vào nhà tôn quý, các căn đầy đủ. Thường tu thù thắng phạm
hạnh. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[25- Nguyện Thiên Nhân lễ kính.
26- Nguyện nghe danh hiệu được phước.
27- Nguyện tu thù thắng hạnh]
·
Khi con thành Phật, nước con không có tên ba đường ác.
Chúng sanh sanh vào nước con đều nhất tâm trụ vào chánh định. Không còn nhiệt
não, tâm được mát mẻ, hưởng thọ an lạc, như Tỳ kheo lậu tận. Nếu còn khởi tưởng
niệm tham đắm thân sau, thề không thành Chánh giác.
[28- Nguyện nước không có tên "Bất thiện".
29- Nguyện trụ Chánh định tụ.
30- Nguyện vui như Tỳ kheo dứt sạch các lậu.
31- Nguyện không tham chấp thân]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, được vô
lượng căn lành, thân thể vững chắc như kim cang bất hoại, thân mình đều có hào
quang chiếu sáng. Thành tựu hết thảy trí huệ, biện tài không cùng tận. Rộng nói
các pháp bí yếu, giảng kinh thuyết pháp, tiếng như chuông vang. Nếu không được
như vậy, thề không thành Chánh giác.
[32- Nguyện được Na la diên thân.
33- Nguyện Quang minh trí huệ biện tài.
34- Nguyện khéo nói pháp yếu]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con quyết
chắc đến bậc Nhất Sanh Bổ Xứ. Trừ khi phát nguyện rộng lớn trở lại độ sanh,
giáo hóa hữu tình, khuyến phát tín tâm, tu hạnh Bồ tát, hành nguyện Phổ Hiền,
tuy sanh vào thế giới khác hằng lìa ác thú, hoặc thích thuyết pháp, nghe pháp,
hay hiện thần túc, tùy ý tu tập thảy đều viên mãn. Nếu không được như vậy, thề
không thành Chánh giác.
[35- Nguyện nhất sanh bổ xứ.
36- Nguyện giáo hóa tùy ý.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, nếu muốn
ăn uống, y phục hay các đồ cần dùng tùy ý liền đến. Nếu khởi niệm cúng dường
mười phương chư Phật, liền được mãn nguyện. Nếu không được như vậy, thề không
thành Chánh giác.
[37- Nguyện y thực tự đến.
38- Nguyện ứng niệm thọ cúng.]
·
Khi con thành Phật, vạn vật trong cõi nước con đều trang
nghiêm thanh tịnh sáng chói, hình sắc thù thắng vi diệu không thể tả xiết, dù
có thiên nhãn cũng không thể diễn tả hết vẻ đẹp về hình sắc, hình tướng lộng
lẫy và số lượng chúng sanh ở đó v.v… Nếu không được như vậy, thề không thành
Chánh giác.
[ 39- Nguyện trang nghiêm vô tận.]
·
Khi con thành Phật, vô lượng cây cảnh trong cõi nước con
cao trăm ngàn do tuần. Cây làm đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm. Các bậc Bồ Tát
trung phẩm cũng có thể biết rõ. Nếu muốn thấy các cõi thanh tịnh trang nghiêm
của chư Phật, tuy ở nơi cây báu cũng được thấy rõ vạn tượng như xem trong
gương. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[40- Nguyện có vô lượng cây sắc báu.
41- Nguyện cây hiện cõi Phật.]
·
Khi con thành Phật, cõi nước rộng rãi nghiêm tịnh,
sáng chói như gương, chiếu khắp vô lượng vô số bất khả tư nghì thế giới chư
Phật khắp mười phương, chúng sanh thấy rồi sanh tâm hi hữu. Nếu không được như
vậy, thề không thành Chánh giác.
[42- Nguyện chiếu suốt mười phương.]
·
Khi con thành Phật, cùng tột dưới đất, trên đến hư không,
tất cả vạn vật cung điện, lầu các, ao nước, hoa cây v.v… trong nước đều do vô
lượng bảo hương hiệp thành, hương thơm xông khắp mười phương thế giới, chúng
sanh ngửi được đều tu Phật hạnh. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh
giác.
[43- Nguyện hương báu xông khắp.]
·
Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát trong mười phương cõi
Phật, nghe danh con rồi đều được thanh tịnh giải thoát, Phổ đẳng Tam muội, các
môn Tổng trì vào Tam ma địa cho đến thành Phật. Tuy ở trong định thường cúng
dường vô lượng vô biên chư Phật vẫn không mất định ý. Nếu không được như vậy,
thề không thành Chánh giác.
[44- Nguyện phổ đẳng tam muội
45- Nguyện trong định cúng Phật.]
·
Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát ở thế giới khác nghe
danh con rồi chứng Ly sanh pháp, được các môn Đà la ni. Thanh tịnh hoan hỷ, an
trụ trong thể tướng bình đẳng, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ trí đức mà không chứng
được ba nhẫn, nơi Phật pháp mà không chứng được bậc Bất thối chuyển, thề không
thành Chánh giác”.
[46- Nguyện được môn Tổng trì.
47- Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn.
48- Nguyện hiện chứng quả bất thối chuyển]
PHẨM THỨ
BẢY
QUYẾT
THÀNH CHÁNH GIÁC
Này A Nan: Bấy giờ Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện rồi, liền
đọc bài tụng:
Con lập nguyện hơn đời,
Tất đến đạo Vô Thượng,
Nguyện này nếu không toại,
Thề không thành Chánh giác.
Lại làm đại thí chủ
Cứu khắp kẻ cùng khổ,
Khiến các quần sanh kia,
Đêm dài không ưu não,
Phát sanh các căn lành,
Thành tựu quả Bồ đề.
Con nếu thành Chánh giác,
Lấy tên Vô Lượng Thọ.
Chúng sanh nghe danh này
Sanh về cõi nước con,
Thân kim sắc như Phật,
Tướng tốt thảy viên mãn,
Cũng đem tâm đại bi,
Lợi ích các quần sanh,
Ly dục sâu thiền định
Tịnh huệ tu phạm hạnh.
Nguyện đem trí huệ sáng,
Chiếu khắp mười phương cõi,
Tiêu trừ ba độc hại
Cứu khỏi các ách nạn,
Dứt sạch khổ tam đồ,
Diệt hết phiền não ám,
Khai sáng mắt trí huệ,
Chứng được thân quang minh
Đóng hết ba đường ác,
Mở rộng các cửa lành.
Vì chúng khai tạng pháp,
Rộng thí báu công đức,
Trí vô ngại như Phật,
Làm các hạnh từ mẫn.
Đạo Sư cả trời người,
Anh hùng khắp ba cõi,
Thuyết pháp sư tử hống,
Rộng độ các hữu tình
Viên mãn lời phát nguyện,
Tất cả đều thành Phật.
Nguyện này nếu thành tựu,
Đại thiên thảy chấn động.
Các thiên thần trên không,
Mưa xuống trân diệu hoa.
Này A Nan! Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, mặt đất chấn
động sáu cách. Hoa trời rưới khắp, âm nhạc tự trỗi, không trung vang lời khen:
Quyết chắc thành Vô thượng Chánh giác.
PHẨM THỨ
TÁM
TÍCH CÔNG
LŨY ĐỨC
Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo ở trước Như Lai Thế Tự Tại
Vương và giữa đại chúng trời người phát hoằng thệ nguyện này rồi, an trụ trong
huệ chân thật, dõng mãnh tinh tấn một hướng chuyên tâm trang nghiêm cõi nước,
xây dựng Phật quốc rộng lớn, siêu việt thắng diệu, kiến lập vĩnh viễn, tuyệt
không hư hoại, không biến đổi. Trong vô lượng kiếp vun trồng đức hạnh, không
khởi tưởng dục ba độc, chẳng đắm sáu trần, chỉ chuyên nhớ nghĩ chư Phật thuở
quá khứ đã tu căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa lìa luống dối, y chơn đế môn,
làm các công đức, không nề các khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp thanh
tịnh, đem ân huệ lợi ích quần sanh, chí nguyện không mỏi, thành tựu các nhẫn.
Đối với hữu tình nói lời từ ái vui vẻ hòa dịu khuyến dụ khích lệ. Cung kính Tam
bảo, phụng sự sư trưởng. Không giả dối nịnh hót, nghiêm trang đứng đắn, khuôn
phép nhứt mực. Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch. Giữ gìn khẩu nghiệp,
không nói lỗi người, giữ gìn thân nghiệp, không mất oai nghi, giữ gìn ý nghiệp,
thanh tịnh không nhiễm. Nếu có quốc thành xóm làng quyến thuộc trân bảo, không
sanh tham trước, hằng hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ sáu Ba la mật. Giáo hóa chúng sanh an trụ đạo Vô thượng Chánh giác. Do
thành thục các căn lành như vậy, nên sanh đến chỗ nào tự nhiên cảm ứng có vô
lượng kho báu, hoặc làm trưởng giả cư sĩ, hào hiệp tôn quý, hoặc làm Sát lợi
Quốc vương, Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm vua trời cõi Lục dục cho đến Phạm
vương, cung kính cúng dường chư Phật chưa từng gián đoạn. Những công đức như
vậy chẳng thể kể hết.
Miệng thường tỏa hương thơm như hương chiên đàn, hương thơm hoa
sen, hương thơm ấy xông khắp vô lượng thế giới. Phàm sanh ra chỗ nào sắc tướng
cũng đoan nghiêm, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi nét đẹp. Tay thường xuất
sanh châu báu vô tận, tất cả đồ cần dùng đẹp đẽ tối thượng để lợi lạc hữu tình.
Do nhân duyên ấy, khiến vô lượng chúng sanh phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề.
PHẨM THỨ
CHÍN
THÀNH TỰU
VIÊN MÃN
Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo tu hạnh Bồ Tát, tích công lũy
đức vô lượng vô biên trong tất cả pháp mà được tự tại, không thể dùng lời diễn
tả hết chỗ phát thệ, thành tựu viên mãn như thật an trụ cụ túc trang nghiêm,
oai đức rộng lớn thanh tịnh cõi Phật được.
Tôn giả A Nan nghe đức Phật nói lời ấy rồi, cung kính thưa
rằng: Bạch đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ Tát chứng Bồ đề là đã thành Phật và nhập
diệt rồi hay chưa thành Phật, hay đã thành Phật hiện ở thế giới khác?
Đức Thế Tôn nói: “Đức Phật Như Lai kia, đến không chỗ đến,
đi không chỗ đi, không sanh không diệt, không có quá hiện vị lai, chỉ có một
nguyện độ sanh. Hiện ở phương Tây cách Diêm phù đề này mười vạn ức cõi Phật,
thế giới đó gọi là Cực Lạc, Pháp Tạng thành Phật hiệu là A Di Đà. Thành Phật đến
nay đã mười kiếp, hiện đang thuyết pháp, có vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thanh
văn cung kính vây quanh”.
PHẨM THỨ
MƯỜI
ĐỀU NGUYỆN
LÀM PHẬT
Lúc đức Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát viên mãn hạnh
nguyện rồi, A Xà Vương tử cùng với năm trăm trưởng giả biết được đều rất vui
mừng, mỗi mỗi cầm một bó hoa bằng vàng đến trước Phật đảnh lễ và dâng hoa xong
ngồi về một phía. Họ đồng tâm nguyện rằng, khi chúng tôi thành Phật đều như đức
Phật A Di Đà”.
Đức Phật biết tâm nguyện của họ, bảo các Tỳ kheo rằng:
“Các vương tử này sau sẽ thành Phật. Đời trước khi còn tu hạnh Bồ Tát, trải qua
vô số kiếp đã cúng dường bốn trăm ức đức Phật. Thời Phật Ca Diếp họ là đệ tử
ta, nay lại đến cúng dường ta”. Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói đều rất vui mừng.
PHẨM MƯỜI
MỘT
CÕI NƯỚC NGHIÊM
TỊNH
Này A Nan! Cõi Cực Lạc kia có vô lượng công đức đầy đủ
trang nghiêm, tuyệt không có danh từ khổ nạn, ác thú ma não, cũng không có bốn
mùa nóng lạnh sáng tối, không có sông biển lớn nhỏ, gò nổng hầm hố, gai gốc đá
sỏi, núi Thiết vi, núi Tu di, đất đá núi non, chỉ là tự nhiên bằng bảy báu.
Vàng ròng làm đất rộng rãi bằng phẳng không có hạn lượng, kỳ diệu tú lệ, thanh
tịnh trang nghiêm, thù thắng hơn tất cả thế giới khắp mười phương.
Tôn giả A Nan nghe rồi thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
cõi đó không có núi Tu di thì Tứ Thiên Vương và Đao Lợi Thiên nương tựa vào
đâu?”
Này A Nan! Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất cho đến chư Thiên cõi
Sắc và Vô sắc nương vào đâu?
Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do nghiệp lực tạo
nên không thể nghĩ bàn được”.
Đức Phật hỏi A Nan: “Bất tư nghì nghiệp ông có thể biết
chăng?”
Quả báo thân ông bất khả tư nghì, nghiệp báo chúng sanh
cũng bất khả tư nghì, căn lành của chúng sanh bất khả tư nghì, Thánh lực chư
Phật, thế giới chư Phật cũng bất khả tư nghì, đất nước chúng sanh, công đức
thiện lực, trú hành nghiệp địa và thần lực chư Phật cũng đều như vậy cả”.
Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nghiệp nhân và quả
báo không thể nghĩ bàn được. Đối với pháp này thật con không hoài nghi, nhưng
vì muốn phá trừ sự nghi ngờ của chúng sanh đời sau nên thưa hỏi lời này”.
PHẨM MƯỜI
HAI
ÁNH SÁNG
CHIẾU KHẮP
Này A Nan! Oai thần và quang minh của Phật A Di Đà tối tôn
đệ nhất, quang minh của chư Phật khác chẳng sánh kịp. Quang minh ấy chiếu khắp
hằng sa cõi Phật ở Phương Đông, Tây, Nam , Bắc, trên dưới và bốn phương phụ
cũng lại như vậy. Hào quang trên đảnh chiếu xa một hai ba bốn do tuần, hoặc
trăm ngàn vạn ức do tuần. Hào quang các đức Phật khác hoặc chiếu đến một hai
cõi Phật, hoặc trăm ngàn cõi Phật, chỉ có hào quang đức Phật A Di Đà chiếu khắp
vô lượng vô số vô biên cõi Phật. Hào quang chư Phật chiếu ra có xa có gần vì
bổn nguyện công đức đời trước cầu đạo có lớn nhỏ không đồng, nên khi thành Phật
tự có hạn lượng.
Quang minh đức Phật A Di Đà sáng chói gấp bội trăm ngàn
vạn lần ánh sáng nhựt nguyệt, tôn quý trong các ánh sáng, nên Phật Vô Lượng Thọ
cũng hiệu là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật
Vô Đẳng Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Thường Chiếu Quang, Phật Thanh Tịnh
Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Giải Thoát Quang, Phật An Ổn Quang, Phật Siêu
Nhựt Nguyệt Quang, Phật Bất Tư Nghì Quang.
Quang minh ấy chiếu khắp mười phương thế giới, chúng sanh
nào gặp được quang minh ấy thì cấu uế tiêu diệt, điều lành phát sanh, thân ý
hòa dịu. Nếu ở tam đồ chịu khổ cùng cực thấy được quang minh này liền được dừng
khổ, mạng chung được giải thoát. Chúng sanh nào nghe được oai thần công đức
quang minh này ngày đêm khen nói chí tâm không nghỉ, tùy theo ý nguyện được
sanh về Cực Lạc.
PHẨM MƯỜI
BA
THỌ MẠNG
ĐẠI CHÚNG VÔ LƯỢNG
Này A Nan ! Đức Phật Vô Lượng Thọ mạng sống trường cửu
không thể tính được. Lại có vô số chúng Thanh văn thần trí thông đạt, năng lực
tự tại có thể nắm tất cả thế giới trong bàn tay. Trong hàng đệ tử ta, đại Mục
Kiền Liên có thần thông bậc nhất, trong một ngày đêm biết hết số lượng chúng
sanh của tất cả tinh cầu trong đại thiên thế giới.Giả sử chúng sanh trong mười
phương tất cả đều chứng quả Duyên giác, mỗi mỗi Duyên giác thọ vạn ức năm, có
thần thông như Mục Kiền Liên, đem hết trí lực suốt đời cũng không tính đếm
được, ngàn vạn phần cũng không bằng một số phần Thanh văn trong Phật hội kia.
Ví như biển lớn sâu rộng vô biên, nếu lấy một sợi tóc chẻ
làm trăm phần, tán ra thành bụi, rồi lấy một hột bụi ấy thấm một giọt nước
biển, nước nơi bụi tóc ấy so với biển cả chẳng lấy gì nhiều. Này A Nan! Các vị
Mục Kiền Liên thảy còn biết được số lượng, còn nước nơi bụi tóc so với biển cả
không thể tính được. Thọ mạng của Phật và thọ lượng chúng Bồ Tát, Thanh văn,
Thiên, Nhơn ở cõi ấy cũng như vậy, không thể lấy toán số thí dụ mà biết
được.
PHẨM MƯỜI
BỐN
CÂY BÁU
KHẮP NƯỚC
Cõi nước Cực Lạc có nhiều cây báu, có cây thuần bằng vàng,
hoặc thuần bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não, hoặc do một thứ
báu mà thành, hoặc do hai ba cho đến bảy báu xen nhau hiệp thành. Gốc thân cành
do báu này thành, hoa lá quả do báu khác thành. Có cây gốc bằng vàng, thân bằng
bạc, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã
não làm quả. Lại có các cây do bảy báu xen lẫn nhau làm gốc thân cành lá hoa
quả. Mỗi báu có hàng hàng khác nhau, hàng hàng thẳng nhau, thân thân xây nhau,
cành lá hướng nhau, hoa quả xứng nhau, màu sắc rực rỡ tươi đẹp không thể tả
xiết. Khi gió lay động phát ra âm thanh vi diệu. Các hàng cây báu ấy cùng khắp
trong cõi nước.
PHẨM MƯỜI
LĂM
BỒ ĐỀ ĐẠO
TRÀNG
Cây Bồ đề nơi đạo tràng cao bốn mươi vạn dặm, chu vi rộng
năm ngàn do tuần, cành lá bốn phía hai mươi vạn dặm, do các báu tự nhiên hiệp
thành, hoa quả sum sê chói sáng cùng khắp, lại có các ngọc ma ni hồng lục xanh
trắng, và các báu quý nhất kết thành chuỗi trang hoàng các cột báu. Vàng ngọc
chuông khánh treo khắp nơi. Lưới võng trân diệu trăm ngàn vạn sắc giăng mắc
trên không. Vô lượng tia sáng phản chiếu lẫn nhau rất vi diệu, tất cả trang
nghiêm tùy ý hiện nên. Gió nhẹ thổi đến lay động cành lá phát ra vô lượng âm
thanh diệu pháp, vang khắp các cõi Phật, âm thanh du dương hòa nhã, tối thắng
bậc nhất hơn các âm thanh ở mười phương thế giới.
Nếu chúng sanh nào thấy được cây Bồ đề, nghe tiếng, ngửi
mùi, nếm trái, chạm được ánh sáng, nghĩ đến công đức của cây thì sáu căn thanh
tịnh không có não loạn, trụ vào bất thối chuyển cho đến khi thành Phật. Nếu
thấy được cây ấy thì được ba nhẫn: Một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn,
ba là vô sanh pháp nhẫn.
Này A Nan ! Hoa quả cây cối và các chúng sanh cõi Phật ấy
làm các Phật sự như vậy, là do sức oai thần, bản nguyện đầy đủ kiên cố cứu cánh
của Phật Vô Lượng Thọ vậy.
PHẨM MƯỜI
SÁU
NHÀ CỬA
LẦU GÁC
Giảng đường, tịnh xá, lầu quán, lan can nơi cõi Phật Vô
Lượng Thọ cũng do bảy báu tự nhiên hóa thành. Lại có bạch châu ma ni nghiêm
sức, sáng chói không bì được. Cung điện của Bồ Tát ở cũng lại như vậy. Nơi đó
có chỗ giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, đi kinh hành trên đất. Tư
đạo và tọa thiền trên không trung, cũng có chỗ giảng tụng thọ thính kinh hành.
Những vị tư đạo và tọa thiền là bậc đã chứng Tu đà hoàn,
Tư đà hàm, A na hàm, hoặc A la hán. Vị chưa chứng A duy việt trí thì chứng A
duy việt trí. Các vị ấy tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo đầy đủ pháp hỷ.
PHẨM MƯỜI
BẢY
SUỐI AO
CÔNG ĐỨC
Hai bên giảng đường có ao suối chảy quanh, ngang dọc sâu
cạn bằng nhau, hoặc mười hai mươi hoặc trăm ngàn do tuần, phẳng lặng thơm sạch,
nước đủ tám công đức. Trên bờ có vô số cây chiên đàn hương, cây trái cát tường,
hoa quả thơm tho, chiếu sáng rực rỡ. Lá dày che khắp trên ao, tỏa ra các mùi
thơm, hương thơm thoảng trong gió theo nước bay xa, thế gian không ví được. Các
ao bằng bảy báu, đáy bằng cát vàng, các hoa sen ưu bát la, bát đàm ma, câu vật
đầu, phân đà lợi, nhiều màu rực rỡ khắp trên mặt nước. Chúng sanh muốn tắm, nếu
muốn nước đến chân, đến gối, đến lưng, đến cổ hoặc muốn rưới khắp thân, muốn
lạnh, muốn ấm, chảy mạnh hay từ từ, nhất nhất theo ý muốn, giúp phát giác tánh,
phá mê khai ngộ, sạch sẽ yên tịnh.
Cát báu dưới đáy phản chiếu khắp nơi, sóng gợn lăn tăn
phát ra vô lượng âm thanh vi diệu, nào tiếng Tam Bảo, tiếng Ba la mật, tiếng
chỉ tức tịch tịnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực vô úy, tiếng vô tánh
vô tác vô ngã, tiếng đại từ bi hỷ xả, tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị. Khi nghe các
âm thanh như vậy tâm liền thanh tịnh không còn phân biệt, chánh trực bình đẳng,
thành thục căn lành. Ý muốn nghe pháp nào chỉ có pháp đó phát ra, nếu không
muốn nghe nữa liền im lặng, vĩnh viễn không thối tâm Bồ Đề. Những người trong
mười phương thế giới được vãng sanh đều hóa sanh từ trong hoa sen ở ao thất
bảo, được thân pháp tánh, thể chất bất sanh bất diệt, không còn nghe tên khổ
não khổ nạn của tam đồ. Giả dụ còn không có, huống là có khổ. Chỉ có tiếng vui
thích tự nhiên, do vậy nước đó gọi là Cực Lạc.
PHẨM MƯỜI
TÁM
HIẾM CÓ,
SIÊU VƯỢT THẾ GIAN
Dung sắc chúng sanh ở nước Cực Lạc lộng lẫy hơn hẳn thế
gian, đồng một hình thể không có tướng sai biệt; chỉ vì thuận theo lề lối các
phương khác nên có tên Thiên, Nhơn.
Này A Nan! Ví như ở thế gian kẻ nghèo khổ ăn xin, đứng bên
đế vương, diện mạo hình trạng há có thể sánh bằng không? Đế vương nếu so với
Chuyển luân Thánh vương thì thô bỉ xấu xí như kẻ ăn xin. Chuyển luân Thánh
vương oai tướng bậc nhất, nếu so với vua cung trời Đao Lợi lại càng xấu tệ.
Trời Đế Thích so với cõi trời thứ sáu thua xa trăm ngàn lần. Cõi trời thứ sáu
tuy dung mạo xinh đẹp ngàn vạn lần, làm sao sánh bằng dung sắc của Bồ Tát Thanh
văn ở cõi Cực Lạc được.
Đến như cung điện, y phục ẩm thực như là những vật ở cung
trời Tha hóa tự tại. Còn như oai đức phẩm vị thần thông biến hóa của họ thì gấp
trăm ngàn vạn ức lần hơn tất cả cõi nhơn thiên, không thể tính nổi được.
A Nan nên biết, cõi nước Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ có
công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn như thế.
PHẨM MƯỜI
CHÍN
THỌ DỤNG
ĐẦY ĐỦ
Lại nữa, chúng sanh ở thế giới Cực Lạc, hoặc đã sanh, hoặc
đang sanh, hoặc sẽ sanh đều có sắc thân xinh đẹp như vầy: hình dung tướng mạo
đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, thọ dụng
phong túc, cung điện, phục sức, hương hoa, phan cái tất cả đều trang nghiêm,
các sự cần dùng đều theo ý muốn. Khi muốn ăn, chén bát bằng bảy báu tự nhiên
hiện ra, trăm thứ thức ăn tự nhiên sung mãn, tuy có đồ ăn nhưng không phải ăn,
chỉ thấy sắc ngửi hương, ăn bằng ý tưởng. Sắc lực tăng trưởng, không có đại
tiểu tiện, thân tâm nhẹ nhàng, không tham luyến hương vị, dùng rồi liền biến
mất, đến giờ ăn lại hiện ra. Lại có nhiều y phục báu đẹp, giải mũ áo bằng anh
lạc trăm ngàn màu sắc sáng chói vô lượng, tất cả tự nhiên mặc vào thân. Nhà cửa
xứng với hình sắc. Lưới báu giăng trên không, linh báu treo khắp, đẹp đẽ lạ
lùng, bóng loáng sáng ngời hết sức tráng lệ.
