Chương
II
Xe chúng tôi ngược lên miền tây Quảng Bình vượt
biên giới sang đất Lào rồi hướng về phía nam. Vì có lệnh ưu tiên, lại đi đúng dịp
đường đang khô nên xe chạy khá nhanh. Buổi chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến được
một trạm giao liên phía bắc đường Chín. Từ đây vào xe phải chạy đêm.
Đêm cuối cùng chúng tôi đi vào một con đường vắng,
hai bên cây cối rậm rạp. Quầng sáng vàng nhạt của bóng đèn gầm lướt trên luống
cỏ tốt bời bời giữa hai làn vết bánh xe. Đồng chí thiếu tá cho biết nhánh đường
này ít xe qua vì ta đã mở một tuyến khác thuận lợi hơn. Hầu như suốt đêm xe hết
bò lên dốc lại xuống dốc, lắc lư nghiêng ngả, lúc lúc lại nẩy chồm chồm trên những
khúc đường xấu. Cành lá quật ràn rát trên mui vải bạt.
Đến bốn giờ sáng, xe chạy chậm lại. Đồng chí
thiếu tá ngoái bảo: "Sắp đến nơi, các đồng chí chuẩn bị!" Khi xe dừng
bên một con suối lớn, chúng tới mang ba lô xách súng nhanh nhẹn nhảy xuống. Đồng
chí thiếu tá cũng đã xuống xe, đứng bên đường chỉ lối rẽ. Từng người một bắt
tay anh, chạy tới vỗ nhẹ vào vai đồng chí lái xe thay lời chào, rồi nối nhau lủi
nhanh vào rừng. Giờ mới thực sự là những bước đầu tiên của chuyến đi. Tôi bước
chệnh choạng trên cỏ, người như vẫn còn lắc lư chao đảo theo nhịp xe lắc. Phía
sau lưng, chiếc xe đang rồ máy quay đầu trở về.
Đi được hơn cây số, anh Đằng cho tổ nghỉ lại.
Anh cầm súng đứng cảnh giới, bảo chúng tôi ngả lưng vào ba lô ngủ một lát, đợi
sáng sẽ đi tiếp.
Khi mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống
dải sương trắng là là mặt suối, anh Đằng giục mọi người lấy nước vào bi đông,
chuẩn bị lên đường. Xung quanh yên tĩnh, tiếng chim hót lảnh lót khắp nơi. Tôi
có cảm giác là lạ, sau mới nghĩ ra là do nhìn thấy mặt trời nhô lên từ sau ngọn
núi và dòng suồl chảy từ đông sang tây.
Chúng tôi xốc ba lô lên vai, khoác súng lội
qua đoạn suối cạn rồi bước lên bờ dốc mọc đầy những cây lau bông trắng muốt đọng
sương ướt sũng. Anh Đằng đi trước, khẩu AK nới dây dài mang thòng trước ngực,
tay cầm dao phát nhánh cây lấy lối đi. Cả những ngày sau này, anh và anh Hùng
thay nhau mở đường. Các anh tự nhận lấy công việc nặng nhọc nhất lúc đi rừng.
Suốt buổi sáng, chúng tôi đi mải miết trong
khu rừng rậm, chỉ dừng lại khi cần xác định phương hướng. Đường không dốc lắm
nhưng khó đi vì cây bụi và cây dây leo mọc chằng chịt. Có lúc phải từng người lần
lượt nối nhau chui qua một vòm cây rậm rạp, tối om như lỗ cống.
Anh Hùng gỡ hộ tôi nhánh cây vướng nhùng nhằng
sau ba lô và nói:
- Cố lên! Sắp hết quãng rậm rồi.
- Sao anh biết?
- Đây là cánh rừng ven con suối lúc nãy, đất
thấp ẩm nên cây cối mọc rậm. Lên cao sẽ thoáng hơn.
Đến gần trưa thì đường đã dễ đi. Vẫn những khu
rừng có nhiều tầng cây mọc chen chúc nhau, nhưng thưa hơn. Từng chùm tia nắng
xuyên tán lá soi qua bóng râm làm rừng sáng lên.