Lầu các lan can, mái hiên điện đường, rộng hẹp vuông tròn,
hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc giữa không trung, hoặc trên đất bằng, thanh tịnh yên ổn
vi diệu an vui, tùy ý hiện đến đầy đủ.
PHẨM HAI
MƯƠI
GIÓ ĐỨC
MƯA HOA
Cõi nước đức Phật đó, đến giờ ăn gió thoảng nhẹ tự nhiên
làm lay động lưới giăng và các cây báu phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói pháp
khổ, không, vô thường, vô ngã, các Ba la mật, lưu bố vạn thứ hương đức, ai nghe
được rồi phiền não tập khí tự nhiên không khởi. Gió chạm vào mình an hòa dễ
chịu, như vị Tỳ kheo chứng được diệt tận định.
Lại thổi bảy hàng cây báu, thổi hoa tụ lại từng loại màu
sắc trải khắp mặt đất, thứ lớp theo sắc không có tạp loạn, êm dịu sáng sạch như
đâu la miên, chân đi lên lún sâu bốn lóng tay, khi dở chân lên lại bằng phẳng
như cũ. Qua khỏi giờ ăn hoa ấy tự mất, mặt đất sạch sẽ, lại mưa hoa mới, tùy
theo thời tiết rơi cùng khắp như trước không khác, như vậy sáu lần mỗi ngày
đêm.
PHẨM HAI
MƯƠI MỐT
SEN BÁU
PHẬT QUANG
Lại có nhiều hoa sen báu cùng khắp cả nước, mỗi mỗi hoa
báu có trăm ngàn ức cánh. Ánh sáng mỗi hoa có nhiều màu sắc, hoa xanh thì ánh
sáng xanh, hoa trắng ánh sáng trắng, vàng đỏ tía huyền, màu sắc ánh sáng cũng
lại như vậy. Lại có vô lượng diệu bảo, trăm ngàn ma ni lấp lánh kỳ lạ, sáng
chiếu như nhật nguyệt. Hoa sen to lớn hoặc nửa do tuần, hoặc một hai ba bốn cho
đến trăm ngàn do tuần. Trong mỗi hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng.
Trong mỗi ánh sáng có ba mươi sáu trăm ngàn đức Phật sắc thân tử kim, tướng tốt
thù đặc. Mỗi mỗi đức Phật lại phóng ra trăm ngàn hào quang chiếu khắp mười
phương nói pháp vi diệu. Chư Phật ấy muốn đưa vô lượng chúng sanh đến Phật đạo.
PHẨM HAI
MƯƠI HAI
QUYẾT
CHỨNG CỰC QUẢ
Lại này A Nan! Cõi nước đức Phật đó không có cảnh tối tăm
đèn đuốc nhật nguyệt tinh tú ngày đêm, cũng không có tên năm tháng kiếp số, lại
không có sự tham đắm nhà cửa, mọi nơi không có danh hiệu tiêu thức, cũng không
có nhà ở riêng biệt, chỉ có sự hưởng thọ thanh tịnh an lạc tối thượng. Nếu có
trai lành gái tín nào hoặc đã sanh hoặc sẽ sanh đều an trụ nơi chánh định,
quyết sẽ chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tại sao vậy?
Nếu có tà định hay bất định thì không biết rõ đạo lý nhân
quả để sanh về Cực Lạc được.
PHẨM HAI
MƯƠI BA
MƯỜI
PHƯƠNG CHƯ PHẬT TÁN THÁN
Lại nữa A Nan, hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, trong
mỗi thế giới có hằng sa đức Phật xuất tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang
minh nói lời thành thật, khen ngợi công đức bất khả tư nghì của đức Phật Vô
Lượng Thọ. Hằng sa thế giới chư Phật ở chín phương khác, cũng đồng xưng tán như
thế. Tại sao vậy?
Vì muốn chúng sanh ở các phương khác nghe danh hiệu đức
Phật Vô Lượng Thọ, phát tâm thanh tịnh nhớ nghĩ thọ trì, quy y cúng dường cho
đến phát một niệm tịnh tín, nếu có căn lành nào chí tâm hồi hướng, nguyện sanh
về cõi Cực Lạc ấy, tùy nguyện vãng sanh, được Bất thối chuyển cho đến quả vị Vô
thượng chánh đẳng Bồ đề.
PHẨM HAI
MƯƠI BỐN
BA BẬC
VÃNG SANH
Này A Nan ! Chư thiên, nhân dân ở mười phương thế giới chí
tâm nguyện sanh về cõi ấy có ba hạng:
Bậc thượng phẩm là những người xuất gia, lìa tham dục làm
sa môn, phát tâm Bồ đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, làm các công đức, nguyện
sanh về cõi đó. Những chúng sanh này khi mạng chung, đức Phật A Di Đà cùng
Thánh chúng hiện đến trước mặt, liền theo đức Phật sanh về cõi đó, tự nhiên hóa
sanh trong hoa sen bảy báu, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn hiện đời thấy Phật A Di
Đà, phải phát tâm Vô thượng Bồ đề, phải luôn nhớ nghĩ cõi nước Cực Lạc, nhóm
chứa được căn lành nào nên đem hồi hướng. Do thấy được Phật, nên khi sanh về
nước đó được bậc Bất thối chuyển cho đến quả Vô thượng Bồ Đề.
Hạng trung là những người tuy không làm sa môn, nhưng làm
nhiều công đức, phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà. Tuy đã
làm nhiều công đức, giữ gìn trai giới, xây dựng tháp tượng, cúng dường, treo
phan đốt đèn dâng cúng hoa hương, tất cả đều phải hồi hướng nguyện sanh về Cực
Lạc. Khi mạng chung hóa thân đức Phật A Di Đà hiện ra đầy đủ tướng tốt quang
minh như chính đức Phật cùng với đại chúng vây quanh hiện trước người đó, nhiếp
thọ tiếp dẫn, liền theo hóa Phật sanh về cõi Cực Lạc, ở bậc Bất thối chuyển Vô
thượng Bồ Đề, công đức trí huệ kế bậc thượng phẫm.
Hạng hạ phẩm là những người giả sử không hay làm các công
đức, mà đã phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, vui mừng tin
sâu không chút nghi ngờ, hết lòng nguyện sanh về cõi Cực Lạc, người này mạng
chung mộng thấy đức Phật cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kế bậc trung
Nếu có chúng sanh theo pháp đại thừa, đem tâm thanh tịnh,
hướng về đức Vô Lượng Thọ, niệm đến mười niệm, nguyện sanh về Cực Lạc, nghe
pháp rộng sâu hiểu rốt ráo, cho đến được một niệm thanh tịnh, phát một niệm nhớ
nghĩ đến đức Phật đó, người này mạng chung thấy Phật A Di Đà như trong chiêm
bao, nhứt định sanh về nước Cực Lạc, được Bất thối chuyển Vô thượng Bồ Đề.
Lại này A Nan! Nếu có trai lành gái tín nào nghe kinh này,
thọ trì đọc tụng biên chép cúng dường, ngày đêm liên tục cầu sanh về cõi Cực
Lạc, phát tâm Bồ Đề, giữ các giới cấm bền vững không phạm, lợi ích hữu tình,
làm được chút điều lành gì đều ban bố cho họ khiến được an vui, hằng nhớ nghĩ
đến đức Phật A Di Đà và cõi nước Cực Lạc ở phương Tây, người ấy khi mạng chung
có sắc tướng trang nghiêm như Phật, sanh về cõi báu mau được nghe pháp, vĩnh
viễn không thối chuyển.
PHẨM HAI
MƯƠI LĂM
CHÁNH NHÂN
VÃNG SANH
Lại nữa A Nan! Nếu có chúng sanh muốn sanh về nước kia,
tuy không siêng năng thiền định, nhưng hết lòng trì kinh giữ giới, chuyên làm
điều lành, nghĩa là không giết hại sanh vật, không trộm cắp, không dâm dục,
không nói dối, không thêu dệt, không nói lời hung dữ, không nói đâm thọc, không
tham lam, không giận hờn, không si mê, ngày đêm nhớ nghĩ đức Phật A Di Đà ở thế
giới Cực Lạc có nhiều công đức, nhiều sự trang nghiêm, chí tâm quy y đảnh lễ
cúng dường; người ấy khi mạng chung không kinh sợ, tâm không rối loạn, liền
được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Nếu người quá nhiều việc không thể xuất gia, không rảnh
tu trai giới, nhứt tâm thanh tịnh, lúc rảnh rỗi yên tịnh thân tâm , tuyệt dục
bỏ lo lắng, từ tâm tinh tấn, không hờn giận, ganh ghét, không tham tiếc keo
kiệt, không ân hận hồ nghi, hiếu thuận, trung tín, tin sâu lời Phật dạy, tin
làm lành đặng phước, phụng trì các pháp như vậy không được thiếu mất, suy nghĩ
chính chắn, muốn được độ thoát, ngày đêm luôn cầu nguyện được vãng sanh về cõi
thanh tịnh của Phật A Di Đà, trong mười ngày mười đêm, cho đến một ngày một đêm
không ngừng nghỉ, khi mạng chung được vãng sanh về cõi nước kia, tu đạo Bồ Tát.
Những người vãng sanh đều được Bất thối chuyển, thân sắc đủ ba mươi hai tướng
tốt, sẽ được thành Phật. Nếu muốn thành Phật ở một phương cõi nào khác, theo
tâm ước nguyện tùy sự chuyên cần, sáng tối cầu đạo không ngừng nghỉ, sẽ được
kết quả không mất chí nguyện.
Này A Nan! Do điều lợi này nên vô lượng vô số bất khả tư
nghì, vô biên thế giới chư Phật Như Lai đều xưng dương tán thán công đức Phật
Vô Lượng Thọ.
PHẨM HAI
MƯƠI SÁU
LỄ CÚNG
NGHE PHÁP
Lại nữa A Nan! Chúng Bồ Tát ở mười phương thế giới muốn
đảnh lễ Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc, đem hương hoa, tràng phan bảo cái
đến chỗ Phật cung kính cúng dường, nghe giảng kinh pháp và xướng danh ca ngợi
sự tuyên dương hóa đạo công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
Đông phương các cõi Phật
Số nhiều như hằng sa,
Hằng sa chúng Bồ Tát,
Đến lễ vô Lượng Thọ.
Nam Tây Bắc bốn phương
Thượng hạ cũng như vậy,
Thảy chí tâm tôn trọng
Dâng cúng các trân diệu
Phát những lời hòa nhã,
Ca ngợi dấng Tối Thắng,
Cứu cánh thần thông huệ
Chứng nhập sâu pháp môn.
Nghe được danh hiệu Phật,
An lành được lợi lớn.
Trong các sự cúng dường
Siêng tu không biếng trễ,
Quán cõi thù thắng kia
Vi diệu khó nghĩ bàn
Công đức rất trang nghiêm
Cõi Phật khác khó bằng.
Nhơn phát tâm vô thượng
Nguyện mau thành Bồ Đề.
Bấy giờ Vô Lượng Thọ
Kim dung hiện mỉm cười
Hào quang từ miệng ra
Chiếu khắp mười phương cõi,
Rồi xoay chiếu thân Ngài
Ba vòng vào đảnh Phật.
Bồ Tát thấy quang này
Liền chứng Bất thối chuyển
Tất cả chúng trong hội
Đều vui mừng hớn hở.
Lời Phật như sấm vang
Tiếng bát âm vi diệu
Bồ Tát mười phương đến
Di Đà thấu rõ tâm
Chí cầu cõi nghiêm tịnh
Thọ ký sẽ thành Phật,
Biết rõ tất cả pháp
Như mộng huyễn tiếng vang,
Trọn đầy các diệu nguyện
Quyết thành như Cực Lạc.
Biết cõi như ảnh tượng,
Phát tâm thệ nguyện lớn,
Rốt ráo hạnh Bồ tát,
Đầy đủ các công đức,
Thành đạt đạo Bồ Đề,
Thọ ký sẽ thành Phật.
Thông đạt các pháp tánh,
Hết thảy không, vô ngã,
Chuyên cầu tịnh cõi Phật
Quyết thành như Cực Lạc.
Nghe pháp vâng phụng hành,
Đạt đến chốn thanh tịnh,
Tất được Vô Lượng Tôn
Thọ ký thành chánh giác.
Thù thắng vô biên cõi,
Do nguyện lực Di Đà.
Nghe danh cầu vãnh sanh
Đến bậc Bất thối chuyển,
Lập thệ nguyện Bồ Tát,
Nguyện cõi này không khác,
Khắp độ hết thảy chúng
Đều phát tâm Bồ Đề,
Bỏ thân luân hồi rồi
Đều được lên bờ giác,
Phụng sự vạn ức Phật,
Giáo hóa khắp các cõi.
Kính vui mừng trở về
Cõi An Dưỡng Cực Lạc.
PHẨM HAI
MƯƠI BẢY
CA THÁN
PHẬT ĐỨC
Này A Nan: Bồ Tát ở cõi Cực Lạc nhờ oai thần của Phật
trong khoảng bữa ăn đi lại vô biên cõi Phật khắp mười phương để cúng dường.
Những hoa hương, tràng phan, đồ cúng dường, khởi tâm liền hiện đủ các thứ trân
bảo thù thắng trên tay, thế gian không thể có để cúng dường chư Phật và chúng
Bồ Tát. Nếu muốn rải hoa, liền trên không trung các hoa hiệp lại thành một lọng
hoa tròn lớn có trăm ngàn sắc sáng, mỗi sắc có hương thơm khác nhau tỏa ngát
muôn phương. Đài hoa nhỏ đủ mười do tuần, cứ vậy lớn dần trùm khắp ba ngàn thế
giới, theo đó trước sau thứ lớp ẩn hiện, nếu không có ai cúng hoa mới thì hoa
cũ không rơi xuống, lơ lửng trên không vang tiếng nhạc vi diệu tán thán Phật
đức. Chốc lát trở về bổn quốc tụ họp tại giảng đường thất bảo nghe Phật Vô
Lượng Thọ rộng giảng diệu pháp, tâm ý thông triệt vui mừng đại ngộ.
Lại có gió thơm thổi hàng cây báu phát âm thanh vi diệu,
vô lượng hương thơm theo gió bay khắp bốn phương theo như ý nguyện cúng dường
không dứt. Chư Thiên đem trăm ngàn hoa hương, vạn thứ kỹ nhạc đến cúng dường
Phật và chúng Bồ tát Thanh Văn. Chư Thiên trước sau qua lại, hớn hở vui mừng,
là do sức oai thần bổn nguyện của Phật Vô Lượng Thọ, và đã từng cúng dường các
đức Như Lai, có căn lành tương tục không giảm thiếu, khéo tu tập, khéo nhiếp
thủ, khéo thành tựu vậy.
PHẨM HAI
MƯƠI TÁM
ĐẠI SĨ
THẦN QUANG
Này A Nan: Chúng Bồ Tát tại cõi Phật đó nghe thấy hết khắp
cả không gian và thời gian, biết hết tâm ý thiện ác, lời nguyện cầu khi nào
được thoát ly lục đạo, được khai ngộ, được vãng sanh của chư Thiên, nhân loại
cho đến các loại bò bay xuẩn động.
Chúng Thanh văn ở cõi Phật kia có thân sáng tám thước, ánh
sáng của Bồ Tát chiếu xa một trăm do tuần, có hai vị Bồ Tát tôn qúy bậc nhất,
oai thần và ánh sáng chiếu khắp ba ngàn cả ngàn thế giới.
Tôn giả A Nan thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Hai vị Bồ Tát
ấy danh hiệu gì?”
Phật nói: “Một vị tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là
Đại Thế Chí, hai vị Bồ Tát này khi còn ở cõi Ta bà tu hạnh Bồ Tát được
sanh về cõi Cực Lạc thường ở hai bên tả hữu Phật A Di Đà. Muốn đến mười phương
vô lượng cõi Phật liền đến, hiện ở thế giới này làm nhiều sự lợi lạc. Những
trai lành gái tín ở thế gian nếu có tai nạn ngặt nghèo hoảng sợ, chỉ cần hướng
tâm về Bồ Tát Quán Thế Âm thì không có nạn gì mà không được cứu thoát.
PHẨM HAI
MƯƠI CHÍN
NGUYỆN LỰC
HOẰNG SÂU
Lại này A Nan! Tất cả Bồ Tát ở cõi Phật ấy hoặc hiện tại
hay vị lai đều rất rốt ráo được “Nhứt Sanh Bổ Xứ”, chỉ trừ phát đại nguyện vào
trong sanh tử để độ quần sanh, làm sư tử hống, mặc áo giáp làm những công đức
trang nghiêm cho thệ nguyện của mình. Tuy sanh trong đời ác ngũ trược, thị hiện
đồng loại cho đến thành Phật , không thọ ác thú, sanh ở nơi nào đều biết rõ túc
mạng.
Ý của đức Phật Vô Lượng Thọ muốn độ thoát tất cả chúng
sanh khắp mười phương thế giới sanh về cõi Cực Lạc đạt đến Niết bàn. Đã làm Bồ
Tát thì quyết chắc thành Phật. Đã thành Phật rồi trở lại giáo hóa độ thoát,
triển chuyển không nghỉ. Thanh văn, Bồ Tát, chúng sanh sanh về cõi Phật đó
đạt đến Niết bàn, chứng quả Phật số nhiều không thể tính được. Trong cõi Phật
đó chỉ có một pháp không có tăng thêm. Vì sao vậy?
Ví như biển lớn là vua, các dòng nước chảy vào biển
cả, nước trong biển ấy cũng không thêm bớt. Cõi Phật A Di Đà vĩnh viễn rộng lớn
sáng đẹp an lạc hơn cả vô số cõi Phật trong mười phương. Ấy là do sự phát
nguyện cầu đạo, tích công lũy đức khi còn làm Bồ Tát. Ân đức bố thí của Phật Vô
Lượng Thọ khắp mười phương không cùng cực, sâu rộng không lường, không thể nói
hết được.
PHẨM BA
MƯƠI
BỒ TÁT TU
TRÌ
Lại này A Nan! Thiền định, trí tuệ, thần thông, oai đức
các vị Bồ Tát trong cõi Phật đó đều viên mãn. Mật tạng chư Phật rất sâu xa rốt
ráo sáng tỏ, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, thâm nhập chánh huệ ,
không còn dư tập, thật hành theo lời Phật dạy, hành thất giác chi, tu ngũ nhãn
rõ biết chơn đế đạt cả tục đế. Nhục nhãn thì so đo, thiên nhãn thấy thông suốt,
pháp nhãn thấy biết thanh tịnh, huệ nhãn biết rõ chơn không, Phật nhãn đầy đủ
công năng, biết rõ pháp tánh, biện tài tổng trì tự tại vô ngại, biết rõ vô biên
phương tiện ở thế gian, nói đúng chơn đế, hiểu sâu nghĩa lý, cứu độ các hữu
tình, diễn nói chánh pháp, vô tướng vô vi, vô phược vô thoát, vô phân biệt, xa
lìa điên đảo, đối vật thọ dụng không có tư tưởng chiếm giữ, đi khắp cõi Phật
không ưa không chán, không mong cầu cũng không chấp trước, cũng không có tưởng
oán hận đây kia. Vì sao vậy?
Các vị Bồ Tát đối với chúng sanh có tâm đại từ bi đại lợi
ích, xa lìa chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng chơn thật trí thấu rõ
các pháp là như như, biết rõ phương tiện giảng giải về tứ đế, không thích học
thuyết thế gian, thích luận chánh pháp, biết tất cả pháp đều không tịch, tập khí
phiền não chướng và sở tri chướng đều dứt sạch, ở trong ba cõi bình đẳng siêng
tu cứu cánh nhứt thừa đến bờ giải thoát, quyết dứt lưới nghi chứng vô sở đắc,
dùng phương tiện trí tăng trưởng hiểu biết, an trụ thần thông được nhứt thừa
Phật quả, không nhờ vào người khác.
PHẨM BA
MƯƠI MỐT
CÔNG ĐỨC
CHƠN THẬT
Trí huệ uyên thâm như biển cả, Bồ Đề cao rộng như Tu di,
thân sáng chói như nhật nguyệt, tâm trong trắng như tuyết sơn, nhẫn nhục
như đất bằng, bình đẳng tất cả, thanh tịnh như nước rửa sạch trần cấu, hừng hực
như lửa đốt hết phiền não, không chấp trước như gió không gì chướng ngại, pháp
âm như sấm vang thức tỉnh kẻ chưa giác, mưa pháp cam lồ thấm nhuần chúng sanh,
thênh thang như hư không bao dung tất cả, thanh tịnh như hoa sen lìa xa ô
nhiễm, như cây ni câu che khắp rộng rãi, như chùy kim cang phá tan tà chấp, như
núi Thiết vi tà ma ngoại đạo không lay chuyển được, tâm chánh trực khéo giỏi
quyết định, luận pháp không chán, cầu pháp không mỏi mệt, giới như lưu ly trong
ngoài sáng sạch, phàm nói điều gì đều làm cho người vui tín phục, đánh trống
pháp, lập pháp tràng, sáng huệ nhựt, phá si ám, thuần tịnh ôn hòa, tịch định an
nhiên, làm đại đạo sư, điều phục tự tha, dắt dẫn quần sanh, xả bỏ ái trước, xa
hẳn ba độc, thung dung tự tại, nhân duyên nguyện lực phát sanh thiện căn, phá
dẹp ma quân, tôn trọng cúng dường chư Phật, đèn sáng cho thế gian, ruộng phước
tối thắng, an lành tột bậc, kham thọ cúng dường, hiển hách hoan hỷ, mạnh bạo
không sợ sệt, thân tướng đẹp đẽ, công đức biện tài đầy đủ trang nghiêm không ai
sánh được. Thường được chư Phật khen ngợi. Bồ Tát rốt ráo các Ba La mật, an trụ
vào Tam ma địa bất sanh bất diệt, giáo hóa khắp nơi khác với hàng nhị thừa.
A Nan! Ta nay lược nói chơn thật công đức các hàng Bồ Tát
ở thế giới Cực Lạc kia tất cả đều như vậy. Nếu nói rộng ra trải trăm ngàn vạn
kiếp cũng không hết được.
PHẨM BA
MƯƠI HAI
THỌ LẠC
KHÔNG CÙNG TẬN
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát và thiên, nhơn: “Công đức trí huệ
của Thanh Văn, Bồ Tát ở cõi đức Phật Vô Lượng Thọ không thể nói hết được. Cõi
nước Cực Lạc kia vi diệu an lạc thanh tịnh như vậy, há còn phương pháp nào hơn
niệm Phật cầu sanh tịnh độ, tự nhiên thành tựu, xuất nhập cúng dường, quán kinh
tu đạo, pháp hỷ vẹn toàn, trí huệ sáng suốt, tâm không thối chuyển, ý không
giải đãi, ngoài hiện an nhàn, trong lại tinh tấn, dung cách trùm cả thái hư,
đạt đến trung đạo, trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, hành động
chánh trực, thân tâm khiết tịnh, không tham nhiễm ái, chí nguyện cương định,
không tăng chẳng giảm, cầu đạo hòa chánh, không bị tà tâm khuynh đảo, tuân lời
Phật dạy quyết không trái phạm , nếu đã quyết tâm thì phải kiên trì không nghĩ
gì khác, không lo nghĩ ưu buồn, an nhiên vô vi, tâm rỗng như hư không không lập
một pháp, bình thản không tham dục, trọn thành thiện nguyện, dốc lòng cầu tiến,
từ bi ai mẫn, lễ nghĩa gồm đủ, sự lý viên dung, đạt đến giải thoát, tự tánh bản
nhiên hoàn toàn thanh tịnh, chí nguyện vô thượng, thân tâm tịch định an lạc.
Hốt nhiên tâm khai đạt lý giác ngộ triệt để, thấy được thật tướng các pháp, bản
thể vũ trụ, quang sắc xen nhau tất cả chỉ là như như, biến chuyển vô cùng. Uất
đơn việt thành thất bảo, nắm rõ vạn vật, sáng sạch hiển lộ tột đẹp vô cùng
không gì sánh được, rõ ràng không trên dưới, thông suốt không ngằn mé. Vậy phải
hết sức siêng năng tinh tấn tu tập quyết chắc được vãng sanh về cõi vô lượng
thanh tịnh Phật A Di Đà, chấm dứt năm thú, đóng kín ác đạo, đạt đạo không khó,
vãng sanh há lại không được sao! Cõi kia không trái lẽ, thuận theo tự nhiên, bỏ
tất cả như hư không, siêng năng niệm Phật cầu sanh quyết đến Cực Lạc, thọ mạng
an lạc không cùng, há lại tham đắm thế sự, toàn là vô thường, sầu khổ cả?
PHẨM BA
MƯƠI BA
KHUYẾN DỤ
SÁCH TẤN
Người đời vì sự tranh đua nên sống trong cảnh thô bạo khổ
cực nhọc thân làm lụng để tự cung cấp. Tôn quí ti tiện, nghèo khổ giàu sang,
lớn nhỏ trai gái phải lao tâm khổ trí, suy nghĩ lo toan. Không nhà lo nhà,
quyến thuộc tài vật, có hoặc không cũng lo, có rồi còn thiếu, muốn sao cho bằng
người. Nên ít muốn vừa đủ. Lại còn lo sợ vô thường, nước lửa trộm cướp, oan gia
trái chủ, lửa thiêu nước chìm, tiêu tan sạch sẽ, tâm ý khư khư không chịu buông
xả, mạng chung hết thở, không ai tránh khỏi, nghèo giàu như nhau, sầu khổ trăm
mối. Thế nên ở đời cha con anh em, vợ chồng thân thuộc nên thương kính nhau,
không nên ghét giận nhau, có không nên thông cảm nhau, không nên tham tiếc, nói
năng hòa nhã đừng chống đối nhau. Hễ có tranh cãi liền sanh giận dữ, thành oán
thù nhiều kiếp về sau, sự việc ở đời đem nhiều khổ lụy, tuy chưa gặp phải, phải
gấp có ý tưởng ngăn trừ. Con người vì ái dục nên phải sống chết qua lại sáu nẻo
tự chịu khổ vui không ai thay thế được, lành dữ biến hóa theo đó đi thọ sanh
không đồng, tụ họp không hạn kỳ. Lúc còn cường tráng sao không nỗ lực tu tập
đợi đến lúc nào?
Người đời, không biện biệt được tốt xấu cát hung họa phước,
thần trí ngu muội, lại theo các giáo điều khác, liên tiếp điên đảo, nguồn gốc
vô thường mê mờ không chịu suy xét, chẳng tin kinh pháp, không biết lo xa, say
mê giận hờn, tham đắm tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ, thật đáng thương thay!
Đời trước ngu muội, không biết đạo đức, không ai chỉ bảo
đâu có lạ gì? Sanh tử luân hồi, thiện ác báo ứng đều chẳng tin tưởng cho là
không có. Tự thử nhìn lại: Nào cha khóc con, con khóc cha, anh em vợ chồng than
khóc lẫn nhau, một đời sanh tử tiễn đưa thương tiếc, buồn thương trói buộc
không sao giải nổi, nghĩ nhớ ân sâu không ngoài tình dục, sao chẳng suy cùng
xét kỹ chuyên tâm hành đạo, khi tuổi già mạng hết không biết làm sao?
Kẻ mê thì nhiều, người ngộ đạo rất ít, phần nhiều ôm lòng
giết hại, ác khí tràn đầy làm điều hư dối, trái ngược trời đất mặc tình tạo
tội, khi mạng sống hết, đọa vào ác đạo không biết ngày ra. Các ngươi phải nghĩ
kỹ, xa lìa điều ác siêng làm việc lành, ái dục vinh hoa không thể giữ mãi, đều
phải ly biệt chẳng có vui gì! Nên phải siêng năng tinh tấn cầu sanh về cõi An
Lạc được trí huệ sáng suốt công đức thù thắng, đừng theo tâm tham dục, cô phụ
kinh giới, uổng phí đời sau.
PHẨM BA
MƯƠI BỐN
TÂM ĐƯỢC
MỞ SÁNG
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lời Thế
Tôn răn dạy rất sâu rất đúng, nhờ ơn đức từ bi giải thoát ưu khổ. Phật là đấng
Pháp vương tôn quí siêu việt trong hàng Thánh, quang minh vô tận trí huệ không
cùng, Đạo sư khắp cả trời người, ngày nay được gặp Phật lại được nghe hồng danh
Vô Lượng Thọ, tâm trí được sáng tỏ rất là vui mừng”.
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Kính Phật là điều đại thiện, niệm
Phật quan trọng hơn, giúp cắt hết lưới nghi, dứt hết ái dục, lấp hết nguồn ác,
đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị chánh đạo, độ người chưa độ. Các
ngươi phải biết chúng sanh mười phương nhiều kiếp đến nay luân chuyển trong năm
đường, sầu khổ không dứt, sanh đã là khổ, già cũng khổ, bệnh càng khổ hơn, chết
rất là đau khổ, hôi thúi bất tịnh không có gì vui, nên quyết cắt đứt, tẩy trừ
tâm xấu, nói năng hành động thành tín trong ngoài hợp nhất, trước tự độ mình,
lại ra độ người, hết lòng cầu nguyện, chứa nhóm căn lành, chỉ cần tinh tấn khó
nhọc một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về cõi Vô Lượng Thọ an vui vô cùng,
vĩnh viễn dứt sạch sanh tử không còn khổ hoạn, thọ mạng ngàn vạn kiếp tự tại tùy
ý. Nên phải tinh tấn cầu đạt, tâm nguyện không được nghi ngờ. Như còn chút nghi
hoặc sẽ sanh về cung điện thất bảo ở biên địa của nước Cực lạc, chịu các tai
ách trải qua năm trăm năm”.
Ngài Di Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin
vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi
ngờ”.
PHẨM BA
MƯƠI LĂM
TRƯỢC THẾ
ÁC KHỔ
Phật bảo Di Lặc: “Các ngươi sanh trong đời này, tâm ý
chánh trực không làm điều ác, đó là có đức hạnh lớn.” Vì sao vậy?
Mười phương thế giới của chư Phật thiện nhiều ác ít rất dễ
khai hóa. Chỉ có thế gian năm ác trược này rất là cực khổ. Ta nay thành Phật ở
đây để giáo hóa quần sanh bỏ năm điều dữ, dứt năm sự thống khổ, lìa năm sự
thiêu đốt, điều phục tâm ý khiến làm năm điều lành, phước đức được thành tựu.
Những gì là năm?
Điều thứ nhất: Các loài chúng sanh ở thế gian thích làm
điều ác, mạnh hiếp yếu, chèn ép nhau, tàn sát tổn hại ăn nuốt lẫn nhau, không
biết làm lành để chịu hậu quả, nên có kẻ cùng khổ, cô độc, câm điếc đui ngọng,
si ác ngông cuồng là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm lành. Những
hạng tôn quí, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao là do biết từ ái
hiếu thuận, tu thiện tích đức từ đời trước.
Khi còn sanh tiền đã làm sai trái, sau khi mạng chung vào
chốn u minh chuyển thọ thân hình sanh vào các nẻo, nên có địa ngục, súc sanh –
ví như lao ngục ở thế gian có cực hình kịch khổ – thần thức tùy tội đã tạo mà
thọ mạng có dài ngắn theo nhau trả báo, tội ác chưa hết lại tiếp tục chịu tội,
xoay vần nhiều kiếp không thôi rất khó giải thoát, khổ thống không thể nói hết
được! Ác đạo tuần hoàn cảm ứng tự nhiên, tuy không báo ứng tức thời, nhưng
thiện ác chung qui vẫn phải chịu quả báo.
Điều thứ hai: Nhân loại thế gian không theo pháp luật,
hoang dâm thái quá mặc tình phóng túng, trên thì không minh, tại vị không
chính, hãm hại oan uổng, tổn hại trung lương, tâm miệng khác biệt, mưu toan
nhiều bề, trong ngoài dối trá, giận dỗi ngu si, muốn lợi về mình, tham lam
không chán, lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét
trước sau, giàu có keo kiệt không chịu bố thí, chất chứa cho đầy, nhọc tâm khổ
thân, đến khi mạng chung không đem được gì, thiện ác họa phước tùy nghiệp thọ
sanh, hoặc sanh vào nơi sung sướng hay vào chốn khổ độc. Thấy người làm lành
lại còn hủy báng không chịu bắt chước, thường nghĩ trộm cắp, rình đoạt của
người, tiêu phá hết rồi lại đi tìm nữa. Chết đọa vào ba đường ác chịu vô lượng
khổ, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, đau khổ vô cùng.
Điều thứ ba: Người đời nương nhau mà sống còn trong trời
đất, thọ mạng chẳng được là bao? Kẻ bất lương tâm không chính đính, ôm lòng tà
ác, luôn nghĩ dâm dục, phiền não tràn hông, thái độ tà ngụy buông lung, hao tổn
tài sản, làm điều phi pháp, ai cầu xin gì cũng không chấp thuận, lại còn tụ bè
kết đảng, hưng binh gây chiến đánh cướp giết hại, chiếm đoạt bức hiếp chu cấp
cho vợ con, no thân hưởng lạc, khiến người chán ghét, lo lắng khổ cực, tạo
nhiều tội ác, chết vào tam đồ chịu vô lượng khổ, qua lại nhiều kiếp, khó được
giải thoát, khổ đau khôn xiết.
Điều thứ tư: Người ta ở đời không chịu tu thiện, nói dối,
nói lời hung dữ, nói đâm thọc, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, hãm hại
người hiền, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, chẳng thành tín với bằng
hữu, tự cao tự đại, cho mình có lý, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người mong
người kính nể, không biết hổ thẹn, ôm lòng kiêu mạn, khó thể giáo hóa. Nhờ chút
phước đức từ đời trước, đời này làm ác phước đức mất hết, thọ mạng hết rồi, các
điều ác bao vây, oán cừu dẫn dắt không sao tránh khỏi, chỉ việc tiến vào vạc
lửa, thân thể tan nát, tâm thần thống khổ, bấy giờ nghĩ lại ăn năn thì đã muộn
rồi!
Điều thứ năm: Người đời phóng túng lười biếng không chịu
làm lành, tu sửa thân tâm; cha mẹ khuyên bảo, ngang trái chống đối như là oan
gia, phụ bạc ân nghĩa không chút báo đền, phóng túng lêu lổng, rượu chè xa hoa,
đần độn bướng bỉnh, chẳng chút lễ nghĩa, không thể can gián, giao tiếp lục thân
quyến thuộc không chút ân tình, không nhớ ơn cha mẹ, không đoái nghĩa thầy trò
bằng hữu, chỉ lo cho tự thân, không được một điều lành, không tin Phật pháp,
không tin sanh tử thiện ác, muốn hại hiền nhân, phá hoại Phật pháp, ngu si mông
muội tự cho thông minh, không biết từ đâu sanh đến, chết sẽ đi về đâu, bất nhơn
bất thuận lại muốn trường thọ. Thương xót khuyên bảo lại không chịu nghe, khô
hơi khản tiếng cũng thành vô ích. Tâm ý cố chấp không chịu thấu hiểu. Mạng
chung cận kề hối tiếc đã không tu thiện, đến khi nhắm mắt ăn năn hối hận sao
còn kịp nữa!
Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa
phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì
từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào
cõi khổ, từ tối vào chỗ tối. Ai hay biết được? Chỉ có đức Phật biết rõ khai thị
chỉ dạy, người tuân hành rất ít, nên sanh tử không thôi, ác đạo không dứt.
Người đời tạo ác như thế, nên tự nhiên có ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay
vần nhiều kiếp không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn không thể
nói được. Do vậy nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn thiêu đốt
thân người.
Nếu tự nhứt tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành
tương xứng, chí tâm làm lành không làm việc ác, thì được độ thoát, đầy đủ phước
đức được trường thọ đến đạo Bồ đề. Đây là năm điều đại thiện.
PHẨM BA
MƯƠI SÁU
BAO LƯỢT
KHUYÊN LƠN
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Những ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu đó chuyển tiếp cho nhau, nếu phạm tội tất phải vào ác đạo, hiện đời sẽ bị
bệnh hoạn tai ương, cầu sống không được cầu chết không xong, để cho người đời
thấy sự chiêu cảm đó, mạng chung đọa vào ba đường ác, thống khổ quá lắm, tự bị
thiêu đốt, cùng kết oán thù tàn hại lẫn nhau.
Tạo một tội nhỏ lần thành to lớn, do tham đắm tài sắc
không chịu bố thí, muốn khoái lạc bản thân không chịu phản tỉnh, si ám thúc dục
tranh lợi về mình, phú quí vinh hoa đương thời vừa ý, không chịu nhẫn nhịn,
không chuyên tu thiện, không bao lâu uy thế theo đó tiêu diệt, nghiệp lực an
bài báo ứng tự nhiên, dù có lo lắng hoảng hốt cũng phải vào ba ác đạo, xưa nay
như vậy. Đau khổ lắm thay!
Các ngươi được giáo pháp của chư Phật chỉ dạy phải suy
nghĩ chín chắn tự ghi nhớ kỹ, trọn đời không được biếng trễ.
Kính Phật trọng hiền, lương thiện từ bi, cầu thoát ba cõi
, dứt sạch gốc sanh tử, lìa hẳn lo sợ thống khổ tam đồ.
Thế nào gọi là hành thiện bậc nhất?
Phải tự tịnh tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải
đoan chánh, thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng, đừng theo thị dục, không
phạm điều ác, ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh
từ tốn, vội vàng hấp tấp không suy xét chính chắn sẽ hư hỏng hối hận về sau,
uổng phí một đời”.
PHẨM BA
MƯƠI BẢY
NHƯ NGHÈO
ĐẶNG CỦA BÁU
Các ngươi đã trồng nhiều căn lành, phải nhẫn nhục tinh
tấn, đừng phạm cấm giới, từ tâm chuyên nhứt, thanh tịnh trai giới, tu một ngày
một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả trăm năm.
Tại sao vậy?
Cõi nước của đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có
một chút ác. Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi
Phật khác.
Tại sao vậy?
Vì cõi nước Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có,
không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là
khổ độc chưa từng ngừng nghỉ.
Ta vì thương các ngươi nên đã hết lòng chỉ dạy trao cho
kinh pháp, vậy phải nhớ giữ tuân hành. Tôn ti nam nữ quyến thuộc bằng hữu chỉ
bảo lẫn nhau, cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu, nếu có
sai phạm phải tự hối cải, bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa, phụng trì kinh
giới, như nghèo được của, sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm, tự nhiên cảm ứng
được như sở nguyện. Khi Phật còn tại thế quốc ấp thôn trang đều được hoá độ,
thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa thuận gió hòa, tai dịch không
khởi, quốc thái dân an, binh đao vô dụng, nhân đức hưng vượng, giữ gìn lễ
nghĩa, nước không trộm cướp, không có oán tặc, mạnh không hiếp yếu, đều được an
lành. Ta thương các ngươi còn hơn cha mẹ thương con. Ta nay làm Phật ở đời này
chỉ rõ điều lành điều dữ, dứt khổ sanh tử, được năm điều thiện, lên chốn an lạc
vô vi.
Khi ta nhập Niết bàn, kinh điển lần lần diệt mất, nhân dân
gian trá, làm nhiều điều ác, ngũ thiêu ngũ thống, về lâu sau càng làm ác nhiều
thêm nữa, các ngươi nên khuyên bảo nhau như lời Phật dạy không được tái phạm”.
Ngài Di Lặc Bồ Tát chấp tay thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Người đời ác khổ như vậy, Phật đều từ bi thương xót độ thoát tất cả. Con xin
nghe lời ân cần dạy bảo của Thế Tôn không dám sai trái”.
PHẨM BA
MƯƠI TÁM
LỄ PHẬT
HIỆN ÁNH SÁNG
Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Nếu ngươi muốn thấy đức Vô
Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng và các Bồ Tát A la hán v.v… ở cõi nước đó, nên đứng
dậy quay mặt về phương Tây hướng mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ xưng niệm: Nam
Mô A Di Đà Phật”.
Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy mặt hướng về
phương Tây, chấp tay đảnh lễ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay nguyện được
thấy đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, cúng dường phụng sự, vun trồng các
căn lành.
Khi vừa đảnh lễ liền thấy đức Phật A Di Đà, dung nhan nguy
nguy, sắc tướng trang nghiêm quang minh rực rỡ, cao lớn vượt trên tất cả thế
giới.
Lại nghe chư Phật Như Lai khắp mười phương thế giới xưng
dương tán thán vô lượng công đức vô ngại vô cùng của đức Phật A Di Đà.
Tôn giả A Nan bạch Phật: “ Bạch đức Thế Tôn! Cõi Phật
thanh tịnh kia rất hiếm có, con nguyện mong được sanh về cõi đó”.
Đức Thế Tôn nói những người được sanh về cõi đó đã từng
thân cận vô lượng đức Phật, nhiều thiện căn phước đức, ngươi muốn sanh về cõi
đó thì phải nhứt tâm quy y mong cầu.
Vừa nói lời ấy xong, trên tay đức Phật A Di Đà liền phóng
ra vô lượng tia sáng chiếu khắp thế giới chư Phật, cõi nước chư Phật thảy đều
hiện rõ như ở trước mắt, do quang minh thanh tịnh thù thắng của đức Phật A Di
Đà, nên ở thế giới này như hắc sơn, tuyết sơn, kim cang, thiết vi các núi lớn
nhỏ… sông suối, rừng cây, cung điện của trời, người, tất cả cảnh giới
đều sáng rõ, như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, cho đến địa ngục,
ngạ quỷ, hang hố, thảy đều sáng rõ, đồng một màu sắc, như thời kiếp thủy tai
nước tràn đầy cả, vạn vật chìm ngập, thăm thẳm mênh mông, chỉ toàn là nước;
quang minh của Phật cũng chiếu khắp như vậy, tất cả quang minh của Thanh văn,
Bồ Tát đều bị lu mờ bởi ánh hào quang sáng chói rực rỡ của đức Phật.
Hàng tứ chúng trong đây, Thiên long, Bát bộ, người và phi
nhơn v.v… đồng thấy các sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc.
Đức Phật A Di Đà ở trên tòa cao, oai đức nguy nguy, tướng
hảo quang minh. Các hàng Thanh văn, Bồ Tát cung kính vây quanh, như núi Tu Di
đứng giữa biển cả. Thân Phật sáng rõ chiếu diệu thanh tịnh bình chánh, không có
tạp uế và hình loại quái dị, chỉ có các thứ báu trang nghiêm, Thánh Hiền chung
ở.
Tôn giả A Nan và các chúng Bồ Tát v.v… đều rất vui mừng
hớn hở đảnh lễ năm vóc sát đất xưng niệm Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà.
Chư Thiên và chúng nhơn cho đến loài bò bay xuẩn động đều thấy hào quang ấy cả.
Những kẻ bệnh khổ được hết bệnh khổ. Những kẻ sầu não được giải thoát, thảy đều
có từ tâm làm lành, vui mừng sung sướng. Những nhạc khí như chuông, khánh, cầm
sắt, không hầu không đánh tự trổi.
Chư Thiên và nhân dân trong các cõi Phật khác đều đem hoa
hương đến giữa hư không rải xuống cúng dường.
Bấy giờ thế giới Cực Lạc ở phương tây cách xa cả trăm ngàn
vô lượng ức cõi nước, nhờ oai lực của Phật mà thấy rõ như ở trước mắt, như được
tịnh thiên nhãn thấy như khoảng tám thước. Đại chúng ở cõi Cực Lạc cũng lại như
vậy, đều thấy đức Thích Ca Như Lai ở thế giới Ta bà này và chúng Tỳ kheo vây
quanh nghe pháp.
PHẨM BA
MƯƠI CHÍN
TỪ THỊ
THUẬT CHỖ THẤY
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả A Nan và Từ Thị Bồ Tát rằng:
“Các ông có thấy cung điện, lầu các, ao hồ, rừng cây khắp cả vi diệu trang
nghiêm ở thế giới Cực Lạc không? Các ông có thấy chư Thiên ở cõi Dục cho đến
cõi trời Sắc Cứu Cánh đem hoa hương cúng dường khắp cõi Phật không?”.
Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nhìn
thấy”.
“Các ông có nghe tiếng lớn của đức Phật A Di Đà truyền
khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh không?”
Tôn giả A Nan bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Chúng con có
nghe”.
Đức Phật bảo: “Các ông có
thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không? Và thấy họ liên tục niệm Phật không? Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do đức Phật biến hóa ra không?”
thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không? Và thấy họ liên tục niệm Phật không? Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do đức Phật biến hóa ra không?”
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời
đức Thế Tôn nói, chúng con đều thấy cả”.
Đức Phật bảo Di Lặc rằng: “Nhân dân ở nước đó có thai sanh
nữa, ông có thấy chăng?”
Ngài Di Lặc bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con thấy người
thế giới Cực Lạc ở trong thai như ở trong cung điện cõi Dạ Ma Thiên. Lại thấy
chúng sanh ngồi kiết già ở trong hoa sen tự nhiên hóa sanh. Do nhân duyên gì
nhân dân ở cõi đó có hạng thai sanh, hạng hóa sanh?”
PHẨM BỐN
MƯƠI
BIÊN ĐỊA,
NGHI THÀNH
Đức Phật bảo ngài Từ Thị: “Nếu có chúng sanh do tâm nghi
hoặc làm các công đức, nguyện sanh về Cực Lạc, không rõ Phật trí, bất tư nghì
trí bất khả xứng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí,
đối với các trí này nghi ngờ không tin, nhưng vì tin tội phước mà tu tập hạnh
lành, nguyện sanh về Cực Lạc.
Lại có chúng sanh chứa nhóm thiện căn, mong cầu Phật trí,
phổ biến trí, vô đẳng trí, oai đức quảng đại bất tư nghì trí, đối với căn lành
không sanh lòng tin, ý chí còn do dự đối với sự vãng sanh cõi Phật thanh tịnh,
không có tinh chuyên, nhưng vì liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện
nguyện cũng được vãng sanh.
Do những nhân duyên đó, những hạng người này tuy được sanh
về Cực Lạc, nhưng không thể đến thẳng cõi Đức Phật Vô Lượng Thọ được, chỉ đến
biên giới cõi Phật, ở trong thành thất bảo thôi. Không phải Đức Phật muốn như
vậy, mà vì chính họ tạo nên tâm đến đó vậy. Ở đó cũng có ao sen thất bảo, tự
nhiên thọ thân, ăn uống sung sướng như cõi trời Đao Lợi, nhưng ở trong thành đó
không thể ra khỏi, nhà ở trên đất, không thể tùy ý cao lớn.
Ở đó năm trăm năm không thấy Phật, không nghe được pháp,
không thấy Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn, trí huệ không sáng suốt, biết kinh
pháp lại ít, tâm không mở mang, ý không vui vẻ, nên ở đó gọi là thai sanh.
Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí, cho đến thắng trí, đoạn
trừ nghi hoặc, gieo các thiện căn làm các công đức, chí tâm hồi hướng, nên được
hóa sanh ngồi kiết già trong hoa thất bảo, khoảnh khắc được thân tướng quang
minh, công đức trí huệ thành tựu đầy đủ như các bậc Bồ Tát vậy.
Di Lặc Bồ Tát phải biết, hạng hóa sanh đó có trí huệ
thù thắng. Hạng thai sanh kia trong năm trăm năm không thấy Tam bảo, không biết
phép tắc của Bồ Tát, không được tu tập công đức, không có nhân duyên cúng dường
Phật Vô Lượng Thọ, phải biết hạng người này do đời trước không có trí tuệ, sanh
tâm nghi hoặc mà ra.
PHẨM BỐN
MƯƠI MỐT
HOẶC TẬN
KIẾN PHẬT
Thí như Chuyển luân Thánh vương có bảy ngục báu để giam
những vương tử nào mắc tội. Trong đó cũng có lầu các cung điện, màn báu, giường
báu, lan can cửa sổ, giường ghế trang sức quý báu, ăn uống y phục được cấp
dưỡng như Chuyển luân Thánh vương, nhưng bị trói chân bằng xích vàng, các tiểu
vương tử này có thích ở nơi ấy không?
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Dĩ nhiên
không vui thích! Khi họ bị giam cầm không được tự do, chỉ muốn tìm đủ mọi cách
để được ra khỏi ngục, lại cầu mọi thế lực cận thần giúp xin nhưng cũng không
toại ý, bao giờ Chuyển luân Thánh Vương bằng lòng mới được giải thoát”.
Này Di Lặc! Các chúng sanh này cũng lại như vậy. Vì có tâm
nghi hoặc Phật trí, cho đến quảng đại trí, đối với thiện căn thiếu lòng tin
sâu, do nghe danh hiệu Phật mà phát tâm tin thôi.
Tuy sanh về cõi Cực Lạc ở trong hoa sen, nhưng không được
ra khỏi hoa thai, trong đó cũng đủ vườn tược cung điện.
Tại sao vậy?
Trong hoa thai đó thanh tịnh không có uế ác, nhưng trong
năm trăm năm không thấy Tam Bảo, không được cúng dường phụng sự chư Phật, xa
lìa tất cả thiện căn thù thắng, do nỗi khổ đó nên không vui thích.
Nếu như những chúng sanh này biết được tội đời trước, hết
lòng ăn năn tự trách cầu được ra khỏi thai hoa, khi đã hết nghiệp rồi mới được
ra khỏi, thẳng đến chỗ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe kinh pháp, lâu sau
cũng được giải ngộ hoan hỷ, cũng được đi khắp cúng dường vô số vô lượng chư
Phật, tu tập các công đức.
Này A Dật Đa! Phải biết rằng tâm nghi hoặc tổn hại rất
lớn, mất lợi ích lớn đối với Bồ Tát, nên phải tin tưởng minh bạch vô thượng trí
huệ của Phật.
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Tại sao
có một hạng chúng sanh ở thế giới này tuy cũng tu thiện mà không cầu vãng
sanh?”
Này Từ Thị! Những chúng sanh này trí tuệ cạn cợt, phân
biệt Tây phương không bằng cõi trời, do vậy không thích cầu sanh về cõi Cực
Lạc.