Quá trưa, cả tổ dừng lại trên một triền dốc.
Vì không gặp nước nên chúng tôi quyết định ăn lương khô, nghỉ khoảng một tiếng
sẽ đi tiếp.
Ở mấy cánh rừng đi qua trong buổi chiều, thỉnh
thoảng lại gặp dấu vết của con người: vài vết chém trên nhánh cây, một đống tro
tàn bên mấy hòn đá ám khói..., chứng tỏ nơi đây vẫn có người đặt chân tới. Có
thể là thợ săn, có thể bộ đội ta, cũng có khi thám báo địch.
Chừng bốn giờ chiều, chúng tôi tụt xuống một bờ
dốc và may mắn gặp được con suối nhỏ, nước chỉ ngập ngang bắp chân nhưng trong
vắt. Anh Đằng chọn vạt đất trống tương đối bằng phẳng để nghỉ đêm.
Vừa đặt ba lô xuống, anh Hùng xách súng nhao
đi ngay. Anh Đằng vặn lưng cho đỡ mỏi rồi cùng anh Sơn nhặt cành khô nhóm lửa.
Tôi lấy gạo vào hai chiếc gô đem xuống suối vo sạch, đổ nước vào và xách lên. Bếp
đã làm xong: hai chiếc nạng đóng hai bên đống lửa, một nhánh cây tươi gác ngang
bên trên. Tôi luồn quai gô vào nhánh cây, treo trên lửa để nấu cơm.
Anh Hùng trở về, tay cầm mấy nhánh lá xanh. Anh
Đằng hỏi:
- Thế nào Hùng?
- Êm lắm! Xung quanh không thấy dấu vết gì,
cũng không có dấu cọp.
Tôi biết anh vừa đi một vòng quanh chỗ trú đêm
để xem xét, nhưng không hiểu anh bẻ mấy nhánh lá làm gì.
- Lá gì vậy, anh Hùng - Tôi hỏi.
- Cậu nếm xem - Anh nói và chìa nhánh lá ra.
Tôi vặt một chiếc lá đưa lên miệng nhấm, vị
chua thấm vào đầu lưỡi làm nước bọt tiết ra. Tôi thốt lên:
- Lá bứa! Thế mà em không nhận ra.
- Vitamin C đấy! Tối nay ta sẽ nấu món canh
chua.
Thay nhau tắm rửa xong, chúng tôi quây quần
bên hai gô cơm bốc hơi nghi ngút và soong canh lá bứa nấu với thịt hộp do anh
Hùng “đạo diễn". Bữa cơm còn có món thịt kho rim mà chiều qua đồng chí thiếu
tá đã chu đáo dặn trạm giao liên gói cho chúng tôi mang theo. Mọi người đều ăn
rất ngon miệng. Khi nghe tôi xuýt xoa khen món canh chua, anh Hùng cười hể hả:
- Rồi cậu còn được biết nhiều món ngon! Rừng
không phụ lòng người bao giờ!
Cơm xong thì trời cũng chạng vạng tối. Những
âm thanh náo nức sôi động của cuộc sống rừng già lúc ban ngày đã ắng lại, chỉ
còn nghe tiếng lá rì rào, tiếng con suôn nhỏ róc rách chen lẫn tiếng vài con
chim mải kiếm mồi giờ mới vội vã bay về tổ.
Chúng
tôi mắc võng ngủ trên cành cao, sau khi đã dập tắt đống lửa. Ở đây chưa xa đường
giao thông là mấy, cần đề phòng bọn thám báo phát hiện ra ánh lửa. Lúc chiều
tôi có nghe tiếng máy bay L.19 lượn hướng con đường xe đi đêm trước.
Vừa đặt mình xuống võng, tôi đã ngủ say như chết.
Có lẽ do hai đêm trước chỉ gà gật trên xe và cả ngày đi đường mệt nhọc.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khi trời vừa rạng.
Từ trên cành cây cao có thể nhìn thấy nền trời ửng hơn sau đỉnh núi. Anh Sơn gọi
với lên:
- Cẩn thận, đừng tưởng là ngủ dưới đất đấy
nhé!