Ngài Từ Thị bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sanh
này luống dối phân biệt không cầu sanh về cõi Phật, làm sao thoát khỏi luân
hồi”.
Đức Phật nói rằng: “Các chúng sanh ấy có nhiều căn lành,
nhưng không bỏ tâm phân biệt vọng tưởng, không cầu Phật huệ, tham đắm phước báo
vui thú thế gian. Tuy cũng làm phước, nhưng chỉ cầu quả báo nhân thiên. Tuy
được quả báo đầy đủ phong túc, nhưng chưa ra khỏi ngục tù tam giới.
Giả sử cha mẹ, vợ con, nam nữ quyến thuộc mà không dứt bỏ
dục tướng, tà kiến vọng chấp thì luôn ở trong vòng luân hồi không được tự tại.
Hạng người ngu si đó không gieo căn lành, chỉ dùng thế trí biện thông thì tăng
thêm tà kiến, làm sao ra khỏi đại nạn sanh tử được.
Lại có chúng sanh tuy có gieo căn lành, tạo phước lớn,
nhưng vẫn giữ tâm phân biệt, tình chấp sâu nặng, cũng cầu thoát luân hồi, nhưng
không thoát được.
Nếu đem cái trí huệ vô tướng mà làm các công đức, thân tâm
thanh tịnh, xa lìa tâm phân biệt, cầu sanh về Tịnh độ cho đến quả Bồ Đề, quyết
được sanh về cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.
PHẨM BỐN
MƯƠI HAI
BỒ TÁT
VÃNG SANH
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hiện
nay có bao nhiêu các bậc Bất thối Bồ Tát ở cõi Ta bà này và các cõi Phật khác
được sanh về nước Cực Lạc?”
Này Di Lặc! Ở thế giới Ta bà này có bảy trăm hai mươi ức
Bồ Tát đã từng cúng dường vô số chư Phật, làm nhiều công đức đã sanh về Cực
Lạc. Các bậc Bồ Tát sơ phát tâm, tu tập công đức đã được vãng sanh số lượng
không thể tính được. Không những các bậc Bồ Tát ở cõi này được vãng sanh về Cực
Lạc, mà các cõi Phật khác cũng lại như vậy.
Cõi nước của Đức Phật Viễn Chiếu có mười tám câu chi na do
tha đại Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.
Cõi nước Đức Phật Bảo Tạng ở phương Đông Bắc có chín mươi ức
bất thối Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.
Các bậc bất thối Bồ Tát ở những cõi nước Đức Phật Vô Lượng
Âm, Đức Phật Quang Minh, đức Phật Long Thiên, đức Phật Thắng Lực, Đức Phật Sư
Tử, Đức Phật Ly Trần, Đức Phật Đức Thủ, Đức Phật Nhân Vương, Đức Phật Hoa Tràng
đã vãng sanh số lượng mười trăm ức, hoặc trăm ngàn ức cho đến vạn ức vị.
Đức Phật thứ mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa, có vô số
chúng Bồ Tát ở cõi Phật đó đều ở bậc bất thối chuyển, đã sanh về cõi Cực Lạc.
Các vị ấy có trí huệ dõng mãnh, từng cúng dường vô lượng chư Phật, rất mực tinh
tấn, thẳng đến nhứt thừa, trong bảy ngày đêm kiên cố tu tập như pháp bằng cả
trăm ngàn ức kiếp tu tập.
Đức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy có bảy trăm chín mươi
ức đại Bồ Tát, các vị Bồ Tát thấp và chúng Tỳ kheo v.v… sanh về cõi Cực Lạc
không đếm kể được.
Danh hiệu của chư Phật trong mười phương thế giới và chúng
Bồ Tát đã vãng sanh, chỉ nói tên thôi mãn kiếp cũng không hết.
PHẨM BỐN
MƯƠI BA
CHẲNG PHẢI
LÀ TIỂU THỪA
Này Từ Thị! Ông thấy các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát kia được
nhiều lợi ích như vậy. Nếu có trai lành gái tín nào, được nghe danh hiệu đức
Phật A Di Đà sanh tâm vui mừng hớn hở chừng một niệm, quy y chiêm lễ, như
thuyết tu hành, phải biết người này được lợi ích rất lớn, được nhiều công đức
như đã nói ở trên, tâm không tự ti, cũng không cống cao, thành tựu thiện căn
được thêm tăng trưởng, phải biết người này không phải tiểu thừa, ở trong pháp
của ta được gọi là đệ tử bậc nhứt.
Cho nên ta bảo ông rằng: Những Thiên, Nhơn, A tu la ở thế
gian này nên phải hớn hở tin thích tu tập, sanh tâm hy hữu, nên lấy kinh này
làm thầy hướng dẫn để cho vô lượng chúng sanh mau được vào bậc bất thối chuyển,
thấy được cõi Cực Lạc rộng lớn trang nghiêm nhiếp thọ thù thắng, viên mãn công
đức hơn cả.
Nên phải tinh tấn vâng giữ pháp môn này cầu được vãng
sanh, không nên sanh tâm thối thất hư ngụy, dù có vào hầm lửa lớn cũng không
được nghi ngờ hối hận.
Tại sao vậy? Vô lượng vô số Bồ Tát đều mong cầu trân trọng
lắng nghe pháp môn vi diệu này, không có tâm sai trái. Có nhiều vị Bồ Tát muốn
nghe kinh này mà còn không được. Nên các ngươi phải cầu giữ pháp môn này.
PHẨM BỐN
MƯƠI BỐN
THỌ KÝ BỒ
ĐỀ
Về đời sau đến khi chánh pháp diệt tận, nếu có chúng sanh
nào đã trồng căn lành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nhờ vào oai lực
của Phật Vô Lượng Thọ gia bị mới gặp được kinh pháp này, giữ gìn thọ trì sẽ
được quảng đại Nhứt Thiết Trí. Ở trong kinh pháp đó hiểu rõ cặn kẽ, sẽ được
nhiều hoan hỷ, nên lưu truyền cho mọi người tin theo tu tập. Các thiện nam tín
nữ đối với pháp này nếu đã cầu, hiện cầu hay sẽ cầu vãng sanh đều được nhiều
lợi ích.
Các ông nên phải kiên định chắc chắn, trồng các căn lành,
nên luôn luôn tu tập không được ngừng nghỉ nghi ngờ, chẳng vào các cõi trân bảo
thành tựu lao ngục.
Này A Dật Đa! Những hạng đại oai đức này thường từ nơi các
pháp đại thừa khác mà được, nên đối với pháp này không chịu lóng nghe. Có đến
một ức vị Bồ Tát thối chuyển bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu có chúng sanh nào đối với kinh này viết chép cúng
dường thọ trì đọc tụng, trong chút thời gian vì người diễn nói, khuyên họ lóng
nghe, không sanh ưu não, cho đến ngày đêm suy nghĩ cõi Cực Lạc và công đức của
Phật A Di Đà, đối với đạo vô thượng trọn không thối chuyển. Giả sử ba ngàn thế
giới tràn ngập lửa lớn, người đó khi mạng chung cũng có thể vượt khỏi, sanh vào
cõi nước Cực Lạc. Bởi người ấy đời quá khứ đã từng gặp Phật và được thọ ký Bồ
Đề, tất cả Như Lai đồng tán thán. Vì thế nên phải chuyên tâm tin thọ, trì tụng
diễn thuyết tu hành.
PHẨM BỐN
MƯƠI LĂM
CHỈ LƯU
LẠI MỘT KINH NÀY
Ta nay vì chúng sanh mà nói kinh này, khiến thấy được Đức
Phật Vô Lượng Thọ và cảnh giới trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, hễ có tâm nguyện cầu
đều được như ý.
Chớ để sau khi Ta diệt độ rồi sanh lòng nghi hoặc.
Đời tương lai khi kinh pháp diệt tận, Ta đem lòng từ bi
thương xót, đặc biệt lưu kinh này lại trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp
được kinh này tùy ý nguyện cầu đều được độ thoát.
Như Lai ra đời rất khó gặp khó thấy, kinh pháp của Phật
khó được khó nghe, gặp thiện tri thức nghe pháp tu hành cũng đã là khó. Nếu
nghe kinh này tin thích thọ trì là điều khó trong khó, không gì khó hơn.
Nếu có chúng sanh được nghe lời Phật, từ tâm thanh tịnh,
hớn hở vui mừng, hoặc râu tóc dựng đứng hay mắt rơi lệ, là do đời trước từng
làm Phật sự, không phải là người phàm.
Nếu nghe danh hiệu Phật tâm sanh hồ nghi, đối với kinh
Phật đều không tin tưởng, đó là từ ác đạo sanh ra, túc ương chưa dứt, chưa được
độ thoát, nên có tâm hồ nghi, không chịu tin tưởng.
PHẨM BỐN
MƯƠI SÁU
CẦN TU
KIÊN TRÌ
Này Di Lặc Bồ Tát! Pháp của chư Phật Như Lai vô thượng, đủ
thập lực, vô úy, thậm thâm vô ngại vô trước; pháp Ba la mật của Bồ Tát cũng
không dễ gặp. Nói pháp này cho người cũng khó khai thị. Người không có lòng tin
sâu vững chắc cũng khó gặp được kinh pháp này.
Ta nay như lý tuyên nói pháp môn “Quảng đại vi diệu nhất
thiết chư Phật xưng tán” này đem giao phó cho các ông, các ông phải cẩn thận
thủ hộ, làm lợi ích cho các hữu tình chìm đắm trong đêm dài, chớ để cho chúng
đọa lạc trong ngũ thú chịu các khổ ách. Nên siêng tu hành, thuận theo giáo pháp
của ta, phải tâm nguyện như Phật, thường nhớ ân sư, phải làm cho pháp này lưu
truyền dài lâu không bị tiêu diệt, kiên cố giữ gìn không để hủy hoại vong thất,
kinh pháp nhiều ít nhớ kỹ không quên, quyết được đạo quả. Pháp của Ta như vậy,
làm như vậy, nói như vậy, Như Lai đã hành trì cũng theo đó mà hành trì, tu các
phước thiện, cầu sanh về cõi Tịnh độ.
PHẨM BỐN
MƯƠI BẢY
PHƯỚC HUỆ
ĐƯỢC NGHE
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
Nếu xa xưa không tu phước huệ,
Thì chánh pháp này không thể nghe
Đã từng cúng dường các Như Lai
Nên hay vui mừng tin pháp này.
Kiêu mạn giải đãi và tà kiến
Pháp vi diệu Như Lai khó tin
Như người mù hằng thấy tối đen
Không thể dẫn đường cho người khác
Chỉ từng trước Phật trồng căn lành
Cứu đời hành thiện mới tu tập.
Nghe rồi thọ trì và biên chép
Đọc tụng tán thán và cúng dường
Như vậy nhứt tâm cầu Tịnh độ
Giá sử lửa cháy khắp ba ngàn
Nhờ oai đức Phật tất siêu việt
Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc
Biển trí huệ Như Lai sâu rộng
Chỉ Phật cùng Phật mới biết được
Thanh văn ức kiếp suy trí Phật
Tận hết sức cũng không thể hiểu
Công đức Như Lai Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn mới khai thị.
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ nghe pháp khó trong khó
Nếu các hữu tình sắp thành Phật
Hạnh hơn Phổ Hiền lên bờ giác
Hỡi những kẻ học rộng trí cả
Nên tin lời như thật của Ta
Diệu pháp này may phước được nghe
Nên vui mừng hãy chuyên niệm Phật.
Thọ trì quyết thoát biển sanh tử
Phật gọi người này thật bạn lành.
PHẨM BỐN
MƯƠI TÁM
NGHE KINH
ĐƯỢC LỢI ÍCH
Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, có một vạn hai ngàn na
do tha chúng sanh xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi ức chúng
sanh chứng quả A na hàm, sáu ngàn tám trăm Tỳ kheo lậu tận tâm được giải thoát,
bốn mươi ức Bồ Tát được bất thối chuyển, dùng công đức hoằng thệ mà tự trang
nghiêm quả Vô Thượng Bồ đề, hai mươi lăm ức chúng sanh được bất thối nhẫn, bốn
vạn ức na do tha trăm ngàn chúng sanh chưa từng phát nguyện thành Phật, nay mới
phát tâm gieo các căn lành, nguyện sanh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà, đều sẽ
vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật Vô Lượng Thọ, thảy đều thứ lớp thành Phật
khắp các phương cùng một danh hiệu là Diệu Âm Như Lai. Lại có tám vạn câu chi
na do tha hữu tình ở mười phương cõi Phật, hoặc hiện vãng sanh, hoặc sẽ vãng
sanh thấy Phật A Di Đà được thọ ký pháp nhẫn thành Vô thượng Bồ Đề, các hữu tình
này có túc nguyện nhân duyên với đức Phật A Di Đà.
Bấy giờ đại thiên thế giới chấn động sáu cách, và hiện các
hi hữu thần biến. Quang minh sáng chói chiếu khắp mười phương. Lại có chư Thiên
giữa hư không tấu âm nhạc vi diệu, cho đến chư Thiên Sắc giới cũng nghe và khen
chưa từng có, vô lượng hoa đẹp thơm rưới xuống.
Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các hàng Bồ Tát,
Thanh Văn, Thiên Long, Bát bộ tất cả đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
Phật nói kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác.
-Hết-
MƯỜI CÔNG
ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
· Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ
thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.
· Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ,
tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm, cướp, đạo binh,
ngục tù.
· Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền
khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.
· Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia
hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
· Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp những
nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành,
việc làm thuận lợi, được kết quả tốt.
· Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi,
tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận , phước lộc đời đời.
· Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ,
đến đâu cũng được mọi người kính mến khen ngợi.
· Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh
khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nếu nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền
được nam thân.
· Chín là, vĩnh viễn lìa xa đường ác, sanh vào cõi
thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
· Mười là, hay vì tất cả chúng sanh trồng các
căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sanh làm phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy
đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy
Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật
quả.
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: Ấn tống kinh, tượng
Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu
phuớc, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy
tin tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho mình và thân bằng
quyến thuộc.
THAY LỜI KẾT
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm
trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là
phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai
vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp môn để đáp ứng thích cơ
hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanh đa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp
dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn
đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì
giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương
thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng
thuyết minh về những hiện tượng thành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng
trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm
sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng thái thạnh
suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức
Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ
tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những
phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phật trình bày bàn bạc
khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật
nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh
nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được
kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp
Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hội kinh A Di
Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội
kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di
Đà và nhân duyên mật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng
chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh
cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệm Phật ra, không có pháp môn nào cứu
giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ.
Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng
Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà
không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà
đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích
Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùng của kinh Vô Lượng
Thọ đối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến
bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn
phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con
đường chắc chắn giải thoát. Đó chính là con đường Tịnh độ, con đường an toàn
vững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quang soi sáng, có Thánh
chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự
lực, tha lực đầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các
anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh
khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất định cảnh giới
Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm
PHẬT THUYẾT
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Nguyên Hán bản: Ngài HẠ LIÊN CƯ
(hội tập)
Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm & Cư sĩ Minh Chánh
Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm & Cư sĩ Minh Chánh
NGUYỆN HƯƠNG
(Quì gối đưa nhang lên nguyện hương)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh
Đều phát lòng bồ đề,
Hết một báo thân này
Sanh về cõi Cực Lạc.
(Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát)
(lạy 1 lạy)
TÁN THÁN PHẬT
(Đứng Lên Đánh Khánh Tụng)
Sắc Thân Như Lai đẹp, trong đời không ai bằng, không sánh, chẳng nghĩ bàn, nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận, trí huệ Phật cũng thế, tất cả pháp thường trú, cho nên con về nương. Sức chí lớn nguyện lớn, khắp độ chúng quần sanh, khiến bỏ thân nóng khổ, sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp, qui y và lễ tán, nguyện cùng các chúng sanh, đồng sanh nước Cực Lạc.
(Đại Chúng Đồng Tụng Nhất Tâm Đảnh Lễ)
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ
Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ
A Di Đà Như Lai
Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Thật Báo Trang Nghiêm Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Tướng Hải Vi Trần
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Phương Tiện Thánh Cư Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Trang Nghiêm Giải Thóat
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Căn Giới Đại Thừa
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Hóa Đến Mười Phương
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Giáo Hạnh Lý Ba Kinh
Tột Nói Bày Y Chánh
Khắp Pháp Giới Tôn Pháp 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Quán Thế Âm Bồ Tát
Thân Tử Kim Muôn ức
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Đại Thế Chí Bồ Tát
Thân Trí Sáng Vô Biên
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Thân Hai Nghiêm Phước Trí
Khắp Pháp Giới Thánh Chúng 0 (lạy1 lạy)
CỬ TÁN
(Đại chúng đồng tụng theo tiếng mõ)
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng kinh Vô Lượng Thọ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
(Quì gối đưa nhang lên nguyện hương)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh
Đều phát lòng bồ đề,
Hết một báo thân này
Sanh về cõi Cực Lạc.
(Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát)
(lạy 1 lạy)
TÁN THÁN PHẬT
(Đứng Lên Đánh Khánh Tụng)
Sắc Thân Như Lai đẹp, trong đời không ai bằng, không sánh, chẳng nghĩ bàn, nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận, trí huệ Phật cũng thế, tất cả pháp thường trú, cho nên con về nương. Sức chí lớn nguyện lớn, khắp độ chúng quần sanh, khiến bỏ thân nóng khổ, sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp, qui y và lễ tán, nguyện cùng các chúng sanh, đồng sanh nước Cực Lạc.
(Đại Chúng Đồng Tụng Nhất Tâm Đảnh Lễ)
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ
Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ
A Di Đà Như Lai
Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Thật Báo Trang Nghiêm Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Tướng Hải Vi Trần
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Phương Tiện Thánh Cư Độ
A Di Đà Như Lai
Thân Trang Nghiêm Giải Thóat
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Căn Giới Đại Thừa
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân Hóa Đến Mười Phương
Khắp Pháp Giới Chư Phật 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Giáo Hạnh Lý Ba Kinh
Tột Nói Bày Y Chánh
Khắp Pháp Giới Tôn Pháp 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Quán Thế Âm Bồ Tát
Thân Tử Kim Muôn ức
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy 1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Đại Thế Chí Bồ Tát
Thân Trí Sáng Vô Biên
Khắp Pháp Giới Bồ Tát 0 (lạy1 lạy)
Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Thân Hai Nghiêm Phước Trí
Khắp Pháp Giới Thánh Chúng 0 (lạy1 lạy)
CỬ TÁN
(Đại chúng đồng tụng theo tiếng mõ)
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng kinh Vô Lượng Thọ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
PHẨM THỨ
NHẤT
PHÁP HỘI
THÁNH CHÚNG
Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật
nơi thành Vương Xá, cùng với đại thánh chúng Tỳ kheo một vạn hai ngàn vị đã
chứng thần thông: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giaû Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục
Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v…là những bậc thượng thủ.
Lại có các ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, Di Lặc Bồ Tát và tất cả Bồ Tát trong hiền kiếp đến tập hội.
PHẨM THỨ
HAI
ĐỨC TUÂN
PHỔ HIỀN
Lại có mười sáu vị Bồ Tát tại gia: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện
Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát,
Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ
Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ
Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, là những bậc thượng thủ. Các vị Bồ Tát
này đều tuân theo hạnh nguyện của Phổ Hiền Đại sĩ, thật hành vô lượng hạnh
nguyện quyền hành phương tiện đi khắp mười phương làm các công đức, vào pháp
tạng của chư Phật, rốt ráo giải thoát, nguyện chúng sanh ở vô lượng thế giới
đồng chứng Phật quả. Rời cung trời Đâu Suất, giáng sinh vào cung vua, bỏ ngôi
vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo.
Thị hiện thuận theo thế gian pháp, đem sức định huệ hàng
phục ma oán, đắc pháp vi diệu thành bậc tối chánh giác, người trời qui ngưỡng.
Chuyển bánh xe pháp, đem pháp âm giác ngộ thế gian, phá thành phiền não, lấp ao
tham dục, gột sạch cấu uế, hiển bày đức thanh tịnh, điều phục chúng sanh, tuyên
thuyết diệu lý, tích công lũy đức, gây tạo phước điền. Đem pháp dược cứu liệu
các khổ ba cõi. Làm phép quán đảnh thọ ký Bồ đề. Giáo hóa Bồ Tát nên làm A xà
lê biểu thị vô biên công hạnh, thành thục vô biên thiện căn cho hàng Bồ Tát. Vô
lượng chư Phật đồng đến hộ niệm. Trong tất cả cõi Phật đều có thể thị hiện như
vậy. Như nhà ảo thuật biến ra các hình tướng, nhưng các hình ấy không có thật
tướng. Bậc Bồ Tát này cũng lại như vậy, đã thông đạt tánh tướng của chúng sanh,
cúng dường chư Phật. Dắt dẫn quần sanh, hóa hiện các thân, mau như ánh chớp.
Phá tan lưới chấp, thoát dây ràng buộc, qua khỏi quả vị Thanh văn Bích chi,
chứng nhập ba pháp: Không, vô tướng, vô nguyện.Khéo lập phương tiện hiển thị ba
thừa. Đối với hàng trung hạ căn thị hiện có diệt độ. Chứng đắc vô sanh vô diệt,
vào sâu thiền định, được vô lượng trăm ngàn pháp tổng trì. Ngộ nhập Hoa Nghiêm
tam muội, chứng trăm ngàn tổng trì tam muội, vẫn trụ sâu trong thiền định, thấy
rõ vô lượng đức Phật. Khoảnh khắc đi khắp cõi Phật, được biện tài của Phật. Vào
hạnh nguyện Phổ Hiền.
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ
trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối
với vạn vật tùy ý tự tại. Với lục đạo phàm phu làm bạn không thỉnh. Vâng giữ
pháp tạng nhiệm mầu Như Lai, hộ trì giống Phật khiến không dứt. Phát rộng lòng
thương xót hữu tình, nói lời từ ái, trao pháp nhãn, đóng đường ác, mở cửa lành.
Đối với chúng sanh biểu hiện cởi mở, cứu giúp phò trợ, mong độ chúng sanh đến
bờ giác ngộ. Quyết được vô lượng công đức. trí huệ sáng suốt không thể nghĩ
bàn.
Vô lượng vô biên đại Bồ Tát như vậy đồng đến pháp hội. Lại
có năm trăm vị Tỳ kheo ni, bảy ngàn vị Ưu bà tắc, năm trăm vị Ưu bà di, và chư
thiên cõi Dục, cõi sắc, cõi Phạm chúng đồng đến dự đại hội.
PHẨM THỨ
BA
ĐẠI GIÁO
DUYÊN KHỞI
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện trăm ngàn sắc tướng oai quang
sáng chói, như gương sáng sạch chiếu rõ vạn pháp.
Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ, ngày nay đức Thế Tôn hiện
sắc tướng nghiêm tịnh rạng rỡ nguy nguy, cõi nước trang nghiêm, từ trước đến
nay ta chưa từng thấy, thật là hi hữu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo vai
hữu quỳ gối chấp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay Thế Tôn vào
Đại Tịch Định, an trụ trong pháp đặc biệt, an trụ trong pháp hạnh tối thắng của
chư Phật. Quá hiện vị lai, Phật Phật nhớ nhau. Thế Tôn vì nhớ chư Phật quá khứ,
chư Phật vị lai hay nhớ chư Phật hiện tại phương khác? Vì sao lại có oai thần
hiển diệu thù đặc như vậy, cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy”.
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Lành thay! Lành thay!
Ông vì thương xót lợi lạc các chúng sanh mới hỏi điều vi diệu như vậy. Lời thưa
hỏi của ông hôm nay công đức thù thắng hơn trăm ngàn vạn lần nhiều kiếp bố thí
cúng dường các bậc A la hán, Bích chi Phật cùng chư Thiên, nhân loại và
các loài bò bay xuẩn động trong một thiên hạ. Vì sao vậy? Chư Thiên, nhân loại
và tất cả hàm linh đời sau đều nhơn lời hỏi của ông hôm nay mà được độ thoát.
Này A Nan! Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi
nên xuất hiện ở đời, tuyên dương giáo pháp là muốn cứu bạt quần manh, đem lợi
ích chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa ưu đàm hiếm khi xuất hiện, lời hỏi hôm
nay của ông lợi ích rất lớn.
A Nan nên biết: Trí chánh giác của Như Lai rất khó suy
lường, không gì chướng ngại được. Có thể trong một niệm an trụ vô lượng kiếp,
thân và các căn không có sanh diệt. Vì sao vậy?
Định huệ của Như Lai thông đạt vô cùng, tối thắng tự tại
với tất cả pháp. A Nan hãy lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt
giải rõ.
PHẨM THỨ
TƯ
PHÁP TẠNG
NHÂN ĐỊA
Này A Nan: ở vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ lâu xa có
đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh
giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng
phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó trụ thế hóa độ bốn mươi hai
kiếp. Vì hàng chư Thiên và nhân loại mà thuyết giảng kinh pháp”.