Thì ra các anh ấy đã dậy cả. Anh Hùng đang ngồi
bên bếp lửa, từ chiếc soong treo trên bếp vọng ra tiếng sôi ùng ục. Tôi tháo
võng nhét vào ba lô ôm tụt xuống đất, ngượng nghịu:
- Sao các anh không gọi em?
- Còn sớm, vội gì? - Anh Hùng trả lời rồi đưa
thìa lên miệng nếm, xuýt xoa vì nóng.
Tôi xuống suối rửa mặt, lấy nước vào bi đông
và trở lên ngồi cạnh anh Sơn.
- Hôm qua mình đi được nhiều chưa anh? - Tôi hỏi.
- Đi nhiều nhưng được thì chưa bao nhiêu? -
Anh Sơn cười nhét chiếc địa bàn vào túi áo ngực.
Sống với nhau mới mấy ngày mà tôi thấy tính
anh rất dễ mến. Anh hiền lành ít nói, nhưng lại có cách nói chuyện rất có
duyên. Mọi việc anh đều tỏ ra thành thạo không kém gì anh Đằng và anh Hùng.
Trong tổ chỉ mình tôi là vụng. Không hiểu sao anh Hai Nguyên lại chọn tôi?
Bữa sáng có món cháo gạo nấu đặc ăn với đường.
Sau khi ăn xong, chúng tôi sắp xếp ba lô chuẩn bị ra đi. Tôi cùng anh Hùng dập
tắt đống lửa rồi xóa hết mọi dấu vết.
Mấy ngày sau đó, cảnh rừng chúng tôi đi qua vẫn
như ngày đầu. Cũng những cây cổ thụ sừng sững, những lùm cây bụi cành lá lòa
xòa quệt vào mặt, những cây dây leo đôi lúc níu chân người kéo giật trở lại. Đường
đi hết lên dốc rồi xuống dốc, nhưng tôi biết mình đang đi lên cao. Thỉnh thoảng
lại gặp một cái khe nhỏ len lỏi qua những tảng đá, nước trong vắt và mát lạnh.
Bây giờ đang cuối mùa xuân. Trong những cánh rừng
nở đầy các loài hoa dại mà hầu hết tôi không biết tên. Có cây dây leo nở những
đóa hoa dạng loa kèn to hơn miệng bát màu đỏ màu vàng sặc sỡ, làm thành từng
chuỗi dài giăng từ cây này sang cây khác. Lại loài dây leo nọ hoa nở từng chùm
rực rỡ, treo lủng lẳng như những chiếc đèn lồng. Trên tán của một cây thân gỗ
cao to có những bông hoa li ti màu trắng nở dày đặc kết thành đám mây nhỏ, gặp
cồn gió thổi, cánh hoa rụng tơi tả phủ đầy trên mũ. ở một bụi cây bên đường, mấy
bông hoa đỏ chót như những ngọn lửa lấp ló trong đám lá. Lại còn loài cây gì
trông từa tựa như cây khoai môn mọc trong góc tối ẩm ướt, phải xòe các chiếc lá
to bằng miệng thúng cố hứng lấy chút ánh nắng, vậy mà cũng nở được những bông
hoa kì dị giống bắp ngô to tướng đỏ rực, vươn cao đến vài ba mét như để chào mời.
Đôi lúc ngẩng đầu lên, tôi lại bắt gặp trên cao một khóm lan rừng có những túm
rễ ngoằn ngoèo bám chi chít vào thân cây cổ thụ đang trổ từng chuỗi bông dài đẹp
lộng lẫy như những chuỗi ngọc. Ngay cả các loài cây cỏ mọc sát mặt đất cũng có
những thứ hoa riêng của nó: những chùm hoa nhỏ xinh xinh như những chùm hạt cườm,
hoặc những bông hoa bé tí giống chiếc cúc áo nhiều màu sắc.
Được trang điểm bởi muôn ngàn bông hoa dại đủ
màu đủ vẻ núi rừng rực rỡ hẳn lên trong nắng mai. Đi trong rừng mùa này ngửi thấy
nhiều mùi hương khác nhau, từ thơm ngát; thơm nồng, thơm dịu đến mùi ngai ngái,
hăng hắc..., và rõ hơn cả là mùi mật ngòn ngọt của trái cây đang chín. Như say
trong hường rừng, vô vàn ong bướm cùng đủ loại côn trùng cánh lụa cánh cứng bay
lượn thỏa thuê từ bông hoa này sang bông hoa khác, tiếng vù vù vo vo vang suốt
ngày.
Rừng thật đẹp, nhưng chúng tôi không có thời
gian để thưởng thức. Tất cả tâm trí đều dồn cho công việc trước mắt. Vả lại với
hơn ba mươi kí ba lô súng đạn trên người thì việc đi lại trong rừng rậm chẳng
nhẹ nhàng chút nào. Có những đoạn dốc gần như dựng đứng, phải níu từng mẩu rễ,
từng cành cây mà leo lên. Lại có những khe đá ẩm ướt tối om, phải dò dẫm bước
trên những phiến đá phủ rêu trơn tuột. Đi dưới bóng râm của nhiều tầng lá che
trên đầu không hẳn lúc nào cũng mát, nhất là về buổi chiều. Khi đó những cây lá
bịt bùng xung quanh không cho một ngọn gió nào lùa tới, và lớp đất rừng phủ đầy
lá mục bốc hơi nóng hầm hập làm ta phải ngợp thở, mồ hôi túa ra thấm vào những
vết rách xước trên da thật rát buốt như bị xát muối. Rừng tuy đẹp, nhưng vẻ đẹp
hoang dã luôn đi kèm với sự khắc nghiệt. Con người muốn sống được với rừng, phải
vượt qua mọi thừ thách của nó.
Buổi sáng hôm đó, sau khi leo hết triền dốc dài,
chúng tôi gặp một cánh rừng thưa. Đang đi, chợt anh Đằng dừng lại gọi khẽ:
- Hùng ơi, lên đây! - Anh Hùng vượt lên, đến
bên anh - Cậu ngửi thấy mùi gì không?
Anh Hùng hít hít mấy cái:
- Mùi khét của cọp! Chắc nó vừa qua đây.
Bất giác, tay tôi nắm chặt khẩu súng. Anh Hùng
cắp súng lom khom đi ngược hướng gió tìm dấu vết trên mặt đất. Chúng tôi bước
chầm chậm theo sau. Xung quanh vắng lặng, chỉ có tiếng chân sột soạt trên cỏ.
Chim chóc cũng bay đâu hết, không nghe tiếng hót. Một cành cây rơi xuống đất
đánh "bịch" làm tôi giật nẩy người.
Lát sau anh Hùng quay lại:
- Cọp đàn anh ạ! Có ba con, chúng vừa qua đây
khoảng dăm phút.
- Không sao đâu? Chúng ta đi thôi!
Tôi bước
gấp mấy bước tới sát sau anh, vừa đi vừa thận trọng quan sát xung quanh. Một
lúc sau không nén nổi, tôi cất tiếng hỏi:
- Liệu có gặp nó không anh Đằng?
Anh ngoái lại nhìn tôi bật cười:
- Có gặp cũng chẳng sao! Cọp rừng già không mấy
khi bắt người.
Anh Sơn nói:
- Hồi bọn tôi đi ở miền tây Nghệ An, vẫn gặp cọp
hàng ngày như người ta đi rừng gặp nhau. Lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Chỉ cần
cảnh giác là được...
Chợt anh Hùng kêu khẽ:
- Kia kìa, chúng đấy?
Cả ba chúng tôi cùng đứng lại, ngoái đầu nhìn
theo hướng anh chỉ. Tôi chưa thấy gì. Anh Đằng đưa ống nhòm lên mắt:
- Thấy rồi! Đúng ba con. - Anh trao ống nhòm
cho tôi - Hải nhìn đi, ở đoạn dốc có cái cây đổ ấy!