Bấy giờ có vị vua tên là Thế Nhiêu nghe Phật thuyết giảng
đạo lý, tâm sanh hoan hỷ lãnh ngộ, liền phát tâm Vô thượng chơn chánh, bèn trao
ngôi vua theo Phật xuất gia làm sa môn hiệu là Pháp Tạng. Tu hạnh Bồ Tát, đức
hạnh cao siêu trí huệ dõng mãnh, thâm tín lý giải đệ nhất. Lại có hạnh nguyện
thù thắng, định huệ tăng thượng kiên cố bất động, tu hành tinh tấn, đến trước
đức Phật đảnh lễ quỳ gối chắp tay tán thán phát đại thệ nguyện, nói kệ rằng:
Thân Như Lai vi diệu đoan nghiêm
Thế gian không ai sánh kịp được
Sáng ngời vô lượng khắp mười phương
Nhựt nguyệt hỏa châu lu mờ cả.
Thế Tôn diễn thuyết một âm thanh
Tùy loại hữu tình thảy thông hiểu
Lại hay hiện sắc thân đẹp đẽ
Tùy loại chúng sanh đều thấy rõ.
Nguyện con thành Phật có tiếng tốt
Đưa Pháp âm đến vô biên cõi,
Tuyên dương pháp: Giới, định , tinh tấn.
Thông đạt rộng sâu pháp nhiệm mầu
Trí huệ rộng lớn như biển cả
Nội tâm thanh tịnh dứt trần lao
Ra hẳn vô biên đường ác thú
Mau đến Bồ đề bờ cứu cánh.
Vô minh tham sân đều dứt sạch
Tuyệt hẳn vọng hoặc, đắc tam muội
Như vô lượng Phật đời quá khứ,
Làm đại Đạo sư khắp quần sanh,
Hay cứu tất cả sự khổ não
Sanh già bịnh chết của chúng sanh.
Thường tu bố thí, giới, nhẫn nhục
Tinh tấn, định, huệ sáu Ba la.
Hữu tình chưa độ khiến được độ,
Kẻ đã độ rồi khiến thành Phật.
Giả sử cúng dường hằng sa Thánh,
Không bằng kiên dõng cầu Chánh giác.
Nguyện an trụ vào Tam ma địa
Hằng phóng hào quang chiếu khắp nơi
Chạm đến được vào nơi thanh tịnh,
Thù thắng trang nghiêm không ai bằng,
Chúng sanh luân hồi trong các cõi,
Mau về cõi con hưởng an lạc.
Thường vận từ tâm cứu hữu tình,
Độ tận vô biên chúng sanh khổ.
Con nguyền quyết định kiên cố tu,
Xin Phật thánh trí chứng biết cho,
Dù cho thân nát trong các khổ,
Nguyện tâm như vậy thề không thối.
PHẨM THỨ
NĂM
CHÍ TÂM
TINH TẤN
Pháp Tạng Tỳ kheo nói bài kệ này rồi liền bạch đức Phật
rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay tu hạnh Bồ Tát, đã phát tâm Vô thượng Chánh
giác, giữ nguyện làm Phật, tất được như Phật. Nguyện đức Phật vì con rộng giảng
kinh pháp, con xin phụng trì, như pháp tu hành, dứt sạch gốc khổ sanh tử, mau
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nguyện khi con thành Phật, trí huệ sáng suốt, hào quang
sáng chói, tiếng tăm quốc độ lan khắp mười phương; trời người cho đến súc sanh,
sanh vào cõi nước con đều thành Bồ Tát. Nguyện con lập đây tất cả đều hơn các
cõi Phật khác, có được chăng?”
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền nói với Pháp Tạng
rằng: “Thí như có người lường nước biển trải qua nhiều kiếp còn có thể đến đáy.
Ngươi đã hết lòng cầu đạo tinh tấn không dứt, quyết sẽ được kết quả! Vậy thì
nguyện gì mà chẳng thành?
Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi
Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh
cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp. Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Điều ấy
quá sâu rộng, không phải cảnh giới của con hiểu được, cúi xin đức Như Lai Ứng
Chánh Biến Tri rộng nói vô lượng vi diệu cõi nước của chư Phật, khi con được
nghe các pháp như vậy rồi, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện con mới được viên mãn”.
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết rõ chí nguyện sâu rộng
của Pháp Tạng, liền nói công đức nghiêm tịnh rộng lớn viên mãn cõi nước của hai
trăm mười ức đức Phật đúng theo tâm nguyện ông mong muốn, trải qua ngàn ức năm.
Bấy giờ Pháp Tạng Tỳ kheo nghe Phật nói rồi, đã được thấy rõ, liền phát nguyện
vô thượng thù thắng. Nơi các cõi xấu, đẹp, thiện, ác, của trời người suy lường
rốt ráo. Chuyên tâm chọn lựa, kết thành đại nguyện, tinh cần cầu tiến, kính cẩn
duy trì tu tập công đức đầy đủ năm kiếp. Ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật công
đức trang nghiêm, rõ ràng thông suốt thành một nước Phật. Khi đã tu tập rồi,
lại đến chỗ của Như Lai thế Tự tại Vương, cúi đầu lạy sát chân, nhiễu Phật ba
vòng rồi, đứng yên chắp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con đã thành
tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Nay chính phải lúc
ông nên nói rõ để mọi người vui mừng, cũng để đại chúng nghe rồi được nhiều lợi
lớn, có thể ở cõi Phật đó tu tập nhiếp thọ trọn đủ vô lượng đại nguyện”.
PHẨM THỨ
SÁU
PHÁT ĐẠI
THỆ NGUYỆN
Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế
Tôn thương xót nghe cho:
·
Con nếu chứng được Vô thượng Bồ Đề, thành Đẳng chánh giác
rồi, cõi nước của Phật ở có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm không thể
nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh các loại. Nếu có chúng sanh
trong ba đường ác cho đến từ địa ngục sanh về cõi con, thọ giáo pháp của con,
tất thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không đọa lại ba đường ác nữa. Được
như vậy con mới làm Phật. Nếu không được như nguyện, thề không thành Vô thượng
Chánh giác.
[1- Nguyện trong nước không có ác đạo.
2- Nguyện không đọa ba đường ác.]
·
Khi con thành Phật, các chúng sanh ở mười phương thế giới
sanh về cõi con, thân tướng sắc vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, đủ tướng
đại trượng phu, đoan nghiêm chánh trực, tất cả đồng một dung nhan, nếu có tốt
xấu, hình thể sai biệt, thề không thành Chánh giác.
[3- Nguyện thân có sắc vàng ròng.
4- Nguyện có ba mươi hai tướng tốt.
5- Nguyện cho thân không sai biệt.]
·
Khi con thành Phật, các chúng sanh sanh về cõi con, biết
rõ vô lượng kiếp trước. Thấy rõ những việc thiện ác đã làm. Nghe rõ sự việc
khắp mười phương cả ba đời khứ lai hiện tại. Nếu không được như nguyện, thề
không thành Chánh giác.
[6- Nguyện có túc mạng thông.
7- Nguyện có thiên nhãn thông.
8- Nguyện có thiên nhĩ thông.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con đều
được tha tâm trí thông, biết được tâm niệm của chúng sanh xa cách trăm ngàn vạn
ức cõi Phật, nếu không như vậy thề không thành Chánh giác.
[9- Nguyện có tha tâm thông.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con,
được thần thông tự tại Ba la mật đa. Trong khoảnh khắc nếu không đi khắp trăm
ngàn vạn ức cõi Phật để cúng dường, thề không thành Chánh giác.
[10- Nguyện được thần túc thông.
11- Nguyện giáp khắp cúng dường chư Phật.]
·
Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con, xa
lìa tâm phân biệt, các căn tịch tịnh, nếu chẳng an trụ trong định tụ đến đại
Niết bàn, thề không thành Chánh giác.
[12- Nguyện quyết định thành bậc Chánh giác.]
·
Khi con thành Phật, có quang minh vô lượng chiếu
khắp mười phương chư Phật, gấp ngàn vạn ức lần ánh sáng của nhựt nguyệt. Nếu có
chúng sanh nào thấy hay chạm được ánh sáng của con thì được an lạc, khởi từ tâm
làm điều lành, sau sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành
Chánh giác.
[13- Nguyện ánh sáng vô lượng.
14- Nguyện chạm Quang minh được an lạc.]
·
Khi con thành Phật sống lâu vô lượng. Vô số Thanh văn và
trời người trong nước cũng có thọ mạng vô lượng. Giả như chúng sanh ở ba ngàn
thế giới thành bậc Duyên giác trải qua trăm ngàn kiếp để tính đếm, nếu biết
được số lượng ấy, thề không thành Chánh giác.
[15- Nguyện thọ mạng vô lượng.
16- Nguyện Thanh văn vô số.]
·
Khi con thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi ở
mười phương thế giới, nếu không khen ngợi tên con, nói công đức quốc độ của
con, thề không thành Chánh giác.
[17- Nguyện được chư Phật xưng tán.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh
hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, tâm tâm hồi hướng nguyện
sanh về cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, thề không
thành Chánh giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
[18- Nguyện mười niệm tất vãng sanh.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh
hiệu con, phát tâm Bồ đề, tu các công hạnh, hành sáu Ba la mật, kiên cố không
lùi, lại đem các căn lành hồi hướng nguyện sanh về cõi nước con, một lòng nghĩ
đến con ngày đêm không dứt, đến khi mạng chung, con cùng Thánh chúng Bồ Tát
liền đến tiếp đón, khoảnh khắc sanh về cõi con được Bất thối chuyển. Nếu không
được như nguyện, thề không thành Chánh giác.
[19- Nguyện nghe danh phát tâm.
20- Nguyện lâm chung tiếp dẫn.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh
hiệu con, nhớ nghĩ nước con, phát tâm Bồ đề kiên cố không thối lui, trồng các
căn lành, hết lòng hồi hướng sanh về Cực Lạc, đều được toại ý; nếu có ác nghiệp
đời trước, nghe danh hiệu con hết lòng sám hối, làm các điều lành, lại trì kinh
giữ giới nguyện sanh về nước con, mạng chung không lạc vào ba đường ác, liền
sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[21- Nguyện sám hối được vãng sanh]
·
Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ. Nếu có nữ
nhơn nào nghe danh hiệu con, thanh tịnh tin tưởng, phát tâm Bồ đề, chán ghét nữ
thân, mạng chung liền hóa thân nam tử sanh về nước con. Các loại chúng sanh ở
thế giới mười phương, sanh về nước con đều hóa sanh trong hoa sen thất bảo. Nếu
không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[22- Nguyện trong nước không có người nữ.
23- Nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam.
24- Nguyện Liên hoa hóa sanh.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh
hiệu con vui mừng tin tưởng, lễ bái qui mạng, đem tâm thanh tịnh tu hạnh Bồ
tát, chư Thiên và người đời hết lòng tôn kính. Nếu nghe danh hiệu con, sau khi
mạng chung được sanh vào nhà tôn quý, các căn đầy đủ. Thường tu thù thắng phạm
hạnh. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[25- Nguyện Thiên Nhân lễ kính.
26- Nguyện nghe danh hiệu được phước.
27- Nguyện tu thù thắng hạnh]
·
Khi con thành Phật, nước con không có tên ba đường ác.
Chúng sanh sanh vào nước con đều nhất tâm trụ vào chánh định. Không còn nhiệt
não, tâm được mát mẻ, hưởng thọ an lạc, như Tỳ kheo lậu tận. Nếu còn khởi tưởng
niệm tham đắm thân sau, thề không thành Chánh giác.
[28- Nguyện nước không có tên "Bất thiện".
29- Nguyện trụ Chánh định tụ.
30- Nguyện vui như Tỳ kheo dứt sạch các lậu.
31- Nguyện không tham chấp thân]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, được vô
lượng căn lành, thân thể vững chắc như kim cang bất hoại, thân mình đều có hào
quang chiếu sáng. Thành tựu hết thảy trí huệ, biện tài không cùng tận. Rộng nói
các pháp bí yếu, giảng kinh thuyết pháp, tiếng như chuông vang. Nếu không được
như vậy, thề không thành Chánh giác.
[32- Nguyện được Na la diên thân.
33- Nguyện Quang minh trí huệ biện tài.
34- Nguyện khéo nói pháp yếu]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con quyết
chắc đến bậc Nhất Sanh Bổ Xứ. Trừ khi phát nguyện rộng lớn trở lại độ sanh,
giáo hóa hữu tình, khuyến phát tín tâm, tu hạnh Bồ tát, hành nguyện Phổ Hiền,
tuy sanh vào thế giới khác hằng lìa ác thú, hoặc thích thuyết pháp, nghe pháp,
hay hiện thần túc, tùy ý tu tập thảy đều viên mãn. Nếu không được như vậy, thề
không thành Chánh giác.
[35- Nguyện nhất sanh bổ xứ.
36- Nguyện giáo hóa tùy ý.]
·
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, nếu muốn
ăn uống, y phục hay các đồ cần dùng tùy ý liền đến. Nếu khởi niệm cúng dường
mười phương chư Phật, liền được mãn nguyện. Nếu không được như vậy, thề không
thành Chánh giác.
[37- Nguyện y thực tự đến.
38- Nguyện ứng niệm thọ cúng.]
·
Khi con thành Phật, vạn vật trong cõi nước con đều trang
nghiêm thanh tịnh sáng chói, hình sắc thù thắng vi diệu không thể tả xiết, dù
có thiên nhãn cũng không thể diễn tả hết vẻ đẹp về hình sắc, hình tướng lộng
lẫy và số lượng chúng sanh ở đó v.v… Nếu không được như vậy, thề không thành
Chánh giác.
[ 39- Nguyện trang nghiêm vô tận.]
·
Khi con thành Phật, vô lượng cây cảnh trong cõi nước con
cao trăm ngàn do tuần. Cây làm đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm. Các bậc Bồ Tát
trung phẩm cũng có thể biết rõ. Nếu muốn thấy các cõi thanh tịnh trang nghiêm
của chư Phật, tuy ở nơi cây báu cũng được thấy rõ vạn tượng như xem trong
gương. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.
[40- Nguyện có vô lượng cây sắc báu.
41- Nguyện cây hiện cõi Phật.]
·
Khi con thành Phật, cõi nước rộng rãi nghiêm tịnh,
sáng chói như gương, chiếu khắp vô lượng vô số bất khả tư nghì thế giới chư
Phật khắp mười phương, chúng sanh thấy rồi sanh tâm hi hữu. Nếu không được như
vậy, thề không thành Chánh giác.
[42- Nguyện chiếu suốt mười phương.]
·
Khi con thành Phật, cùng tột dưới đất, trên đến hư không,
tất cả vạn vật cung điện, lầu các, ao nước, hoa cây v.v… trong nước đều do vô
lượng bảo hương hiệp thành, hương thơm xông khắp mười phương thế giới, chúng
sanh ngửi được đều tu Phật hạnh. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh
giác.
[43- Nguyện hương báu xông khắp.]
·
Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát trong mười phương cõi
Phật, nghe danh con rồi đều được thanh tịnh giải thoát, Phổ đẳng Tam muội, các
môn Tổng trì vào Tam ma địa cho đến thành Phật. Tuy ở trong định thường cúng
dường vô lượng vô biên chư Phật vẫn không mất định ý. Nếu không được như vậy,
thề không thành Chánh giác.
[44- Nguyện phổ đẳng tam muội
45- Nguyện trong định cúng Phật.]
·
Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát ở thế giới khác nghe
danh con rồi chứng Ly sanh pháp, được các môn Đà la ni. Thanh tịnh hoan hỷ, an
trụ trong thể tướng bình đẳng, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ trí đức mà không chứng
được ba nhẫn, nơi Phật pháp mà không chứng được bậc Bất thối chuyển, thề không
thành Chánh giác”.
[46- Nguyện được môn Tổng trì.
47- Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn.
48- Nguyện hiện chứng quả bất thối chuyển]
PHẨM THỨ
BẢY
QUYẾT
THÀNH CHÁNH GIÁC
Này A Nan: Bấy giờ Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện rồi, liền
đọc bài tụng:
Con lập nguyện hơn đời,
Tất đến đạo Vô Thượng,
Nguyện này nếu không toại,
Thề không thành Chánh giác.
Lại làm đại thí chủ
Cứu khắp kẻ cùng khổ,
Khiến các quần sanh kia,
Đêm dài không ưu não,
Phát sanh các căn lành,
Thành tựu quả Bồ đề.
Con nếu thành Chánh giác,
Lấy tên Vô Lượng Thọ.
Chúng sanh nghe danh này
Sanh về cõi nước con,
Thân kim sắc như Phật,
Tướng tốt thảy viên mãn,
Cũng đem tâm đại bi,
Lợi ích các quần sanh,
Ly dục sâu thiền định
Tịnh huệ tu phạm hạnh.
Nguyện đem trí huệ sáng,
Chiếu khắp mười phương cõi,
Tiêu trừ ba độc hại
Cứu khỏi các ách nạn,
Dứt sạch khổ tam đồ,
Diệt hết phiền não ám,
Khai sáng mắt trí huệ,
Chứng được thân quang minh
Đóng hết ba đường ác,
Mở rộng các cửa lành.
Vì chúng khai tạng pháp,
Rộng thí báu công đức,
Trí vô ngại như Phật,
Làm các hạnh từ mẫn.
Đạo Sư cả trời người,
Anh hùng khắp ba cõi,
Thuyết pháp sư tử hống,
Rộng độ các hữu tình
Viên mãn lời phát nguyện,
Tất cả đều thành Phật.
Nguyện này nếu thành tựu,
Đại thiên thảy chấn động.
Các thiên thần trên không,
Mưa xuống trân diệu hoa.
Này A Nan! Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, mặt đất chấn
động sáu cách. Hoa trời rưới khắp, âm nhạc tự trỗi, không trung vang lời khen:
Quyết chắc thành Vô thượng Chánh giác.
PHẨM THỨ
TÁM
TÍCH CÔNG
LŨY ĐỨC
Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo ở trước Như Lai Thế Tự Tại
Vương và giữa đại chúng trời người phát hoằng thệ nguyện này rồi, an trụ trong
huệ chân thật, dõng mãnh tinh tấn một hướng chuyên tâm trang nghiêm cõi nước,
xây dựng Phật quốc rộng lớn, siêu việt thắng diệu, kiến lập vĩnh viễn, tuyệt
không hư hoại, không biến đổi. Trong vô lượng kiếp vun trồng đức hạnh, không
khởi tưởng dục ba độc, chẳng đắm sáu trần, chỉ chuyên nhớ nghĩ chư Phật thuở
quá khứ đã tu căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa lìa luống dối, y chơn đế môn,
làm các công đức, không nề các khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp thanh
tịnh, đem ân huệ lợi ích quần sanh, chí nguyện không mỏi, thành tựu các nhẫn.
Đối với hữu tình nói lời từ ái vui vẻ hòa dịu khuyến dụ khích lệ. Cung kính Tam
bảo, phụng sự sư trưởng. Không giả dối nịnh hót, nghiêm trang đứng đắn, khuôn
phép nhứt mực. Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch. Giữ gìn khẩu nghiệp,
không nói lỗi người, giữ gìn thân nghiệp, không mất oai nghi, giữ gìn ý nghiệp,
thanh tịnh không nhiễm. Nếu có quốc thành xóm làng quyến thuộc trân bảo, không
sanh tham trước, hằng hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ sáu Ba la mật. Giáo hóa chúng sanh an trụ đạo Vô thượng Chánh giác. Do
thành thục các căn lành như vậy, nên sanh đến chỗ nào tự nhiên cảm ứng có vô
lượng kho báu, hoặc làm trưởng giả cư sĩ, hào hiệp tôn quý, hoặc làm Sát lợi
Quốc vương, Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm vua trời cõi Lục dục cho đến Phạm
vương, cung kính cúng dường chư Phật chưa từng gián đoạn. Những công đức như
vậy chẳng thể kể hết.
Miệng thường tỏa hương thơm như hương chiên đàn, hương thơm hoa
sen, hương thơm ấy xông khắp vô lượng thế giới. Phàm sanh ra chỗ nào sắc tướng
cũng đoan nghiêm, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi nét đẹp. Tay thường xuất
sanh châu báu vô tận, tất cả đồ cần dùng đẹp đẽ tối thượng để lợi lạc hữu tình.
Do nhân duyên ấy, khiến vô lượng chúng sanh phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề.
PHẨM THỨ
CHÍN
THÀNH TỰU
VIÊN MÃN
Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo tu hạnh Bồ Tát, tích công lũy
đức vô lượng vô biên trong tất cả pháp mà được tự tại, không thể dùng lời diễn
tả hết chỗ phát thệ, thành tựu viên mãn như thật an trụ cụ túc trang nghiêm,
oai đức rộng lớn thanh tịnh cõi Phật được.
Tôn giả A Nan nghe đức Phật nói lời ấy rồi, cung kính thưa
rằng: Bạch đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ Tát chứng Bồ đề là đã thành Phật và nhập
diệt rồi hay chưa thành Phật, hay đã thành Phật hiện ở thế giới khác?
Đức Thế Tôn nói: “Đức Phật Như Lai kia, đến không chỗ đến,
đi không chỗ đi, không sanh không diệt, không có quá hiện vị lai, chỉ có một
nguyện độ sanh. Hiện ở phương Tây cách Diêm phù đề này mười vạn ức cõi Phật,
thế giới đó gọi là Cực Lạc, Pháp Tạng thành Phật hiệu là A Di Đà. Thành Phật đến
nay đã mười kiếp, hiện đang thuyết pháp, có vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thanh
văn cung kính vây quanh”.
PHẨM THỨ
MƯỜI
ĐỀU NGUYỆN
LÀM PHẬT
Lúc đức Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát viên mãn hạnh
nguyện rồi, A Xà Vương tử cùng với năm trăm trưởng giả biết được đều rất vui
mừng, mỗi mỗi cầm một bó hoa bằng vàng đến trước Phật đảnh lễ và dâng hoa xong
ngồi về một phía. Họ đồng tâm nguyện rằng, khi chúng tôi thành Phật đều như đức
Phật A Di Đà”.
Đức Phật biết tâm nguyện của họ, bảo các Tỳ kheo rằng:
“Các vương tử này sau sẽ thành Phật. Đời trước khi còn tu hạnh Bồ Tát, trải qua
vô số kiếp đã cúng dường bốn trăm ức đức Phật. Thời Phật Ca Diếp họ là đệ tử
ta, nay lại đến cúng dường ta”. Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói đều rất vui mừng.
PHẨM MƯỜI
MỘT
CÕI NƯỚC NGHIÊM
TỊNH
Này A Nan! Cõi Cực Lạc kia có vô lượng công đức đầy đủ
trang nghiêm, tuyệt không có danh từ khổ nạn, ác thú ma não, cũng không có bốn
mùa nóng lạnh sáng tối, không có sông biển lớn nhỏ, gò nổng hầm hố, gai gốc đá
sỏi, núi Thiết vi, núi Tu di, đất đá núi non, chỉ là tự nhiên bằng bảy báu.
Vàng ròng làm đất rộng rãi bằng phẳng không có hạn lượng, kỳ diệu tú lệ, thanh
tịnh trang nghiêm, thù thắng hơn tất cả thế giới khắp mười phương.
Tôn giả A Nan nghe rồi thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
cõi đó không có núi Tu di thì Tứ Thiên Vương và Đao Lợi Thiên nương tựa vào
đâu?”
Này A Nan! Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất cho đến chư Thiên cõi
Sắc và Vô sắc nương vào đâu?
Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do nghiệp lực tạo
nên không thể nghĩ bàn được”.
Đức Phật hỏi A Nan: “Bất tư nghì nghiệp ông có thể biết
chăng?”
Quả báo thân ông bất khả tư nghì, nghiệp báo chúng sanh
cũng bất khả tư nghì, căn lành của chúng sanh bất khả tư nghì, Thánh lực chư
Phật, thế giới chư Phật cũng bất khả tư nghì, đất nước chúng sanh, công đức
thiện lực, trú hành nghiệp địa và thần lực chư Phật cũng đều như vậy cả”.
Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nghiệp nhân và quả
báo không thể nghĩ bàn được. Đối với pháp này thật con không hoài nghi, nhưng
vì muốn phá trừ sự nghi ngờ của chúng sanh đời sau nên thưa hỏi lời này”.
PHẨM MƯỜI
HAI
ÁNH SÁNG
CHIẾU KHẮP
Này A Nan! Oai thần và quang minh của Phật A Di Đà tối tôn
đệ nhất, quang minh của chư Phật khác chẳng sánh kịp. Quang minh ấy chiếu khắp
hằng sa cõi Phật ở Phương Đông, Tây, Nam , Bắc, trên dưới và bốn phương phụ
cũng lại như vậy. Hào quang trên đảnh chiếu xa một hai ba bốn do tuần, hoặc
trăm ngàn vạn ức do tuần. Hào quang các đức Phật khác hoặc chiếu đến một hai
cõi Phật, hoặc trăm ngàn cõi Phật, chỉ có hào quang đức Phật A Di Đà chiếu khắp
vô lượng vô số vô biên cõi Phật. Hào quang chư Phật chiếu ra có xa có gần vì
bổn nguyện công đức đời trước cầu đạo có lớn nhỏ không đồng, nên khi thành Phật
tự có hạn lượng.
Quang minh đức Phật A Di Đà sáng chói gấp bội trăm ngàn
vạn lần ánh sáng nhựt nguyệt, tôn quý trong các ánh sáng, nên Phật Vô Lượng Thọ
cũng hiệu là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật
Vô Đẳng Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Thường Chiếu Quang, Phật Thanh Tịnh
Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Giải Thoát Quang, Phật An Ổn Quang, Phật Siêu
Nhựt Nguyệt Quang, Phật Bất Tư Nghì Quang.