Tôi rê ống nhòm đến chỗ anh chỉ. Kia rồi!
Trong ống kính hiện rõ một nhà cọp: Có hai con còn nhỏ, chỉ nhinh hơn con chó một
chút, đang lẽo đẽo theo sau cọp mẹ. Chúng nối nhau đi xuống đoạn dốc trống trải,
dáng mềm mại, những vằn đen vằn vàng trên bộ lông thấp thoáng sau ngọn cỏ.
Tôi trả anh Đằng chái ống nhòm, hỏi:
- Nếu lúc nãy gặp nó, mình có bắn không anh?
- Nó không có ý tấn công mình thì bắn làm gì?
- Ngoài quê em các cụ kể hồi kháng chiến chống
Pháp, ở chiến khu Thủy Ba cọp vẫn bắt người luôn. Có khi cả đoàn hàng chục người
vừa đi vừa gõ mõ la hét, mà nó vẫn chồm ra cắp người đi cuối rồi chạy mất.
- Chuyện ấy cũng có đấy? - Anh Hùng nói - Suy cho
cùng cọp dữ có lỗi của con người. Chiến tranh, săn bắn, chặt cây phá rừng... đã
xua các loài thú khác trốn biệt lên núi xa. Con cọp đói mồi, và nó gặp người
nhiều nên quen dần, không sợ nữa. Đói quá hóa liều, mà liều một lần rồi quen...
Cũng có khi tình cờ nó gặp và ăn xác người chết vì bom đạn, "ăn quen bén
mùi", từ đó nó thích ăn thịt người.
- Thế theo anh, vì sao cọp rừng già lại hiền
hơn?
- Không phải hiền hơn, nó vẫn là loài thú dữ
ăn thịt. Nhưng ở đây đâu thiếu con mồi, nó đâu có đói quá đến mức phải liều?
Hơn nữa, con người trong mắt nó là loài vật lạ mà có khi nó chưa gặp lần nào.
Chưa biết lành dữ ra sao thì động vào làm gì?
Anh Sơn cười, xen vào:
- Nghe anh Hùng nói chuyện cọp mà như nói về
người ấy nhỉ?
- Cậu phản đồi à? - Ngược lại là khác! Tôi đã
sống nhiều trong rừng, tôi biết. Con cọp chỉ bắt mồi khi đói, theo bản năng
sinh tồn. Nó săn đuổi các loài thú khác, con nào yếu ớt chậm chân sẽ bị nó bắt,
còn con khỏe mạnh khôn ngoan thì chạy thoát. Như vậy cọp cũng góp phần vào quá
trình đào thải tự nhiên của cuộc sống. Chính con người mới là kẻ phá vỡ sự cân
bằng vốn có của thiên nhiên khi săn bắt bừa bãi các loài thú, có lúc chỉ để giải
trí.
Anh Đằng góp chuyện:
- Lại còn chiến tranh nữa! Các cậu đã đi qua
những vùng rừng bị rải chất độc hóa học, chắc biết. Có lần mình gặp một con nai
đẻ ra quái thai. Con nai mẹ cuống quít chạy quanh cái bọc thịt đỏ hỏn phập phồng,
mắt nó ngơ ngác hoảng hốt trông tội lắm Hơn tuần sau mình quay lại nơi đó, thấy
nai mẹ đã chết. Xác hai mẹ con nó đang rữa ra trên lớp lá rụng...
Mọi người lặng im. Tôi nói sang chuyện khác:
- Anh Hùng này, làm sao anh biết được mùi cọp?
- Con cọp có mùi riêng của nó chứ? Cũng như
khi đi đêm, không nhìn thấy gì nhưng ta vẫn phát hiện ra tụi Mỹ phục kích nhờ
ngửi được mùi của chúng. Trong rừng, cọp thường đái vào gốc cây để đánh dấu
lãnh địa của nó, thợ săn thoáng ngửi qua là biết liền.
- Thế làm sao anh biết có ba con?
- À, phải nhìn dấu chân nó để lại. Việc này
khó hơn. Có người đi săn cả đời mà vẫn bị lầm đấy! Người thợ săn giỏi là phải
biết nhìn, nghe, suy nghĩ..., tích lũy từng chút hiểu biết, từng chút kinh nghiệm.
Đến một lúc nào đó, tất cả thấm vào trong đầu óc anh, gần như thành bản năng,
thành linh cảm. Lúc đó anh chỉ nhìn qua dấu chân, hoặc ngửi chút mùi vương lại
trong không khí là đã biết nhiều điều về con vật thậm chí có thể biết nó no mồi
hay còn đói..., có lẽ chỉ không biết được con đực hay con cái thôi. Để lúc nào
rảnh rỗi mình bày thêm cho cậu. Cũng phải học dần mỗi lúc một ít, không thể biết
ngay tất cả được đâu.
Anh Đằng đang đi phía trước nói với lại:
- Cậu Hải yên trí! Đi xong chuyến này cậu sẽ học
được khối thứ, lúc đó trở thành... người rừng là cái chắc?
Mọi người cười vang. Một đàn chim thấy động vỗ
cánh bay rào rào.
Tôi không nhớ mình đã mê rừng từ lúc nào,
nhưng hồi còn nhỏ, những ngày đẹp trời, tôi thường leo lên cây ngóng lên phía
Trường Sơn ngắm không chán mắt những dãy núi điệp trùng. Dưới nắng vàng, màu
xanh cây lá cứ rực lên nơi dãy núi gần nhất, còn những dãy xa hơn có màu xanh dương,
xanh lơ, xanh nhạt, và cuối cùng là lớp núi xanh mờ hòa vào trong mây trắng.
Tôi ao ước được dặt chân tới những vùng rừng xa xôi và say sưa mơ mộng thả hồn
trong những cánh rừng đẹp như mơ cùng những chuyến phiêu lưu kỳ thú nơi rừng
xanh núi thẳm...
Chính niềm
say mê đó đã khiến tôi hết sức thán phục và ngưỡng mộ anh Hùng trước những hiểu
biết của anh về rừng. Vốn tính ít nói, không mấy khi anh kể về bản thân mình,
nhưng lại rất say sưa sôi nổi khi kể chuyện rừng. Ở trong rừng, anh biết nhiều
loại lá có thể nấu canh và những thứ cỏ cây dùng làm thuốc. Nhìn qua một thứ quả
dại nào đó, anh có thể nói ngay là ăn được hay không. Khi nghe anh kể về cỏ cây
hoa lá muông thú, không ai nghĩ anh là người trai của quê lúa Thái Bình.
Sống trong một làng quê nằm giữa cánh đồng cò
bay thẳng cánh, nhưng nhà anh quanh năm thiếu ăn vì chỉ có vài sào ruộng xấu cấy
một vụ. Vì thế từ những đời trước, gia đình anh đã phải làm thêm nghề sơn
tràng. Hàng năm sau khi gieo cấy xong, những người đàn ông để ruộng đất nhà cửa
lại cho phụ nữ trông nom rồi kéo nhau lên rừng đơn gỗ kết bè xuôi sông về bán ở
đồng bằng. Nghe qua tưởng đơn giản, nhưng thực ra cuộc sống trên rừng dưới sông
của những người thợ sơn tràng không phải dễ dàng. Đốn được cây gỗ đưa xuống tới
sông để cốn bè đã là khó, nhưng chưa vất vả bằng lúc phải chống bè vượt qua những
ghềnh đá, những con thác hung dữ ở miền thượng lưu. Nhiều khi qua thác bè vỡ hoặc
lúc gặp cơn lũ cuốn bất ngờ thì lại tay không trở về làng, còn giữ được mạng sống
đã là may mắn lắm.
Nhưng được cái cuộc sống gian nan trong núi rừng,
trên sông nước dạy người ta khôn ra, hiểu biết nhiều hơn và dạn dày với mọi nỗi
gian truân. Năm mười hai tuổi, anh Hùng được bố cho đi một chuyến như thế, và từ
đó anh mê rừng đến không gì cưỡng lại được. Anh theo bố đi rừng không bỏ chuyến
nào. Năm mười sáu tuổi, anh ở lại hẳn trong nhà một bà mế già mà gia đình anh
đã từng quen biết thân thiết, và sau này lấy vợ là cháu gái bà.
Ở đó, cuộc sống của dân bản phụ thuộc vào rừng.
Anh Hùng cũng đi rừng như mọi người. Anh gắn bó với rừng và rừng giúp anh thỏa
mãn mọi khát khao mơ tưởng từ khi còn bé ngồi nghe ông cha kể chuyện rừng. Để sống
được với rừng, anh còn phải học phải biết nhiều điều, và rừng dạy cho anh những
bài học mà không nhà trường nào dạy được. Bà mế già là người thầy thuốc duy nhất
của cả bản, bà dạy anh nhiều bài thuốc từ cây cỏ trong rừng.
Năm 1963 anh nhập ngũ, lúc vợ mới sinh con
trai đầu lòng. Cuộc đời người lính của anh cũng lại gắn bó với rừng. Những hiểu
biết về rừng cùng cuộc sống được rèn luyện trong rừng từ tuổi niên thiếu, đã
giúp anh trở thành người chiến sĩ trinh sát đầy bản lĩnh của một sư đoàn mà từ
khi thành lập đến nay, mọi chiến công đều gắn liền với những địa danh của núi rừng.
Đó là những điều về anh mà anh Đằng đã kể tôi
nghe. Còn anh, chỉ một lần duy nhất anh kể về mình là lúc khoe chuyện vợ đã hai
lần đưa con về thăm quê nội. Mỗi lần như vậy bà con nội ngoại đều hết sức mừng
rỡ giữ hai mẹ con lại hàng tháng trời không muốn cho đi... Nhìn nét mặt rạng rỡ
của anh, tôi hiểu rằng anh đã ao ước biết nhường nào được một lần đưa con trai
về thăm quê, về với những cánh đồng rập rờn sóng lúa, với làng quê nho nhỏ khuất
sau lũy tre xanh, nơi tuổi thơ của anh có bao kỷ niệm êm đềm...
Gần hết ngày hôm ấy, chúng tôi đi được quãng
đường khá dài nhưng chưa gặp nguồn nước nào. Anh Đằng giục mọi người rảo bước
mong gặp suối trước khi trời tối.
Lúc sắp bước ra một tráng cỏ, anh chợt lùi lại
ngoắc tay gọi khẽ: "Hải, tới đây!" Tôi nhao tới bên anh thì thào hỏi:
"Gì thế anh?", trong đầu thầm nghĩ "Lại cọp rồi..."
Anh Đằng không đáp, đưa tay chỉ về phía trước
mặt. Tôi nhìn theo, thấy cuối tráng cỏ có đàn gà đang ăn. Biết anh dành cho tôi
cơ hội kiếm thức ăn buổi tối, tôi nói ngay: "Để đấy cho em" và tuột
ba lô đặt xuống đất. Tôi nhìn ngọn cây tìm hướng gió, nhanh nhẹn luồn qua những
bụi cây ven tráng cỏ tới gần đàn gà. Khi chỉ còn cách chừng sáu chục mét, tôi
quì xuống giương súng ngắm. Không thể tới gần hơn được nữa, sợ chúng nghe động
bay hết thì ê mặt. Con gà trống có bộ lông màu nâu nhạt điểm những sắc đỏ sắc
vàng và cái đuôi dài tha thướt, nom cũng ra dáng lắm. Những con mái thường hơn
với màu lông đen xám lẫn lộn. Con trống vừa bới mồi vừa quanh quẩn bên mấy ả
mái. Tôi đưa bộ lông sặc sỡ của nó vào đường ngắm, nhưng chưa bắn ngay mà rê nòng
súng theo mục tiêu đang lăng xăng lui tới. Đến lúc một con nữa chập vào đường
ngắm, tôi mới bóp cò. Phát súng nổ vang làm mấy con gà hất hoảng bay vút vào bụi
rậm. Tôi chạy ra bãi cỏ nhặt hai con vừa trúng đạn rồi thong thả quay lại nơi
ba anh đang đợi.
Thấy tôi, anh Đằng reo lên:
- Ái chà! Hai con một lúc cơ à?
- Gà nhỏ quá, phải hai con ăn mới đủ anh ạ! -
Tôi đáp, cố làm ra vẻ dửng dưng.
Cả ba anh cùng cười ồ: "Khá lắm? Cậu này
chơi được đấy!”
Chúng tôi vội vã đi tiếp, nhưng vừa qua hết trảng
cỏ đã gặp ngay khe nước. Một sự bất ngờ thật dễ chịu.
Lúc chuẩn bị bữa tối, anh Hùng vừa quay hai
con gà đang xèo xèo trên đống than đỏ rực, vừa nói:
- Để hôm khác có con thú nào ngon thịt, mình sẽ
biểu diễn cho các cậu một cách nướng tuyệt diệu, bảo đảm khách sạn Phú Gia ở Hà
Nội cũng khó làm ngon hơn được...
Trời nhá nhem tối. Chúng tôi ngồi bên đống lửa
cháy rừng rực, khoan khoái thưởng thức món gà rừng nướng thơm lừng chấm với muối
có rắc mấy hạt mì chính. Vờ cúi mặt làm như mải gặm đùi gà, nhưng thực ra trong
lòng tôi đang nở từng khúc ruột khi nghe ba anh tấm tắc khen món gà rừng nướng,
cứ như nhờ tôi bắn nên thịt gà mới ngon đến vậy. Biết thế nào được! Khi ta hai
mươi ba tuổi, chưa hẳn mọi cái đều chín chắn, trong ta vẫn còn sót lại chút
ngây thơ của thời trẻ nít, nhất là khi ở bên nhưng người từng trải hơn mình.
Chính vì thế mà một thành công cỏn con như vậy cũng làm tôi sướng rơn, người cứ
lâng lâng mãi.
Đến tối, chúng tôi kéo thêm mấy khúc gỗ chất
vào đống lửa rồi dựng lều ngủ ngay bên khe nước. Tôi nằm cạnh anh Hùng, mê mải
nghe anh kể chuyện rừng. Anh say sưa nói về cách bẫy chim săn thú, tìm rau quả
đào củ mài, cách xác định phương hướng khi đi đêm trong rừng... Anh nói:
- Có người cho rằng những thứ quả nào có dấu
chim ăn thì người ăn được, nhưng không hẳn như thế. Nhiều loại quả chim ăn được
nhưng người ăn lại bị ngộ độc đấy! Muốn ăn, phải tìm những thứ mà bọn thú bốn
chân như chồn, sóc, khỉ... vẫn ăn. Nhất là khỉ, chúng biết chọn thức ngon nhất
để chén...
Anh còn kể cho tôi nghe những lần đi tìm trầm,
phải lang thang trong rừng hàng tháng trời. Những chuyến đi săn lợn lòi, trai
tráng trong bản kéo nhau đi đông vui như ngày hội. Người và chó xua lũ lợn vào
một góc rừng nào đó đã giăng lưới và có thợ săn cầm nỏ cầm lao phục sẵn. Tiếng
mõ, tiếng phèng la khua vang lừng hết cánh rừng này qua cánh rừng khác. Một
chuyến săn như thế có khi kéo dài đến bốn, năm ngày...
Trăng lên lúc đêm đã khuya. Anh Đằng giục
chúng tôi ngủ để lấy sức mai đi. Nãy giờ hai anh vẫn nằm nghe chuyện, thỉnh thoảng
mới góp vào một câu.
Tôi vén mép tăng nhìn ra. Trăng sáng quá. ánh
trăng rười rượi trên tráng cỏ đầy sương và tiếng côn trùng nỉ non làm cho đêm rừng
càng trở nên huyền ảo. "Khuya rồi, ngủ đi Hải”, anh Đằng khẽ nhắc. Tôi
buông mép tăng, kéo tấm võng đôi dùng làm chăn trùm kín đầu, lát sau đã chìm
sâu vào giấc ngủ.