Quang minh ấy chiếu khắp mười phương thế giới, chúng sanh
nào gặp được quang minh ấy thì cấu uế tiêu diệt, điều lành phát sanh, thân ý
hòa dịu. Nếu ở tam đồ chịu khổ cùng cực thấy được quang minh này liền được dừng
khổ, mạng chung được giải thoát. Chúng sanh nào nghe được oai thần công đức
quang minh này ngày đêm khen nói chí tâm không nghỉ, tùy theo ý nguyện được
sanh về Cực Lạc.
PHẨM MƯỜI
BA
THỌ MẠNG
ĐẠI CHÚNG VÔ LƯỢNG
Này A Nan ! Đức Phật Vô Lượng Thọ mạng sống trường cửu
không thể tính được. Lại có vô số chúng Thanh văn thần trí thông đạt, năng lực
tự tại có thể nắm tất cả thế giới trong bàn tay. Trong hàng đệ tử ta, đại Mục
Kiền Liên có thần thông bậc nhất, trong một ngày đêm biết hết số lượng chúng
sanh của tất cả tinh cầu trong đại thiên thế giới.Giả sử chúng sanh trong mười
phương tất cả đều chứng quả Duyên giác, mỗi mỗi Duyên giác thọ vạn ức năm, có
thần thông như Mục Kiền Liên, đem hết trí lực suốt đời cũng không tính đếm
được, ngàn vạn phần cũng không bằng một số phần Thanh văn trong Phật hội kia.
Ví như biển lớn sâu rộng vô biên, nếu lấy một sợi tóc chẻ
làm trăm phần, tán ra thành bụi, rồi lấy một hột bụi ấy thấm một giọt nước
biển, nước nơi bụi tóc ấy so với biển cả chẳng lấy gì nhiều. Này A Nan! Các vị
Mục Kiền Liên thảy còn biết được số lượng, còn nước nơi bụi tóc so với biển cả
không thể tính được. Thọ mạng của Phật và thọ lượng chúng Bồ Tát, Thanh văn,
Thiên, Nhơn ở cõi ấy cũng như vậy, không thể lấy toán số thí dụ mà biết
được.
PHẨM MƯỜI
BỐN
CÂY BÁU
KHẮP NƯỚC
Cõi nước Cực Lạc có nhiều cây báu, có cây thuần bằng vàng,
hoặc thuần bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não, hoặc do một thứ
báu mà thành, hoặc do hai ba cho đến bảy báu xen nhau hiệp thành. Gốc thân cành
do báu này thành, hoa lá quả do báu khác thành. Có cây gốc bằng vàng, thân bằng
bạc, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã
não làm quả. Lại có các cây do bảy báu xen lẫn nhau làm gốc thân cành lá hoa
quả. Mỗi báu có hàng hàng khác nhau, hàng hàng thẳng nhau, thân thân xây nhau,
cành lá hướng nhau, hoa quả xứng nhau, màu sắc rực rỡ tươi đẹp không thể tả
xiết. Khi gió lay động phát ra âm thanh vi diệu. Các hàng cây báu ấy cùng khắp
trong cõi nước.
PHẨM MƯỜI
LĂM
BỒ ĐỀ ĐẠO
TRÀNG
Cây Bồ đề nơi đạo tràng cao bốn mươi vạn dặm, chu vi rộng
năm ngàn do tuần, cành lá bốn phía hai mươi vạn dặm, do các báu tự nhiên hiệp
thành, hoa quả sum sê chói sáng cùng khắp, lại có các ngọc ma ni hồng lục xanh
trắng, và các báu quý nhất kết thành chuỗi trang hoàng các cột báu. Vàng ngọc
chuông khánh treo khắp nơi. Lưới võng trân diệu trăm ngàn vạn sắc giăng mắc
trên không. Vô lượng tia sáng phản chiếu lẫn nhau rất vi diệu, tất cả trang
nghiêm tùy ý hiện nên. Gió nhẹ thổi đến lay động cành lá phát ra vô lượng âm
thanh diệu pháp, vang khắp các cõi Phật, âm thanh du dương hòa nhã, tối thắng
bậc nhất hơn các âm thanh ở mười phương thế giới.
Nếu chúng sanh nào thấy được cây Bồ đề, nghe tiếng, ngửi
mùi, nếm trái, chạm được ánh sáng, nghĩ đến công đức của cây thì sáu căn thanh
tịnh không có não loạn, trụ vào bất thối chuyển cho đến khi thành Phật. Nếu
thấy được cây ấy thì được ba nhẫn: Một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn,
ba là vô sanh pháp nhẫn.
Này A Nan ! Hoa quả cây cối và các chúng sanh cõi Phật ấy
làm các Phật sự như vậy, là do sức oai thần, bản nguyện đầy đủ kiên cố cứu cánh
của Phật Vô Lượng Thọ vậy.
PHẨM MƯỜI
SÁU
NHÀ CỬA
LẦU GÁC
Giảng đường, tịnh xá, lầu quán, lan can nơi cõi Phật Vô
Lượng Thọ cũng do bảy báu tự nhiên hóa thành. Lại có bạch châu ma ni nghiêm
sức, sáng chói không bì được. Cung điện của Bồ Tát ở cũng lại như vậy. Nơi đó
có chỗ giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, đi kinh hành trên đất. Tư
đạo và tọa thiền trên không trung, cũng có chỗ giảng tụng thọ thính kinh hành.
Những vị tư đạo và tọa thiền là bậc đã chứng Tu đà hoàn,
Tư đà hàm, A na hàm, hoặc A la hán. Vị chưa chứng A duy việt trí thì chứng A
duy việt trí. Các vị ấy tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo đầy đủ pháp hỷ.
PHẨM MƯỜI
BẢY
SUỐI AO
CÔNG ĐỨC
Hai bên giảng đường có ao suối chảy quanh, ngang dọc sâu
cạn bằng nhau, hoặc mười hai mươi hoặc trăm ngàn do tuần, phẳng lặng thơm sạch,
nước đủ tám công đức. Trên bờ có vô số cây chiên đàn hương, cây trái cát tường,
hoa quả thơm tho, chiếu sáng rực rỡ. Lá dày che khắp trên ao, tỏa ra các mùi
thơm, hương thơm thoảng trong gió theo nước bay xa, thế gian không ví được. Các
ao bằng bảy báu, đáy bằng cát vàng, các hoa sen ưu bát la, bát đàm ma, câu vật
đầu, phân đà lợi, nhiều màu rực rỡ khắp trên mặt nước. Chúng sanh muốn tắm, nếu
muốn nước đến chân, đến gối, đến lưng, đến cổ hoặc muốn rưới khắp thân, muốn
lạnh, muốn ấm, chảy mạnh hay từ từ, nhất nhất theo ý muốn, giúp phát giác tánh,
phá mê khai ngộ, sạch sẽ yên tịnh.
Cát báu dưới đáy phản chiếu khắp nơi, sóng gợn lăn tăn
phát ra vô lượng âm thanh vi diệu, nào tiếng Tam Bảo, tiếng Ba la mật, tiếng
chỉ tức tịch tịnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực vô úy, tiếng vô tánh
vô tác vô ngã, tiếng đại từ bi hỷ xả, tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị. Khi nghe các
âm thanh như vậy tâm liền thanh tịnh không còn phân biệt, chánh trực bình đẳng,
thành thục căn lành. Ý muốn nghe pháp nào chỉ có pháp đó phát ra, nếu không
muốn nghe nữa liền im lặng, vĩnh viễn không thối tâm Bồ Đề. Những người trong
mười phương thế giới được vãng sanh đều hóa sanh từ trong hoa sen ở ao thất
bảo, được thân pháp tánh, thể chất bất sanh bất diệt, không còn nghe tên khổ
não khổ nạn của tam đồ. Giả dụ còn không có, huống là có khổ. Chỉ có tiếng vui
thích tự nhiên, do vậy nước đó gọi là Cực Lạc.
PHẨM MƯỜI
TÁM
HIẾM CÓ,
SIÊU VƯỢT THẾ GIAN
Dung sắc chúng sanh ở nước Cực Lạc lộng lẫy hơn hẳn thế
gian, đồng một hình thể không có tướng sai biệt; chỉ vì thuận theo lề lối các
phương khác nên có tên Thiên, Nhơn.
Này A Nan! Ví như ở thế gian kẻ nghèo khổ ăn xin, đứng bên
đế vương, diện mạo hình trạng há có thể sánh bằng không? Đế vương nếu so với
Chuyển luân Thánh vương thì thô bỉ xấu xí như kẻ ăn xin. Chuyển luân Thánh
vương oai tướng bậc nhất, nếu so với vua cung trời Đao Lợi lại càng xấu tệ.
Trời Đế Thích so với cõi trời thứ sáu thua xa trăm ngàn lần. Cõi trời thứ sáu
tuy dung mạo xinh đẹp ngàn vạn lần, làm sao sánh bằng dung sắc của Bồ Tát Thanh
văn ở cõi Cực Lạc được.
Đến như cung điện, y phục ẩm thực như là những vật ở cung
trời Tha hóa tự tại. Còn như oai đức phẩm vị thần thông biến hóa của họ thì gấp
trăm ngàn vạn ức lần hơn tất cả cõi nhơn thiên, không thể tính nổi được.
A Nan nên biết, cõi nước Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ có
công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn như thế.
PHẨM MƯỜI
CHÍN
THỌ DỤNG
ĐẦY ĐỦ
Lại nữa, chúng sanh ở thế giới Cực Lạc, hoặc đã sanh, hoặc
đang sanh, hoặc sẽ sanh đều có sắc thân xinh đẹp như vầy: hình dung tướng mạo
đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, thọ dụng
phong túc, cung điện, phục sức, hương hoa, phan cái tất cả đều trang nghiêm,
các sự cần dùng đều theo ý muốn. Khi muốn ăn, chén bát bằng bảy báu tự nhiên
hiện ra, trăm thứ thức ăn tự nhiên sung mãn, tuy có đồ ăn nhưng không phải ăn,
chỉ thấy sắc ngửi hương, ăn bằng ý tưởng. Sắc lực tăng trưởng, không có đại
tiểu tiện, thân tâm nhẹ nhàng, không tham luyến hương vị, dùng rồi liền biến
mất, đến giờ ăn lại hiện ra. Lại có nhiều y phục báu đẹp, giải mũ áo bằng anh
lạc trăm ngàn màu sắc sáng chói vô lượng, tất cả tự nhiên mặc vào thân. Nhà cửa
xứng với hình sắc. Lưới báu giăng trên không, linh báu treo khắp, đẹp đẽ lạ
lùng, bóng loáng sáng ngời hết sức tráng lệ.
Lầu các lan can, mái hiên điện đường, rộng hẹp vuông tròn,
hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc giữa không trung, hoặc trên đất bằng, thanh tịnh yên ổn
vi diệu an vui, tùy ý hiện đến đầy đủ.
PHẨM HAI
MƯƠI
GIÓ ĐỨC
MƯA HOA
Cõi nước đức Phật đó, đến giờ ăn gió thoảng nhẹ tự nhiên
làm lay động lưới giăng và các cây báu phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói pháp
khổ, không, vô thường, vô ngã, các Ba la mật, lưu bố vạn thứ hương đức, ai nghe
được rồi phiền não tập khí tự nhiên không khởi. Gió chạm vào mình an hòa dễ
chịu, như vị Tỳ kheo chứng được diệt tận định.
Lại thổi bảy hàng cây báu, thổi hoa tụ lại từng loại màu
sắc trải khắp mặt đất, thứ lớp theo sắc không có tạp loạn, êm dịu sáng sạch như
đâu la miên, chân đi lên lún sâu bốn lóng tay, khi dở chân lên lại bằng phẳng
như cũ. Qua khỏi giờ ăn hoa ấy tự mất, mặt đất sạch sẽ, lại mưa hoa mới, tùy
theo thời tiết rơi cùng khắp như trước không khác, như vậy sáu lần mỗi ngày
đêm.
PHẨM HAI
MƯƠI MỐT
SEN BÁU
PHẬT QUANG
Lại có nhiều hoa sen báu cùng khắp cả nước, mỗi mỗi hoa
báu có trăm ngàn ức cánh. Ánh sáng mỗi hoa có nhiều màu sắc, hoa xanh thì ánh
sáng xanh, hoa trắng ánh sáng trắng, vàng đỏ tía huyền, màu sắc ánh sáng cũng
lại như vậy. Lại có vô lượng diệu bảo, trăm ngàn ma ni lấp lánh kỳ lạ, sáng
chiếu như nhật nguyệt. Hoa sen to lớn hoặc nửa do tuần, hoặc một hai ba bốn cho
đến trăm ngàn do tuần. Trong mỗi hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng.
Trong mỗi ánh sáng có ba mươi sáu trăm ngàn đức Phật sắc thân tử kim, tướng tốt
thù đặc. Mỗi mỗi đức Phật lại phóng ra trăm ngàn hào quang chiếu khắp mười
phương nói pháp vi diệu. Chư Phật ấy muốn đưa vô lượng chúng sanh đến Phật đạo.
PHẨM HAI
MƯƠI HAI
QUYẾT
CHỨNG CỰC QUẢ
Lại này A Nan! Cõi nước đức Phật đó không có cảnh tối tăm
đèn đuốc nhật nguyệt tinh tú ngày đêm, cũng không có tên năm tháng kiếp số, lại
không có sự tham đắm nhà cửa, mọi nơi không có danh hiệu tiêu thức, cũng không
có nhà ở riêng biệt, chỉ có sự hưởng thọ thanh tịnh an lạc tối thượng. Nếu có
trai lành gái tín nào hoặc đã sanh hoặc sẽ sanh đều an trụ nơi chánh định,
quyết sẽ chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tại sao vậy?
Nếu có tà định hay bất định thì không biết rõ đạo lý nhân
quả để sanh về Cực Lạc được.
PHẨM HAI
MƯƠI BA
MƯỜI
PHƯƠNG CHƯ PHẬT TÁN THÁN
Lại nữa A Nan, hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, trong
mỗi thế giới có hằng sa đức Phật xuất tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang
minh nói lời thành thật, khen ngợi công đức bất khả tư nghì của đức Phật Vô
Lượng Thọ. Hằng sa thế giới chư Phật ở chín phương khác, cũng đồng xưng tán như
thế. Tại sao vậy?
Vì muốn chúng sanh ở các phương khác nghe danh hiệu đức
Phật Vô Lượng Thọ, phát tâm thanh tịnh nhớ nghĩ thọ trì, quy y cúng dường cho
đến phát một niệm tịnh tín, nếu có căn lành nào chí tâm hồi hướng, nguyện sanh
về cõi Cực Lạc ấy, tùy nguyện vãng sanh, được Bất thối chuyển cho đến quả vị Vô
thượng chánh đẳng Bồ đề.
PHẨM HAI
MƯƠI BỐN
BA BẬC
VÃNG SANH
Này A Nan ! Chư thiên, nhân dân ở mười phương thế giới chí
tâm nguyện sanh về cõi ấy có ba hạng:
Bậc thượng phẩm là những người xuất gia, lìa tham dục làm
sa môn, phát tâm Bồ đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, làm các công đức, nguyện
sanh về cõi đó. Những chúng sanh này khi mạng chung, đức Phật A Di Đà cùng
Thánh chúng hiện đến trước mặt, liền theo đức Phật sanh về cõi đó, tự nhiên hóa
sanh trong hoa sen bảy báu, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại.
Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn hiện đời thấy Phật A Di
Đà, phải phát tâm Vô thượng Bồ đề, phải luôn nhớ nghĩ cõi nước Cực Lạc, nhóm
chứa được căn lành nào nên đem hồi hướng. Do thấy được Phật, nên khi sanh về
nước đó được bậc Bất thối chuyển cho đến quả Vô thượng Bồ Đề.
Hạng trung là những người tuy không làm sa môn, nhưng làm
nhiều công đức, phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà. Tuy đã
làm nhiều công đức, giữ gìn trai giới, xây dựng tháp tượng, cúng dường, treo
phan đốt đèn dâng cúng hoa hương, tất cả đều phải hồi hướng nguyện sanh về Cực
Lạc. Khi mạng chung hóa thân đức Phật A Di Đà hiện ra đầy đủ tướng tốt quang
minh như chính đức Phật cùng với đại chúng vây quanh hiện trước người đó, nhiếp
thọ tiếp dẫn, liền theo hóa Phật sanh về cõi Cực Lạc, ở bậc Bất thối chuyển Vô
thượng Bồ Đề, công đức trí huệ kế bậc thượng phẫm.
Hạng hạ phẩm là những người giả sử không hay làm các công
đức, mà đã phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, vui mừng tin
sâu không chút nghi ngờ, hết lòng nguyện sanh về cõi Cực Lạc, người này mạng
chung mộng thấy đức Phật cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kế bậc trung
Nếu có chúng sanh theo pháp đại thừa, đem tâm thanh tịnh,
hướng về đức Vô Lượng Thọ, niệm đến mười niệm, nguyện sanh về Cực Lạc, nghe
pháp rộng sâu hiểu rốt ráo, cho đến được một niệm thanh tịnh, phát một niệm nhớ
nghĩ đến đức Phật đó, người này mạng chung thấy Phật A Di Đà như trong chiêm
bao, nhứt định sanh về nước Cực Lạc, được Bất thối chuyển Vô thượng Bồ Đề.
Lại này A Nan! Nếu có trai lành gái tín nào nghe kinh này,
thọ trì đọc tụng biên chép cúng dường, ngày đêm liên tục cầu sanh về cõi Cực
Lạc, phát tâm Bồ Đề, giữ các giới cấm bền vững không phạm, lợi ích hữu tình,
làm được chút điều lành gì đều ban bố cho họ khiến được an vui, hằng nhớ nghĩ
đến đức Phật A Di Đà và cõi nước Cực Lạc ở phương Tây, người ấy khi mạng chung
có sắc tướng trang nghiêm như Phật, sanh về cõi báu mau được nghe pháp, vĩnh
viễn không thối chuyển.
PHẨM HAI
MƯƠI LĂM
CHÁNH NHÂN
VÃNG SANH
Lại nữa A Nan! Nếu có chúng sanh muốn sanh về nước kia,
tuy không siêng năng thiền định, nhưng hết lòng trì kinh giữ giới, chuyên làm
điều lành, nghĩa là không giết hại sanh vật, không trộm cắp, không dâm dục,
không nói dối, không thêu dệt, không nói lời hung dữ, không nói đâm thọc, không
tham lam, không giận hờn, không si mê, ngày đêm nhớ nghĩ đức Phật A Di Đà ở thế
giới Cực Lạc có nhiều công đức, nhiều sự trang nghiêm, chí tâm quy y đảnh lễ
cúng dường; người ấy khi mạng chung không kinh sợ, tâm không rối loạn, liền
được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Nếu người quá nhiều việc không thể xuất gia, không rảnh
tu trai giới, nhứt tâm thanh tịnh, lúc rảnh rỗi yên tịnh thân tâm , tuyệt dục
bỏ lo lắng, từ tâm tinh tấn, không hờn giận, ganh ghét, không tham tiếc keo
kiệt, không ân hận hồ nghi, hiếu thuận, trung tín, tin sâu lời Phật dạy, tin
làm lành đặng phước, phụng trì các pháp như vậy không được thiếu mất, suy nghĩ
chính chắn, muốn được độ thoát, ngày đêm luôn cầu nguyện được vãng sanh về cõi
thanh tịnh của Phật A Di Đà, trong mười ngày mười đêm, cho đến một ngày một đêm
không ngừng nghỉ, khi mạng chung được vãng sanh về cõi nước kia, tu đạo Bồ Tát.
Những người vãng sanh đều được Bất thối chuyển, thân sắc đủ ba mươi hai tướng
tốt, sẽ được thành Phật. Nếu muốn thành Phật ở một phương cõi nào khác, theo
tâm ước nguyện tùy sự chuyên cần, sáng tối cầu đạo không ngừng nghỉ, sẽ được
kết quả không mất chí nguyện.
Này A Nan! Do điều lợi này nên vô lượng vô số bất khả tư
nghì, vô biên thế giới chư Phật Như Lai đều xưng dương tán thán công đức Phật
Vô Lượng Thọ.
PHẨM HAI
MƯƠI SÁU
LỄ CÚNG
NGHE PHÁP
Lại nữa A Nan! Chúng Bồ Tát ở mười phương thế giới muốn
đảnh lễ Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc, đem hương hoa, tràng phan bảo cái
đến chỗ Phật cung kính cúng dường, nghe giảng kinh pháp và xướng danh ca ngợi
sự tuyên dương hóa đạo công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
Đông phương các cõi Phật
Số nhiều như hằng sa,
Hằng sa chúng Bồ Tát,
Đến lễ vô Lượng Thọ.
Nam Tây Bắc bốn phương
Thượng hạ cũng như vậy,
Thảy chí tâm tôn trọng
Dâng cúng các trân diệu
Phát những lời hòa nhã,
Ca ngợi dấng Tối Thắng,
Cứu cánh thần thông huệ
Chứng nhập sâu pháp môn.
Nghe được danh hiệu Phật,
An lành được lợi lớn.
Trong các sự cúng dường
Siêng tu không biếng trễ,
Quán cõi thù thắng kia
Vi diệu khó nghĩ bàn
Công đức rất trang nghiêm
Cõi Phật khác khó bằng.
Nhơn phát tâm vô thượng
Nguyện mau thành Bồ Đề.
Bấy giờ Vô Lượng Thọ
Kim dung hiện mỉm cười
Hào quang từ miệng ra
Chiếu khắp mười phương cõi,
Rồi xoay chiếu thân Ngài
Ba vòng vào đảnh Phật.
Bồ Tát thấy quang này
Liền chứng Bất thối chuyển
Tất cả chúng trong hội
Đều vui mừng hớn hở.
Lời Phật như sấm vang
Tiếng bát âm vi diệu
Bồ Tát mười phương đến
Di Đà thấu rõ tâm
Chí cầu cõi nghiêm tịnh
Thọ ký sẽ thành Phật,
Biết rõ tất cả pháp
Như mộng huyễn tiếng vang,
Trọn đầy các diệu nguyện
Quyết thành như Cực Lạc.
Biết cõi như ảnh tượng,
Phát tâm thệ nguyện lớn,
Rốt ráo hạnh Bồ tát,
Đầy đủ các công đức,
Thành đạt đạo Bồ Đề,
Thọ ký sẽ thành Phật.
Thông đạt các pháp tánh,
Hết thảy không, vô ngã,
Chuyên cầu tịnh cõi Phật
Quyết thành như Cực Lạc.
Nghe pháp vâng phụng hành,
Đạt đến chốn thanh tịnh,
Tất được Vô Lượng Tôn
Thọ ký thành chánh giác.
Thù thắng vô biên cõi,
Do nguyện lực Di Đà.
Nghe danh cầu vãnh sanh
Đến bậc Bất thối chuyển,
Lập thệ nguyện Bồ Tát,
Nguyện cõi này không khác,
Khắp độ hết thảy chúng
Đều phát tâm Bồ Đề,
Bỏ thân luân hồi rồi
Đều được lên bờ giác,
Phụng sự vạn ức Phật,
Giáo hóa khắp các cõi.
Kính vui mừng trở về
Cõi An Dưỡng Cực Lạc.
PHẨM HAI
MƯƠI BẢY
CA THÁN
PHẬT ĐỨC
Này A Nan: Bồ Tát ở cõi Cực Lạc nhờ oai thần của Phật
trong khoảng bữa ăn đi lại vô biên cõi Phật khắp mười phương để cúng dường.
Những hoa hương, tràng phan, đồ cúng dường, khởi tâm liền hiện đủ các thứ trân
bảo thù thắng trên tay, thế gian không thể có để cúng dường chư Phật và chúng
Bồ Tát. Nếu muốn rải hoa, liền trên không trung các hoa hiệp lại thành một lọng
hoa tròn lớn có trăm ngàn sắc sáng, mỗi sắc có hương thơm khác nhau tỏa ngát
muôn phương. Đài hoa nhỏ đủ mười do tuần, cứ vậy lớn dần trùm khắp ba ngàn thế
giới, theo đó trước sau thứ lớp ẩn hiện, nếu không có ai cúng hoa mới thì hoa
cũ không rơi xuống, lơ lửng trên không vang tiếng nhạc vi diệu tán thán Phật
đức. Chốc lát trở về bổn quốc tụ họp tại giảng đường thất bảo nghe Phật Vô
Lượng Thọ rộng giảng diệu pháp, tâm ý thông triệt vui mừng đại ngộ.
Lại có gió thơm thổi hàng cây báu phát âm thanh vi diệu,
vô lượng hương thơm theo gió bay khắp bốn phương theo như ý nguyện cúng dường
không dứt. Chư Thiên đem trăm ngàn hoa hương, vạn thứ kỹ nhạc đến cúng dường
Phật và chúng Bồ tát Thanh Văn. Chư Thiên trước sau qua lại, hớn hở vui mừng,
là do sức oai thần bổn nguyện của Phật Vô Lượng Thọ, và đã từng cúng dường các
đức Như Lai, có căn lành tương tục không giảm thiếu, khéo tu tập, khéo nhiếp
thủ, khéo thành tựu vậy.
PHẨM HAI
MƯƠI TÁM
ĐẠI SĨ
THẦN QUANG
Này A Nan: Chúng Bồ Tát tại cõi Phật đó nghe thấy hết khắp
cả không gian và thời gian, biết hết tâm ý thiện ác, lời nguyện cầu khi nào
được thoát ly lục đạo, được khai ngộ, được vãng sanh của chư Thiên, nhân loại
cho đến các loại bò bay xuẩn động.
Chúng Thanh văn ở cõi Phật kia có thân sáng tám thước, ánh
sáng của Bồ Tát chiếu xa một trăm do tuần, có hai vị Bồ Tát tôn qúy bậc nhất,
oai thần và ánh sáng chiếu khắp ba ngàn cả ngàn thế giới.
Tôn giả A Nan thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Hai vị Bồ Tát
ấy danh hiệu gì?”
Phật nói: “Một vị tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là
Đại Thế Chí, hai vị Bồ Tát này khi còn ở cõi Ta bà tu hạnh Bồ Tát được
sanh về cõi Cực Lạc thường ở hai bên tả hữu Phật A Di Đà. Muốn đến mười phương
vô lượng cõi Phật liền đến, hiện ở thế giới này làm nhiều sự lợi lạc. Những
trai lành gái tín ở thế gian nếu có tai nạn ngặt nghèo hoảng sợ, chỉ cần hướng
tâm về Bồ Tát Quán Thế Âm thì không có nạn gì mà không được cứu thoát.
PHẨM HAI
MƯƠI CHÍN
NGUYỆN LỰC
HOẰNG SÂU
Lại này A Nan! Tất cả Bồ Tát ở cõi Phật ấy hoặc hiện tại
hay vị lai đều rất rốt ráo được “Nhứt Sanh Bổ Xứ”, chỉ trừ phát đại nguyện vào
trong sanh tử để độ quần sanh, làm sư tử hống, mặc áo giáp làm những công đức
trang nghiêm cho thệ nguyện của mình. Tuy sanh trong đời ác ngũ trược, thị hiện
đồng loại cho đến thành Phật , không thọ ác thú, sanh ở nơi nào đều biết rõ túc
mạng.
Ý của đức Phật Vô Lượng Thọ muốn độ thoát tất cả chúng
sanh khắp mười phương thế giới sanh về cõi Cực Lạc đạt đến Niết bàn. Đã làm Bồ
Tát thì quyết chắc thành Phật. Đã thành Phật rồi trở lại giáo hóa độ thoát,
triển chuyển không nghỉ. Thanh văn, Bồ Tát, chúng sanh sanh về cõi Phật đó
đạt đến Niết bàn, chứng quả Phật số nhiều không thể tính được. Trong cõi Phật
đó chỉ có một pháp không có tăng thêm. Vì sao vậy?
Ví như biển lớn là vua, các dòng nước chảy vào biển
cả, nước trong biển ấy cũng không thêm bớt. Cõi Phật A Di Đà vĩnh viễn rộng lớn
sáng đẹp an lạc hơn cả vô số cõi Phật trong mười phương. Ấy là do sự phát
nguyện cầu đạo, tích công lũy đức khi còn làm Bồ Tát. Ân đức bố thí của Phật Vô
Lượng Thọ khắp mười phương không cùng cực, sâu rộng không lường, không thể nói
hết được.
PHẨM BA
MƯƠI
BỒ TÁT TU
TRÌ
Lại này A Nan! Thiền định, trí tuệ, thần thông, oai đức
các vị Bồ Tát trong cõi Phật đó đều viên mãn. Mật tạng chư Phật rất sâu xa rốt
ráo sáng tỏ, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, thâm nhập chánh huệ ,
không còn dư tập, thật hành theo lời Phật dạy, hành thất giác chi, tu ngũ nhãn
rõ biết chơn đế đạt cả tục đế. Nhục nhãn thì so đo, thiên nhãn thấy thông suốt,
pháp nhãn thấy biết thanh tịnh, huệ nhãn biết rõ chơn không, Phật nhãn đầy đủ
công năng, biết rõ pháp tánh, biện tài tổng trì tự tại vô ngại, biết rõ vô biên
phương tiện ở thế gian, nói đúng chơn đế, hiểu sâu nghĩa lý, cứu độ các hữu
tình, diễn nói chánh pháp, vô tướng vô vi, vô phược vô thoát, vô phân biệt, xa
lìa điên đảo, đối vật thọ dụng không có tư tưởng chiếm giữ, đi khắp cõi Phật
không ưa không chán, không mong cầu cũng không chấp trước, cũng không có tưởng
oán hận đây kia. Vì sao vậy?
Các vị Bồ Tát đối với chúng sanh có tâm đại từ bi đại lợi
ích, xa lìa chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng chơn thật trí thấu rõ
các pháp là như như, biết rõ phương tiện giảng giải về tứ đế, không thích học
thuyết thế gian, thích luận chánh pháp, biết tất cả pháp đều không tịch, tập khí
phiền não chướng và sở tri chướng đều dứt sạch, ở trong ba cõi bình đẳng siêng
tu cứu cánh nhứt thừa đến bờ giải thoát, quyết dứt lưới nghi chứng vô sở đắc,
dùng phương tiện trí tăng trưởng hiểu biết, an trụ thần thông được nhứt thừa
Phật quả, không nhờ vào người khác.
PHẨM BA
MƯƠI MỐT
CÔNG ĐỨC
CHƠN THẬT
Trí huệ uyên thâm như biển cả, Bồ Đề cao rộng như Tu di,
thân sáng chói như nhật nguyệt, tâm trong trắng như tuyết sơn, nhẫn nhục
như đất bằng, bình đẳng tất cả, thanh tịnh như nước rửa sạch trần cấu, hừng hực
như lửa đốt hết phiền não, không chấp trước như gió không gì chướng ngại, pháp
âm như sấm vang thức tỉnh kẻ chưa giác, mưa pháp cam lồ thấm nhuần chúng sanh,
thênh thang như hư không bao dung tất cả, thanh tịnh như hoa sen lìa xa ô
nhiễm, như cây ni câu che khắp rộng rãi, như chùy kim cang phá tan tà chấp, như
núi Thiết vi tà ma ngoại đạo không lay chuyển được, tâm chánh trực khéo giỏi
quyết định, luận pháp không chán, cầu pháp không mỏi mệt, giới như lưu ly trong
ngoài sáng sạch, phàm nói điều gì đều làm cho người vui tín phục, đánh trống
pháp, lập pháp tràng, sáng huệ nhựt, phá si ám, thuần tịnh ôn hòa, tịch định an
nhiên, làm đại đạo sư, điều phục tự tha, dắt dẫn quần sanh, xả bỏ ái trước, xa
hẳn ba độc, thung dung tự tại, nhân duyên nguyện lực phát sanh thiện căn, phá
dẹp ma quân, tôn trọng cúng dường chư Phật, đèn sáng cho thế gian, ruộng phước
tối thắng, an lành tột bậc, kham thọ cúng dường, hiển hách hoan hỷ, mạnh bạo
không sợ sệt, thân tướng đẹp đẽ, công đức biện tài đầy đủ trang nghiêm không ai
sánh được. Thường được chư Phật khen ngợi. Bồ Tát rốt ráo các Ba La mật, an trụ
vào Tam ma địa bất sanh bất diệt, giáo hóa khắp nơi khác với hàng nhị thừa.
A Nan! Ta nay lược nói chơn thật công đức các hàng Bồ Tát
ở thế giới Cực Lạc kia tất cả đều như vậy. Nếu nói rộng ra trải trăm ngàn vạn
kiếp cũng không hết được.
PHẨM BA
MƯƠI HAI
THỌ LẠC
KHÔNG CÙNG TẬN
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát và thiên, nhơn: “Công đức trí huệ
của Thanh Văn, Bồ Tát ở cõi đức Phật Vô Lượng Thọ không thể nói hết được. Cõi
nước Cực Lạc kia vi diệu an lạc thanh tịnh như vậy, há còn phương pháp nào hơn
niệm Phật cầu sanh tịnh độ, tự nhiên thành tựu, xuất nhập cúng dường, quán kinh
tu đạo, pháp hỷ vẹn toàn, trí huệ sáng suốt, tâm không thối chuyển, ý không
giải đãi, ngoài hiện an nhàn, trong lại tinh tấn, dung cách trùm cả thái hư,
đạt đến trung đạo, trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, hành động
chánh trực, thân tâm khiết tịnh, không tham nhiễm ái, chí nguyện cương định,
không tăng chẳng giảm, cầu đạo hòa chánh, không bị tà tâm khuynh đảo, tuân lời
Phật dạy quyết không trái phạm , nếu đã quyết tâm thì phải kiên trì không nghĩ
gì khác, không lo nghĩ ưu buồn, an nhiên vô vi, tâm rỗng như hư không không lập
một pháp, bình thản không tham dục, trọn thành thiện nguyện, dốc lòng cầu tiến,
từ bi ai mẫn, lễ nghĩa gồm đủ, sự lý viên dung, đạt đến giải thoát, tự tánh bản
nhiên hoàn toàn thanh tịnh, chí nguyện vô thượng, thân tâm tịch định an lạc.
Hốt nhiên tâm khai đạt lý giác ngộ triệt để, thấy được thật tướng các pháp, bản
thể vũ trụ, quang sắc xen nhau tất cả chỉ là như như, biến chuyển vô cùng. Uất
đơn việt thành thất bảo, nắm rõ vạn vật, sáng sạch hiển lộ tột đẹp vô cùng
không gì sánh được, rõ ràng không trên dưới, thông suốt không ngằn mé. Vậy phải
hết sức siêng năng tinh tấn tu tập quyết chắc được vãng sanh về cõi vô lượng
thanh tịnh Phật A Di Đà, chấm dứt năm thú, đóng kín ác đạo, đạt đạo không khó,
vãng sanh há lại không được sao! Cõi kia không trái lẽ, thuận theo tự nhiên, bỏ
tất cả như hư không, siêng năng niệm Phật cầu sanh quyết đến Cực Lạc, thọ mạng
an lạc không cùng, há lại tham đắm thế sự, toàn là vô thường, sầu khổ cả?
PHẨM BA
MƯƠI BA
KHUYẾN DỤ
SÁCH TẤN
Người đời vì sự tranh đua nên sống trong cảnh thô bạo khổ
cực nhọc thân làm lụng để tự cung cấp. Tôn quí ti tiện, nghèo khổ giàu sang,
lớn nhỏ trai gái phải lao tâm khổ trí, suy nghĩ lo toan. Không nhà lo nhà,
quyến thuộc tài vật, có hoặc không cũng lo, có rồi còn thiếu, muốn sao cho bằng
người. Nên ít muốn vừa đủ. Lại còn lo sợ vô thường, nước lửa trộm cướp, oan gia
trái chủ, lửa thiêu nước chìm, tiêu tan sạch sẽ, tâm ý khư khư không chịu buông
xả, mạng chung hết thở, không ai tránh khỏi, nghèo giàu như nhau, sầu khổ trăm
mối. Thế nên ở đời cha con anh em, vợ chồng thân thuộc nên thương kính nhau,
không nên ghét giận nhau, có không nên thông cảm nhau, không nên tham tiếc, nói
năng hòa nhã đừng chống đối nhau. Hễ có tranh cãi liền sanh giận dữ, thành oán
thù nhiều kiếp về sau, sự việc ở đời đem nhiều khổ lụy, tuy chưa gặp phải, phải
gấp có ý tưởng ngăn trừ. Con người vì ái dục nên phải sống chết qua lại sáu nẻo
tự chịu khổ vui không ai thay thế được, lành dữ biến hóa theo đó đi thọ sanh
không đồng, tụ họp không hạn kỳ. Lúc còn cường tráng sao không nỗ lực tu tập
đợi đến lúc nào?
Người đời, không biện biệt được tốt xấu cát hung họa phước,
thần trí ngu muội, lại theo các giáo điều khác, liên tiếp điên đảo, nguồn gốc
vô thường mê mờ không chịu suy xét, chẳng tin kinh pháp, không biết lo xa, say
mê giận hờn, tham đắm tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ, thật đáng thương thay!
Đời trước ngu muội, không biết đạo đức, không ai chỉ bảo
đâu có lạ gì? Sanh tử luân hồi, thiện ác báo ứng đều chẳng tin tưởng cho là
không có. Tự thử nhìn lại: Nào cha khóc con, con khóc cha, anh em vợ chồng than
khóc lẫn nhau, một đời sanh tử tiễn đưa thương tiếc, buồn thương trói buộc
không sao giải nổi, nghĩ nhớ ân sâu không ngoài tình dục, sao chẳng suy cùng
xét kỹ chuyên tâm hành đạo, khi tuổi già mạng hết không biết làm sao?
Kẻ mê thì nhiều, người ngộ đạo rất ít, phần nhiều ôm lòng
giết hại, ác khí tràn đầy làm điều hư dối, trái ngược trời đất mặc tình tạo
tội, khi mạng sống hết, đọa vào ác đạo không biết ngày ra. Các ngươi phải nghĩ
kỹ, xa lìa điều ác siêng làm việc lành, ái dục vinh hoa không thể giữ mãi, đều
phải ly biệt chẳng có vui gì! Nên phải siêng năng tinh tấn cầu sanh về cõi An
Lạc được trí huệ sáng suốt công đức thù thắng, đừng theo tâm tham dục, cô phụ
kinh giới, uổng phí đời sau.
PHẨM BA
MƯƠI BỐN
TÂM ĐƯỢC
MỞ SÁNG
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lời Thế
Tôn răn dạy rất sâu rất đúng, nhờ ơn đức từ bi giải thoát ưu khổ. Phật là đấng
Pháp vương tôn quí siêu việt trong hàng Thánh, quang minh vô tận trí huệ không
cùng, Đạo sư khắp cả trời người, ngày nay được gặp Phật lại được nghe hồng danh
Vô Lượng Thọ, tâm trí được sáng tỏ rất là vui mừng”.
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Kính Phật là điều đại thiện, niệm
Phật quan trọng hơn, giúp cắt hết lưới nghi, dứt hết ái dục, lấp hết nguồn ác,
đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị chánh đạo, độ người chưa độ. Các
ngươi phải biết chúng sanh mười phương nhiều kiếp đến nay luân chuyển trong năm
đường, sầu khổ không dứt, sanh đã là khổ, già cũng khổ, bệnh càng khổ hơn, chết
rất là đau khổ, hôi thúi bất tịnh không có gì vui, nên quyết cắt đứt, tẩy trừ
tâm xấu, nói năng hành động thành tín trong ngoài hợp nhất, trước tự độ mình,
lại ra độ người, hết lòng cầu nguyện, chứa nhóm căn lành, chỉ cần tinh tấn khó
nhọc một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về cõi Vô Lượng Thọ an vui vô cùng,
vĩnh viễn dứt sạch sanh tử không còn khổ hoạn, thọ mạng ngàn vạn kiếp tự tại tùy
ý. Nên phải tinh tấn cầu đạt, tâm nguyện không được nghi ngờ. Như còn chút nghi
hoặc sẽ sanh về cung điện thất bảo ở biên địa của nước Cực lạc, chịu các tai
ách trải qua năm trăm năm”.
Ngài Di Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin
vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi
ngờ”.
PHẨM BA
MƯƠI LĂM
TRƯỢC THẾ
ÁC KHỔ
Phật bảo Di Lặc: “Các ngươi sanh trong đời này, tâm ý
chánh trực không làm điều ác, đó là có đức hạnh lớn.” Vì sao vậy?
Mười phương thế giới của chư Phật thiện nhiều ác ít rất dễ
khai hóa. Chỉ có thế gian năm ác trược này rất là cực khổ. Ta nay thành Phật ở
đây để giáo hóa quần sanh bỏ năm điều dữ, dứt năm sự thống khổ, lìa năm sự
thiêu đốt, điều phục tâm ý khiến làm năm điều lành, phước đức được thành tựu.
Những gì là năm?
Điều thứ nhất: Các loài chúng sanh ở thế gian thích làm
điều ác, mạnh hiếp yếu, chèn ép nhau, tàn sát tổn hại ăn nuốt lẫn nhau, không
biết làm lành để chịu hậu quả, nên có kẻ cùng khổ, cô độc, câm điếc đui ngọng,
si ác ngông cuồng là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm lành. Những
hạng tôn quí, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao là do biết từ ái
hiếu thuận, tu thiện tích đức từ đời trước.
Khi còn sanh tiền đã làm sai trái, sau khi mạng chung vào
chốn u minh chuyển thọ thân hình sanh vào các nẻo, nên có địa ngục, súc sanh –
ví như lao ngục ở thế gian có cực hình kịch khổ – thần thức tùy tội đã tạo mà
thọ mạng có dài ngắn theo nhau trả báo, tội ác chưa hết lại tiếp tục chịu tội,
xoay vần nhiều kiếp không thôi rất khó giải thoát, khổ thống không thể nói hết
được! Ác đạo tuần hoàn cảm ứng tự nhiên, tuy không báo ứng tức thời, nhưng
thiện ác chung qui vẫn phải chịu quả báo.
Điều thứ hai: Nhân loại thế gian không theo pháp luật,
hoang dâm thái quá mặc tình phóng túng, trên thì không minh, tại vị không
chính, hãm hại oan uổng, tổn hại trung lương, tâm miệng khác biệt, mưu toan
nhiều bề, trong ngoài dối trá, giận dỗi ngu si, muốn lợi về mình, tham lam
không chán, lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét
trước sau, giàu có keo kiệt không chịu bố thí, chất chứa cho đầy, nhọc tâm khổ
thân, đến khi mạng chung không đem được gì, thiện ác họa phước tùy nghiệp thọ
sanh, hoặc sanh vào nơi sung sướng hay vào chốn khổ độc. Thấy người làm lành
lại còn hủy báng không chịu bắt chước, thường nghĩ trộm cắp, rình đoạt của
người, tiêu phá hết rồi lại đi tìm nữa. Chết đọa vào ba đường ác chịu vô lượng
khổ, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, đau khổ vô cùng.
Điều thứ ba: Người đời nương nhau mà sống còn trong trời
đất, thọ mạng chẳng được là bao? Kẻ bất lương tâm không chính đính, ôm lòng tà
ác, luôn nghĩ dâm dục, phiền não tràn hông, thái độ tà ngụy buông lung, hao tổn
tài sản, làm điều phi pháp, ai cầu xin gì cũng không chấp thuận, lại còn tụ bè
kết đảng, hưng binh gây chiến đánh cướp giết hại, chiếm đoạt bức hiếp chu cấp
cho vợ con, no thân hưởng lạc, khiến người chán ghét, lo lắng khổ cực, tạo
nhiều tội ác, chết vào tam đồ chịu vô lượng khổ, qua lại nhiều kiếp, khó được
giải thoát, khổ đau khôn xiết.
Điều thứ tư: Người ta ở đời không chịu tu thiện, nói dối,
nói lời hung dữ, nói đâm thọc, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, hãm hại
người hiền, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, chẳng thành tín với bằng
hữu, tự cao tự đại, cho mình có lý, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người mong
người kính nể, không biết hổ thẹn, ôm lòng kiêu mạn, khó thể giáo hóa. Nhờ chút
phước đức từ đời trước, đời này làm ác phước đức mất hết, thọ mạng hết rồi, các
điều ác bao vây, oán cừu dẫn dắt không sao tránh khỏi, chỉ việc tiến vào vạc
lửa, thân thể tan nát, tâm thần thống khổ, bấy giờ nghĩ lại ăn năn thì đã muộn
rồi!
Điều thứ năm: Người đời phóng túng lười biếng không chịu
làm lành, tu sửa thân tâm; cha mẹ khuyên bảo, ngang trái chống đối như là oan
gia, phụ bạc ân nghĩa không chút báo đền, phóng túng lêu lổng, rượu chè xa hoa,
đần độn bướng bỉnh, chẳng chút lễ nghĩa, không thể can gián, giao tiếp lục thân
quyến thuộc không chút ân tình, không nhớ ơn cha mẹ, không đoái nghĩa thầy trò
bằng hữu, chỉ lo cho tự thân, không được một điều lành, không tin Phật pháp,
không tin sanh tử thiện ác, muốn hại hiền nhân, phá hoại Phật pháp, ngu si mông
muội tự cho thông minh, không biết từ đâu sanh đến, chết sẽ đi về đâu, bất nhơn
bất thuận lại muốn trường thọ. Thương xót khuyên bảo lại không chịu nghe, khô
hơi khản tiếng cũng thành vô ích. Tâm ý cố chấp không chịu thấu hiểu. Mạng
chung cận kề hối tiếc đã không tu thiện, đến khi nhắm mắt ăn năn hối hận sao
còn kịp nữa!
Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa
phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì
từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào
cõi khổ, từ tối vào chỗ tối. Ai hay biết được? Chỉ có đức Phật biết rõ khai thị
chỉ dạy, người tuân hành rất ít, nên sanh tử không thôi, ác đạo không dứt.
Người đời tạo ác như thế, nên tự nhiên có ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay
vần nhiều kiếp không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn không thể
nói được. Do vậy nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn thiêu đốt
thân người.
Nếu tự nhứt tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành
tương xứng, chí tâm làm lành không làm việc ác, thì được độ thoát, đầy đủ phước
đức được trường thọ đến đạo Bồ đề. Đây là năm điều đại thiện.
PHẨM BA
MƯƠI SÁU
BAO LƯỢT
KHUYÊN LƠN
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Những ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu đó chuyển tiếp cho nhau, nếu phạm tội tất phải vào ác đạo, hiện đời sẽ bị
bệnh hoạn tai ương, cầu sống không được cầu chết không xong, để cho người đời
thấy sự chiêu cảm đó, mạng chung đọa vào ba đường ác, thống khổ quá lắm, tự bị
thiêu đốt, cùng kết oán thù tàn hại lẫn nhau.
Tạo một tội nhỏ lần thành to lớn, do tham đắm tài sắc
không chịu bố thí, muốn khoái lạc bản thân không chịu phản tỉnh, si ám thúc dục
tranh lợi về mình, phú quí vinh hoa đương thời vừa ý, không chịu nhẫn nhịn,
không chuyên tu thiện, không bao lâu uy thế theo đó tiêu diệt, nghiệp lực an
bài báo ứng tự nhiên, dù có lo lắng hoảng hốt cũng phải vào ba ác đạo, xưa nay
như vậy. Đau khổ lắm thay!
Các ngươi được giáo pháp của chư Phật chỉ dạy phải suy
nghĩ chín chắn tự ghi nhớ kỹ, trọn đời không được biếng trễ.
Kính Phật trọng hiền, lương thiện từ bi, cầu thoát ba cõi
, dứt sạch gốc sanh tử, lìa hẳn lo sợ thống khổ tam đồ.
Thế nào gọi là hành thiện bậc nhất?
Phải tự tịnh tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải
đoan chánh, thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng, đừng theo thị dục, không
phạm điều ác, ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh
từ tốn, vội vàng hấp tấp không suy xét chính chắn sẽ hư hỏng hối hận về sau,
uổng phí một đời”.
PHẨM BA
MƯƠI BẢY
NHƯ NGHÈO
ĐẶNG CỦA BÁU
Các ngươi đã trồng nhiều căn lành, phải nhẫn nhục tinh
tấn, đừng phạm cấm giới, từ tâm chuyên nhứt, thanh tịnh trai giới, tu một ngày
một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả trăm năm.
Tại sao vậy?
Cõi nước của đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có
một chút ác. Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi
Phật khác.
Tại sao vậy?
Vì cõi nước Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có,
không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là
khổ độc chưa từng ngừng nghỉ.
Ta vì thương các ngươi nên đã hết lòng chỉ dạy trao cho
kinh pháp, vậy phải nhớ giữ tuân hành. Tôn ti nam nữ quyến thuộc bằng hữu chỉ
bảo lẫn nhau, cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu, nếu có
sai phạm phải tự hối cải, bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa, phụng trì kinh
giới, như nghèo được của, sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm, tự nhiên cảm ứng
được như sở nguyện. Khi Phật còn tại thế quốc ấp thôn trang đều được hoá độ,
thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa thuận gió hòa, tai dịch không
khởi, quốc thái dân an, binh đao vô dụng, nhân đức hưng vượng, giữ gìn lễ
nghĩa, nước không trộm cướp, không có oán tặc, mạnh không hiếp yếu, đều được an
lành. Ta thương các ngươi còn hơn cha mẹ thương con. Ta nay làm Phật ở đời này
chỉ rõ điều lành điều dữ, dứt khổ sanh tử, được năm điều thiện, lên chốn an lạc
vô vi.
Khi ta nhập Niết bàn, kinh điển lần lần diệt mất, nhân dân
gian trá, làm nhiều điều ác, ngũ thiêu ngũ thống, về lâu sau càng làm ác nhiều
thêm nữa, các ngươi nên khuyên bảo nhau như lời Phật dạy không được tái phạm”.
Ngài Di Lặc Bồ Tát chấp tay thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Người đời ác khổ như vậy, Phật đều từ bi thương xót độ thoát tất cả. Con xin
nghe lời ân cần dạy bảo của Thế Tôn không dám sai trái”.
PHẨM BA
MƯƠI TÁM
LỄ PHẬT
HIỆN ÁNH SÁNG
Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Nếu ngươi muốn thấy đức Vô
Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng và các Bồ Tát A la hán v.v… ở cõi nước đó, nên đứng
dậy quay mặt về phương Tây hướng mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ xưng niệm: Nam
Mô A Di Đà Phật”.
Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy mặt hướng về
phương Tây, chấp tay đảnh lễ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay nguyện được
thấy đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, cúng dường phụng sự, vun trồng các
căn lành.
Khi vừa đảnh lễ liền thấy đức Phật A Di Đà, dung nhan nguy
nguy, sắc tướng trang nghiêm quang minh rực rỡ, cao lớn vượt trên tất cả thế
giới.
Lại nghe chư Phật Như Lai khắp mười phương thế giới xưng
dương tán thán vô lượng công đức vô ngại vô cùng của đức Phật A Di Đà.
Tôn giả A Nan bạch Phật: “ Bạch đức Thế Tôn! Cõi Phật
thanh tịnh kia rất hiếm có, con nguyện mong được sanh về cõi đó”.
Đức Thế Tôn nói những người được sanh về cõi đó đã từng
thân cận vô lượng đức Phật, nhiều thiện căn phước đức, ngươi muốn sanh về cõi
đó thì phải nhứt tâm quy y mong cầu.
Vừa nói lời ấy xong, trên tay đức Phật A Di Đà liền phóng
ra vô lượng tia sáng chiếu khắp thế giới chư Phật, cõi nước chư Phật thảy đều
hiện rõ như ở trước mắt, do quang minh thanh tịnh thù thắng của đức Phật A Di
Đà, nên ở thế giới này như hắc sơn, tuyết sơn, kim cang, thiết vi các núi lớn
nhỏ… sông suối, rừng cây, cung điện của trời, người, tất cả cảnh giới
đều sáng rõ, như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, cho đến địa ngục,
ngạ quỷ, hang hố, thảy đều sáng rõ, đồng một màu sắc, như thời kiếp thủy tai
nước tràn đầy cả, vạn vật chìm ngập, thăm thẳm mênh mông, chỉ toàn là nước;
quang minh của Phật cũng chiếu khắp như vậy, tất cả quang minh của Thanh văn,
Bồ Tát đều bị lu mờ bởi ánh hào quang sáng chói rực rỡ của đức Phật.
Hàng tứ chúng trong đây, Thiên long, Bát bộ, người và phi
nhơn v.v… đồng thấy các sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc.
Đức Phật A Di Đà ở trên tòa cao, oai đức nguy nguy, tướng
hảo quang minh. Các hàng Thanh văn, Bồ Tát cung kính vây quanh, như núi Tu Di
đứng giữa biển cả. Thân Phật sáng rõ chiếu diệu thanh tịnh bình chánh, không có
tạp uế và hình loại quái dị, chỉ có các thứ báu trang nghiêm, Thánh Hiền chung
ở.
Tôn giả A Nan và các chúng Bồ Tát v.v… đều rất vui mừng
hớn hở đảnh lễ năm vóc sát đất xưng niệm Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà.
Chư Thiên và chúng nhơn cho đến loài bò bay xuẩn động đều thấy hào quang ấy cả.
Những kẻ bệnh khổ được hết bệnh khổ. Những kẻ sầu não được giải thoát, thảy đều
có từ tâm làm lành, vui mừng sung sướng. Những nhạc khí như chuông, khánh, cầm
sắt, không hầu không đánh tự trổi.
Chư Thiên và nhân dân trong các cõi Phật khác đều đem hoa
hương đến giữa hư không rải xuống cúng dường.
Bấy giờ thế giới Cực Lạc ở phương tây cách xa cả trăm ngàn
vô lượng ức cõi nước, nhờ oai lực của Phật mà thấy rõ như ở trước mắt, như được
tịnh thiên nhãn thấy như khoảng tám thước. Đại chúng ở cõi Cực Lạc cũng lại như
vậy, đều thấy đức Thích Ca Như Lai ở thế giới Ta bà này và chúng Tỳ kheo vây
quanh nghe pháp.
PHẨM BA
MƯƠI CHÍN
TỪ THỊ
THUẬT CHỖ THẤY
Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả A Nan và Từ Thị Bồ Tát rằng:
“Các ông có thấy cung điện, lầu các, ao hồ, rừng cây khắp cả vi diệu trang
nghiêm ở thế giới Cực Lạc không? Các ông có thấy chư Thiên ở cõi Dục cho đến
cõi trời Sắc Cứu Cánh đem hoa hương cúng dường khắp cõi Phật không?”.
Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nhìn
thấy”.
“Các ông có nghe tiếng lớn của đức Phật A Di Đà truyền
khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh không?”
Tôn giả A Nan bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Chúng con có
nghe”.
Đức Phật bảo: “Các ông có
thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không? Và thấy họ liên tục niệm Phật không? Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do đức Phật biến hóa ra không?”
thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không? Và thấy họ liên tục niệm Phật không? Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do đức Phật biến hóa ra không?”
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời
đức Thế Tôn nói, chúng con đều thấy cả”.
Đức Phật bảo Di Lặc rằng: “Nhân dân ở nước đó có thai sanh
nữa, ông có thấy chăng?”
Ngài Di Lặc bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con thấy người
thế giới Cực Lạc ở trong thai như ở trong cung điện cõi Dạ Ma Thiên. Lại thấy
chúng sanh ngồi kiết già ở trong hoa sen tự nhiên hóa sanh. Do nhân duyên gì
nhân dân ở cõi đó có hạng thai sanh, hạng hóa sanh?”
PHẨM BỐN
MƯƠI
BIÊN ĐỊA,
NGHI THÀNH
Đức Phật bảo ngài Từ Thị: “Nếu có chúng sanh do tâm nghi
hoặc làm các công đức, nguyện sanh về Cực Lạc, không rõ Phật trí, bất tư nghì
trí bất khả xứng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí,
đối với các trí này nghi ngờ không tin, nhưng vì tin tội phước mà tu tập hạnh
lành, nguyện sanh về Cực Lạc.
Lại có chúng sanh chứa nhóm thiện căn, mong cầu Phật trí,
phổ biến trí, vô đẳng trí, oai đức quảng đại bất tư nghì trí, đối với căn lành
không sanh lòng tin, ý chí còn do dự đối với sự vãng sanh cõi Phật thanh tịnh,
không có tinh chuyên, nhưng vì liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện
nguyện cũng được vãng sanh.
Do những nhân duyên đó, những hạng người này tuy được sanh
về Cực Lạc, nhưng không thể đến thẳng cõi Đức Phật Vô Lượng Thọ được, chỉ đến
biên giới cõi Phật, ở trong thành thất bảo thôi. Không phải Đức Phật muốn như
vậy, mà vì chính họ tạo nên tâm đến đó vậy. Ở đó cũng có ao sen thất bảo, tự
nhiên thọ thân, ăn uống sung sướng như cõi trời Đao Lợi, nhưng ở trong thành đó
không thể ra khỏi, nhà ở trên đất, không thể tùy ý cao lớn.
Ở đó năm trăm năm không thấy Phật, không nghe được pháp,
không thấy Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn, trí huệ không sáng suốt, biết kinh
pháp lại ít, tâm không mở mang, ý không vui vẻ, nên ở đó gọi là thai sanh.
Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí, cho đến thắng trí, đoạn
trừ nghi hoặc, gieo các thiện căn làm các công đức, chí tâm hồi hướng, nên được
hóa sanh ngồi kiết già trong hoa thất bảo, khoảnh khắc được thân tướng quang
minh, công đức trí huệ thành tựu đầy đủ như các bậc Bồ Tát vậy.
Di Lặc Bồ Tát phải biết, hạng hóa sanh đó có trí huệ
thù thắng. Hạng thai sanh kia trong năm trăm năm không thấy Tam bảo, không biết
phép tắc của Bồ Tát, không được tu tập công đức, không có nhân duyên cúng dường
Phật Vô Lượng Thọ, phải biết hạng người này do đời trước không có trí tuệ, sanh
tâm nghi hoặc mà ra.
PHẨM BỐN
MƯƠI MỐT
HOẶC TẬN
KIẾN PHẬT
Thí như Chuyển luân Thánh vương có bảy ngục báu để giam
những vương tử nào mắc tội. Trong đó cũng có lầu các cung điện, màn báu, giường
báu, lan can cửa sổ, giường ghế trang sức quý báu, ăn uống y phục được cấp
dưỡng như Chuyển luân Thánh vương, nhưng bị trói chân bằng xích vàng, các tiểu
vương tử này có thích ở nơi ấy không?
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Dĩ nhiên
không vui thích! Khi họ bị giam cầm không được tự do, chỉ muốn tìm đủ mọi cách
để được ra khỏi ngục, lại cầu mọi thế lực cận thần giúp xin nhưng cũng không
toại ý, bao giờ Chuyển luân Thánh Vương bằng lòng mới được giải thoát”.
Này Di Lặc! Các chúng sanh này cũng lại như vậy. Vì có tâm
nghi hoặc Phật trí, cho đến quảng đại trí, đối với thiện căn thiếu lòng tin
sâu, do nghe danh hiệu Phật mà phát tâm tin thôi.
Tuy sanh về cõi Cực Lạc ở trong hoa sen, nhưng không được
ra khỏi hoa thai, trong đó cũng đủ vườn tược cung điện.
Tại sao vậy?
Trong hoa thai đó thanh tịnh không có uế ác, nhưng trong
năm trăm năm không thấy Tam Bảo, không được cúng dường phụng sự chư Phật, xa
lìa tất cả thiện căn thù thắng, do nỗi khổ đó nên không vui thích.
Nếu như những chúng sanh này biết được tội đời trước, hết
lòng ăn năn tự trách cầu được ra khỏi thai hoa, khi đã hết nghiệp rồi mới được
ra khỏi, thẳng đến chỗ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe kinh pháp, lâu sau
cũng được giải ngộ hoan hỷ, cũng được đi khắp cúng dường vô số vô lượng chư
Phật, tu tập các công đức.
Này A Dật Đa! Phải biết rằng tâm nghi hoặc tổn hại rất
lớn, mất lợi ích lớn đối với Bồ Tát, nên phải tin tưởng minh bạch vô thượng trí
huệ của Phật.
Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Tại sao
có một hạng chúng sanh ở thế giới này tuy cũng tu thiện mà không cầu vãng
sanh?”
Này Từ Thị! Những chúng sanh này trí tuệ cạn cợt, phân
biệt Tây phương không bằng cõi trời, do vậy không thích cầu sanh về cõi Cực
Lạc.
Ngài Từ Thị bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sanh
này luống dối phân biệt không cầu sanh về cõi Phật, làm sao thoát khỏi luân
hồi”.
Đức Phật nói rằng: “Các chúng sanh ấy có nhiều căn lành,
nhưng không bỏ tâm phân biệt vọng tưởng, không cầu Phật huệ, tham đắm phước báo
vui thú thế gian. Tuy cũng làm phước, nhưng chỉ cầu quả báo nhân thiên. Tuy
được quả báo đầy đủ phong túc, nhưng chưa ra khỏi ngục tù tam giới.
Giả sử cha mẹ, vợ con, nam nữ quyến thuộc mà không dứt bỏ
dục tướng, tà kiến vọng chấp thì luôn ở trong vòng luân hồi không được tự tại.
Hạng người ngu si đó không gieo căn lành, chỉ dùng thế trí biện thông thì tăng
thêm tà kiến, làm sao ra khỏi đại nạn sanh tử được.
Lại có chúng sanh tuy có gieo căn lành, tạo phước lớn,
nhưng vẫn giữ tâm phân biệt, tình chấp sâu nặng, cũng cầu thoát luân hồi, nhưng
không thoát được.
Nếu đem cái trí huệ vô tướng mà làm các công đức, thân tâm
thanh tịnh, xa lìa tâm phân biệt, cầu sanh về Tịnh độ cho đến quả Bồ Đề, quyết
được sanh về cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.
PHẨM BỐN
MƯƠI HAI
BỒ TÁT
VÃNG SANH
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hiện
nay có bao nhiêu các bậc Bất thối Bồ Tát ở cõi Ta bà này và các cõi Phật khác
được sanh về nước Cực Lạc?”
Này Di Lặc! Ở thế giới Ta bà này có bảy trăm hai mươi ức
Bồ Tát đã từng cúng dường vô số chư Phật, làm nhiều công đức đã sanh về Cực
Lạc. Các bậc Bồ Tát sơ phát tâm, tu tập công đức đã được vãng sanh số lượng
không thể tính được. Không những các bậc Bồ Tát ở cõi này được vãng sanh về Cực
Lạc, mà các cõi Phật khác cũng lại như vậy.
Cõi nước của Đức Phật Viễn Chiếu có mười tám câu chi na do
tha đại Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.
Cõi nước Đức Phật Bảo Tạng ở phương Đông Bắc có chín mươi ức
bất thối Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.
Các bậc bất thối Bồ Tát ở những cõi nước Đức Phật Vô Lượng
Âm, Đức Phật Quang Minh, đức Phật Long Thiên, đức Phật Thắng Lực, Đức Phật Sư
Tử, Đức Phật Ly Trần, Đức Phật Đức Thủ, Đức Phật Nhân Vương, Đức Phật Hoa Tràng
đã vãng sanh số lượng mười trăm ức, hoặc trăm ngàn ức cho đến vạn ức vị.
Đức Phật thứ mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa, có vô số
chúng Bồ Tát ở cõi Phật đó đều ở bậc bất thối chuyển, đã sanh về cõi Cực Lạc.
Các vị ấy có trí huệ dõng mãnh, từng cúng dường vô lượng chư Phật, rất mực tinh
tấn, thẳng đến nhứt thừa, trong bảy ngày đêm kiên cố tu tập như pháp bằng cả
trăm ngàn ức kiếp tu tập.
Đức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy có bảy trăm chín mươi
ức đại Bồ Tát, các vị Bồ Tát thấp và chúng Tỳ kheo v.v… sanh về cõi Cực Lạc
không đếm kể được.
Danh hiệu của chư Phật trong mười phương thế giới và chúng
Bồ Tát đã vãng sanh, chỉ nói tên thôi mãn kiếp cũng không hết.
PHẨM BỐN
MƯƠI BA
CHẲNG PHẢI
LÀ TIỂU THỪA
Này Từ Thị! Ông thấy các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát kia được
nhiều lợi ích như vậy. Nếu có trai lành gái tín nào, được nghe danh hiệu đức
Phật A Di Đà sanh tâm vui mừng hớn hở chừng một niệm, quy y chiêm lễ, như
thuyết tu hành, phải biết người này được lợi ích rất lớn, được nhiều công đức
như đã nói ở trên, tâm không tự ti, cũng không cống cao, thành tựu thiện căn
được thêm tăng trưởng, phải biết người này không phải tiểu thừa, ở trong pháp
của ta được gọi là đệ tử bậc nhứt.
Cho nên ta bảo ông rằng: Những Thiên, Nhơn, A tu la ở thế
gian này nên phải hớn hở tin thích tu tập, sanh tâm hy hữu, nên lấy kinh này
làm thầy hướng dẫn để cho vô lượng chúng sanh mau được vào bậc bất thối chuyển,
thấy được cõi Cực Lạc rộng lớn trang nghiêm nhiếp thọ thù thắng, viên mãn công
đức hơn cả.
Nên phải tinh tấn vâng giữ pháp môn này cầu được vãng
sanh, không nên sanh tâm thối thất hư ngụy, dù có vào hầm lửa lớn cũng không
được nghi ngờ hối hận.
Tại sao vậy? Vô lượng vô số Bồ Tát đều mong cầu trân trọng
lắng nghe pháp môn vi diệu này, không có tâm sai trái. Có nhiều vị Bồ Tát muốn
nghe kinh này mà còn không được. Nên các ngươi phải cầu giữ pháp môn này.
PHẨM BỐN
MƯƠI BỐN
THỌ KÝ BỒ
ĐỀ
Về đời sau đến khi chánh pháp diệt tận, nếu có chúng sanh
nào đã trồng căn lành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nhờ vào oai lực
của Phật Vô Lượng Thọ gia bị mới gặp được kinh pháp này, giữ gìn thọ trì sẽ
được quảng đại Nhứt Thiết Trí. Ở trong kinh pháp đó hiểu rõ cặn kẽ, sẽ được
nhiều hoan hỷ, nên lưu truyền cho mọi người tin theo tu tập. Các thiện nam tín
nữ đối với pháp này nếu đã cầu, hiện cầu hay sẽ cầu vãng sanh đều được nhiều
lợi ích.
Các ông nên phải kiên định chắc chắn, trồng các căn lành,
nên luôn luôn tu tập không được ngừng nghỉ nghi ngờ, chẳng vào các cõi trân bảo
thành tựu lao ngục.
Này A Dật Đa! Những hạng đại oai đức này thường từ nơi các
pháp đại thừa khác mà được, nên đối với pháp này không chịu lóng nghe. Có đến
một ức vị Bồ Tát thối chuyển bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu có chúng sanh nào đối với kinh này viết chép cúng
dường thọ trì đọc tụng, trong chút thời gian vì người diễn nói, khuyên họ lóng
nghe, không sanh ưu não, cho đến ngày đêm suy nghĩ cõi Cực Lạc và công đức của
Phật A Di Đà, đối với đạo vô thượng trọn không thối chuyển. Giả sử ba ngàn thế
giới tràn ngập lửa lớn, người đó khi mạng chung cũng có thể vượt khỏi, sanh vào
cõi nước Cực Lạc. Bởi người ấy đời quá khứ đã từng gặp Phật và được thọ ký Bồ
Đề, tất cả Như Lai đồng tán thán. Vì thế nên phải chuyên tâm tin thọ, trì tụng
diễn thuyết tu hành.
PHẨM BỐN
MƯƠI LĂM
CHỈ LƯU
LẠI MỘT KINH NÀY
Ta nay vì chúng sanh mà nói kinh này, khiến thấy được Đức
Phật Vô Lượng Thọ và cảnh giới trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, hễ có tâm nguyện cầu
đều được như ý.
Chớ để sau khi Ta diệt độ rồi sanh lòng nghi hoặc.
Đời tương lai khi kinh pháp diệt tận, Ta đem lòng từ bi
thương xót, đặc biệt lưu kinh này lại trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp
được kinh này tùy ý nguyện cầu đều được độ thoát.
Như Lai ra đời rất khó gặp khó thấy, kinh pháp của Phật
khó được khó nghe, gặp thiện tri thức nghe pháp tu hành cũng đã là khó. Nếu
nghe kinh này tin thích thọ trì là điều khó trong khó, không gì khó hơn.
Nếu có chúng sanh được nghe lời Phật, từ tâm thanh tịnh,
hớn hở vui mừng, hoặc râu tóc dựng đứng hay mắt rơi lệ, là do đời trước từng
làm Phật sự, không phải là người phàm.
Nếu nghe danh hiệu Phật tâm sanh hồ nghi, đối với kinh
Phật đều không tin tưởng, đó là từ ác đạo sanh ra, túc ương chưa dứt, chưa được
độ thoát, nên có tâm hồ nghi, không chịu tin tưởng.
PHẨM BỐN
MƯƠI SÁU
CẦN TU
KIÊN TRÌ
Này Di Lặc Bồ Tát! Pháp của chư Phật Như Lai vô thượng, đủ
thập lực, vô úy, thậm thâm vô ngại vô trước; pháp Ba la mật của Bồ Tát cũng
không dễ gặp. Nói pháp này cho người cũng khó khai thị. Người không có lòng tin
sâu vững chắc cũng khó gặp được kinh pháp này.
Ta nay như lý tuyên nói pháp môn “Quảng đại vi diệu nhất
thiết chư Phật xưng tán” này đem giao phó cho các ông, các ông phải cẩn thận
thủ hộ, làm lợi ích cho các hữu tình chìm đắm trong đêm dài, chớ để cho chúng
đọa lạc trong ngũ thú chịu các khổ ách. Nên siêng tu hành, thuận theo giáo pháp
của ta, phải tâm nguyện như Phật, thường nhớ ân sư, phải làm cho pháp này lưu
truyền dài lâu không bị tiêu diệt, kiên cố giữ gìn không để hủy hoại vong thất,
kinh pháp nhiều ít nhớ kỹ không quên, quyết được đạo quả. Pháp của Ta như vậy,
làm như vậy, nói như vậy, Như Lai đã hành trì cũng theo đó mà hành trì, tu các
phước thiện, cầu sanh về cõi Tịnh độ.
PHẨM BỐN
MƯƠI BẢY
PHƯỚC HUỆ
ĐƯỢC NGHE
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
Nếu xa xưa không tu phước huệ,
Thì chánh pháp này không thể nghe
Đã từng cúng dường các Như Lai
Nên hay vui mừng tin pháp này.
Kiêu mạn giải đãi và tà kiến
Pháp vi diệu Như Lai khó tin
Như người mù hằng thấy tối đen
Không thể dẫn đường cho người khác
Chỉ từng trước Phật trồng căn lành
Cứu đời hành thiện mới tu tập.
Nghe rồi thọ trì và biên chép
Đọc tụng tán thán và cúng dường
Như vậy nhứt tâm cầu Tịnh độ
Giá sử lửa cháy khắp ba ngàn
Nhờ oai đức Phật tất siêu việt
Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc
Biển trí huệ Như Lai sâu rộng
Chỉ Phật cùng Phật mới biết được
Thanh văn ức kiếp suy trí Phật
Tận hết sức cũng không thể hiểu
Công đức Như Lai Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn mới khai thị.
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ nghe pháp khó trong khó
Nếu các hữu tình sắp thành Phật
Hạnh hơn Phổ Hiền lên bờ giác
Hỡi những kẻ học rộng trí cả
Nên tin lời như thật của Ta
Diệu pháp này may phước được nghe
Nên vui mừng hãy chuyên niệm Phật.
Thọ trì quyết thoát biển sanh tử
Phật gọi người này thật bạn lành.
PHẨM BỐN
MƯƠI TÁM
NGHE KINH
ĐƯỢC LỢI ÍCH
Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, có một vạn hai ngàn na
do tha chúng sanh xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi ức chúng
sanh chứng quả A na hàm, sáu ngàn tám trăm Tỳ kheo lậu tận tâm được giải thoát,
bốn mươi ức Bồ Tát được bất thối chuyển, dùng công đức hoằng thệ mà tự trang
nghiêm quả Vô Thượng Bồ đề, hai mươi lăm ức chúng sanh được bất thối nhẫn, bốn
vạn ức na do tha trăm ngàn chúng sanh chưa từng phát nguyện thành Phật, nay mới
phát tâm gieo các căn lành, nguyện sanh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà, đều sẽ
vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật Vô Lượng Thọ, thảy đều thứ lớp thành Phật
khắp các phương cùng một danh hiệu là Diệu Âm Như Lai. Lại có tám vạn câu chi
na do tha hữu tình ở mười phương cõi Phật, hoặc hiện vãng sanh, hoặc sẽ vãng
sanh thấy Phật A Di Đà được thọ ký pháp nhẫn thành Vô thượng Bồ Đề, các hữu tình
này có túc nguyện nhân duyên với đức Phật A Di Đà.
Bấy giờ đại thiên thế giới chấn động sáu cách, và hiện các
hi hữu thần biến. Quang minh sáng chói chiếu khắp mười phương. Lại có chư Thiên
giữa hư không tấu âm nhạc vi diệu, cho đến chư Thiên Sắc giới cũng nghe và khen
chưa từng có, vô lượng hoa đẹp thơm rưới xuống.
Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các hàng Bồ Tát,
Thanh Văn, Thiên Long, Bát bộ tất cả đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
Phật nói kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác.
-Hết-
MƯỜI CÔNG
ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
· Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ
thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.
· Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ,
tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm, cướp, đạo binh,
ngục tù.
· Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền
khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.
· Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia
hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
· Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp những
nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành,
việc làm thuận lợi, được kết quả tốt.
· Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi,
tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận , phước lộc đời đời.
· Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ,
đến đâu cũng được mọi người kính mến khen ngợi.
· Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh
khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nếu nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền
được nam thân.
· Chín là, vĩnh viễn lìa xa đường ác, sanh vào cõi
thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
· Mười là, hay vì tất cả chúng sanh trồng các
căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sanh làm phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy
đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy
Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật
quả.
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: Ấn tống kinh, tượng
Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu
phuớc, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy
tin tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho mình và thân bằng
quyến thuộc.
THAY LỜI KẾT
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm
trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là
phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai
vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp môn để đáp ứng thích cơ
hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanh đa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp
dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn
đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì
giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương
thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng
thuyết minh về những hiện tượng thành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng
trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm
sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng thái thạnh
suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức
Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ
tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những
phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phật trình bày bàn bạc
khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật
nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh
nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được
kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp
Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hội kinh A Di
Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội
kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di
Đà và nhân duyên mật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng
chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh
cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệm Phật ra, không có pháp môn nào cứu
giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ.
Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng
Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà
không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà
đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích
Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùng của kinh Vô Lượng
Thọ đối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến
bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn
phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con
đường chắc chắn giải thoát. Đó chính là con đường Tịnh độ, con đường an toàn
vững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quang soi sáng, có Thánh
chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự
lực, tha lực đầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các
anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh
khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất định cảnh giới
Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm