22/01/2015

Đội đặc nhiệm TK1 (chương 19)

Chương XIX




Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối

Thế là những người khách đã ra về. Góc rừng này giờ trở nên hiu quạnh hơn bao giờ hết. Tôi ngẩn ngơ nhìn vạt cỏ nhàu nát còn vương hơi người, bên tai như vẫn nghe văng vẳng tiếng cười tiếng nói. Đã quen với những ngày sống một mình lặng lẽ, cuộc tiếp xúc vừa rồi khơi dậy biết bao điều. Chỉ mấy con người trong thời gian gặp gỡ ngắn ngủi như vậy mà có cả bạn và thù, cả lòng tin lẫn mưu mô. 
Tôi chợt nhớ ra mình không kịp hỏi gì về tình hình dưới đó, ít lắm cũng có thể hỏi họ đôi điều về tình hình chiến sự. "Sao mình ngớ ngẩn thế nhỉ?", tôi tiếc húi hụi. Thôi, dù sao cũng đã gửi được một tín hiệu về "nhà". Già Lý sẽ kể cho anh con trai đang hoạt động cách mạng ở huyện việc tìm thấy hài cốt người em. Và câu chuyện người lính Giải phóng sống một mình trong rừng sâu hơn hai năm nay là chuyện lạ, không phải ngày nào cũng được nghe. Anh ấy sẽ báo cáo lại với tổ chức. Chỉ cần lên tới cấp lãnh đạo của tỉnh Quảng Nam, ở đó đã được thông báo về TK1, họ sẽ chuyển tin cho anh Hai Nguyên. Chắc chắn như vậy! Tôi cảm thấy vui hơn. 
Lũ khỉ đang chạy nhắng trên bãi cỏ giành nhau chiếc máy ghi âm vỡ. Của lạ mà! Chúng no căng với mấy nải chuối cúng nên không cần vào rừng. Còn báo Aga đã lại nhao đi đâu đó. Cũng tội, mấy ngày nay nó phải theo tôi miết, chắc giờ đi kiếm gì ăn thêm. Tảng thịt bò lúc trưa tuy ngon nhưng chỉ đủ lót dạ. 
Tôi bước tới đống đồ chất cạnh gốc cây. Những người khách để lại nhiều thứ: mấy cái xoong, bát đĩa, chiếc can nhựa đựng nước, cuốc xẻng... Tôi mừng rơn khi thấy họ đem lên cho tôi bốn bao cát đựng đầy gạo và một bao muối chừng năm kí, thứ muối hạt to trắng lóng lánh. Còn trong cái thùng giấy là chiếc chăn len khá dày, giữa cuộn chăn có một chiếc lược nhựa màu đỏ, loại lược to của phụ nữ. “Thế này thì mình dư sức qua mùa mưa. - Tôi cầm chiếc lược chải tóc, bâng khuâng thầm nghĩ - Cứ tưởng cô ta chỉ quan tâm tới con báo..." 
Rừng chiều vắng lặng. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ đeo trên tay làm tôi nhớ tới thái độ lạ lùng và lời cô gái nói lúc nãy: "Anh cầm để coi giờ...". Cô ta muốn bù lại chiếc đồng hồ tôi đưa hôm trước. Ừ, chỉ thế thôi! Chứ chả lẽ tặng tôi làm kỷ niệm?" Một người rừng như mình đâu có gì để cô ấy cảm tình? Có thể tạo được một ấn tượng nào đó, chứ cảm tình thì không. Mà... cô ấy có đẹp không nhỉ? Nếu là Bằng, - tôi nhớ tới người bạn cùng tổ công tác vốn hay đùa tếu - cậu ta cho mấy điểm? Ít lắm cũng bảy điểm! Cô ấy không đẹp sắc sảo, nhưng có duyên. Còn cái dáng dong dỏng mềm mại kia thì đúng là dòng giống nhà anh Hai Nguyên rồi! Cô ấy cao gần bằng mình, chắc phai mét sáu lăm. Và cô ấy... cũng thông minh đấy chứ? Rất thông minh là đằng khác! Nhưng... mình đang lộn xộn gì vậy? Khi không lại nghĩ chuyện đâu đâu? Cô ta đến rồi đi, như những người khác, thế thôi Mọi chuyện đến đó chấm dứt, đừng có nghĩ ngợi lung tung. Vậy... liệu sau này còn gặp lại không nhỉ? Dù sao đó cũng là cháu gái của anh Hai Nguyên cơ mà? Mình tin cô gái ấy không phải là người xấu. Con gái mà có cách cảm nhận thiên nhiên sâu sắc như vậy, không thể là người xấu được. Mà cô... chưa có chồng. Nếu có, ông Thành đã kể. Nhưng biết đâu người yêu cô ta lại là một tay pilốt nào đó... Thôi, "tốp" lại được rồi..." 
"Biết làm sao được? Mình chỉ là một con người bình thường, một chàng trai hai lăm tuổi. "Tu luyện" ở đây mới hai năm, dễ gì đã đắc đạo ngay được...". Tôi tự thông cảm cho mình. 
Tôi bưng mọi thứ lên nhà. "Lại giàu to rồi? Phải đến hai trăm lon gạo. Nếu mỗi ngày ăn hai lon, cũng qua được hơn ba tháng. Còn muối đủ dùng trong hai năm. Chẳng ai lạc rừng mà lại được như thế! Sau này có kể lại, chắc ai cũng nghĩ: "Làm gì có chuyện may mắn đến vậy...". Ừ nhỉ! Nếu con người ta có số mệnh, và trên đời có sự may rủi, thì có thể nói số mình luôn gặp may. (Tất nhiên phải trừ ra những lần rủi ro). Hậu quả của việc mất cảnh giác, đến lúc này có thể nghĩ là một kết quả có hậu. 
Sáng dậy tôi chia đôi số gạo muối, cõng một nửa lên giấu trên chiếc trực thăng. Chưa đến ba chục kí, nhưng tôi phải dừng nghỉ mấy lần trên chặng đường hai cây số. Bao giờ mới đủ sức đi từ đây ra tới đường Chín? Lại còn mùa mưa tới, sức yếu thế này rất dễ bị kí sinh trùng sốt rét quật ngã...
Xong việc tuy mệt lừ nhưng tôi không về nhà ngay, mà luồn rừng đi thẳng đến bên ngôi mộ đá. Tôi đốt trầm rồi tần ngần ngồi nhổ những ngọn cỏ mọc trong kẽ đá, thầm kể cho các anh nghe mọi chuyện vừa qua. Dù tin chắc mình làm đúng, nhưng cảm giác có lỗi vẫn cứ day dứt trong đầu. Tôi đã làm tất cả để kẻ bắn chết các anh được đưa về quê quán, mà đành để những người đồng đội thân thiết nhất nằm lại mãi mãi giữa rừng... 
Những ngày sau đó tôi dồn sức vào việc sửa nhà: chôn thêm bốn cột đỡ dưới xà ngang, thay mấy thanh gỗ sàn bị mọt, chặt le về buộc lại vách và căng lại mái nhà. Tấm vải nhựa lợp mái qua mấy mùa mưa nắng lại thêm đốt lửa trong nhà, giờ cứng quèo như mo cau. May lắm nó chịu được một mùa mưa nữa là cùng. 
Việc cuối cùng là kiếm ít thịt về trữ. Sáng nay tôi sửa soạn đi săn. Phải bắn con thú nào lơn lớn một chút, mà phải là loại thú thật nhiều nạc để dễ nướng và sấy khô. Tốt nhất là nai, hoẵng hoặc mang, cùng lắm mới bắn lợn rừng.

Vừa bước ra chưa kịp cài cửa, bỗng nghe có tín hiệu "tít tít…” vang từ chiếc máy truyền tin treo trên vách. Quá đỗi ngạc nhiên, tôi nhào vào nhà chụp máy bấm nút nghe: "…Thủy gọi anh Hải? Đây Thủy gọi..." Đúng là giọng cô ấy? Có phải mình ngủ mê không? Chẳng lẽ cô ta lại lên? Không còn tin ở tai mình, tôi trân trân nhìn cái máy. "Anh Hải đâu trả lời đi? Đây Thủy..." Tôi cuống quít chạy ra cửa nhảy hai bước xuống cầu thang. Đã nghe rõ tiếng trực thăng. Tiếng trong máy vẫn gọi bồn chồn: "Đây Thủy gọi..." 

Tôi đưa máy lên miệng, bấm nút nói: “Tôi nghe đây?". Giọng cô gái như reo lên: "Anh Hải! Anh có sao không? Sao gọi mãi không trả lời?”
Tôi không đáp, chỉ hỏi lại: "Cô lên đây làm gì?” Như bị hụt hẫng, lát sau mới nghe cô nói vào máy: 
- Ba em lên thăm anh! 
- Ôi! Bác lên à? 
Tôi mừng quýnh. Có ông Thành lên là yên tâm rồi. Không ngờ hôm trước nói thế, mà nay ông lên thật. 
- Thế nào? Hạ xuống được chứ? 
Giọng cô gái nghe lạnh tanh và kiêu kỳ, nhưng tôi không chấp. 
- Cô xuống đi! Tôi ra ngay bây giờ! 
Cố nén xúc động, tôi chạy như bay qua bãi cỏ. Con báo hốt hoảng đuổi theo.
Máy bay vừa đáp xuống tràng cát, bụi bay mù trên ngọn cây. Sắp ra khỏi rừng, tôi dừng sau một lùm cây vạch lá nhìn. Chiếc trực thăng đỗ đúng chỗ hôm trước, gần giáp mé rừng. Cánh quạt ngừng quay. Từ cửa hông, ông Thành bước xuống. Theo sau ông có một người nữa. Ai vậy? Cô gái vẫn ngồi trên ghế lái. Hết! Chỉ có ba người. Tôi nhìn kỹ vị khách lạ: ông ta trạc tuổi ông Thành, cũng cao như vậy nhưng vóc người đậm hơn và rắn chắc. Mái tóc hoa râm cắt ngắn, lưỡng quyền cao, cằm hơi bạnh nên vẻ mặt ông ta có nét quyết đoán đến lạnh lùng. Gì nữa? Áo cộc tay màu xám, quần màu nâu sẫm, giày da, chiếc mũ trắng cầm tay..., dáng nhanh nhẹn nhưng vẫn bệ vệ. Đúng rồi? Đây là ông Tùng, bạn của ông Thành, vị đại tá không lực. Ông ta lên đây làm gì? 
Không có thời gian để nghĩ thêm, cứ ra gặp rồi sẽ biết. Tôi giữ vẻ mặt bình thản, khoác súng lên vai đi ra. Thấy tôi, ông Thành vui mừng bước lên mấy bước: 
- A, anh Hải! 
- Chào bác, chào đại tá! 
Tôi niềm nở bắt tay hai ông và gật đầu chào cô gái. Lúc này cô ta mới mở cửa máy bay nhảy xuống, mừng rỡ chạy tới con báo, làm như cô bay hơn trăm cây số lên đây cốt để gặp nó. 
- Sao anh biết tôi là đại tá? - Vị khách lạ bắt tay và nhìn tôi chăm chú.
Tôi mỉm cười trả lời: 
- Tôi chỉ đoán thôi! 
- Ồ! ông ta quay sang nói với ông Thành - Không ngờ anh ấy lại sắc sảo đến vậy! Thiệt là thú vị! 
Tôi thấy bực. Giọng nói có vẻ trịch thượng. Hay ông ta tưởng lên đây sẽ gặp người tiền sử chắc? Tôi hỏi lại: 
- Việc quân bận rộn, đại tá "quá bộ" lên tới đây, hẳn không phải là không có lý do? 
Ông Thành định nói gì đó, nhưng ông ta đã trả lời trước: 
- Xin lỗi anh! Hơi đường đột phải không! Bởi vì anh biết tôi là đại tá, nên tôi quá ngạc nhiên. Tôi với anh Thành lên đây chỉ để thăm anh, mong anh coi tôi như một người bình thường thôi. 
Ông Thành bây giờ mới nói: 
- Đáng ra tôi phải báo trước, nhưng không có cách gì liên lạc được...
Tôi vội ngắt lời ông: 
- Không sao đâu bác ạ! Cháu ở đây một mình, trông được gặp người là mừng rồi, huống hồ lại được bác và... đại tá đây lên thăm. Xin mời mọi người vào trong kia ta nói chuyện. Cũng may cháu định đi săn mà chưa kịp đi. 
- Thủy, xách đồ xuống con! - Ông Thành giục con gái. 
Ba người khách đem xuống mấy cái túi xách và chiếc thùng giấy, chia nhau mang vào. Tôi cũng xách hộ chiếc túi nặng. Cô gái hăm hở bước lên trước ra vẻ người thành thạo. Con báo cứ quấn lấy chân cô, không ngờ nó cũng biết nịnh. 
Chúng tôi đi qua dải rừng non. Hôm nay trời có mây nhưng nắng vẫn rực rỡ, tiếng chim ríu rít khắp nơi. Tôi mời khách ngồi xuống bên chiếc bàn đá. Ông Tùng ngạc nhiên nhìn quanh, nét lạnh lùng trên mặt dường như biến mất. ông ta kêu lên: 
- Chà! Đẹp quá! Anh sống ở đây cứ như là... ẩn sĩ ấy nhỉ! 
- Vâng! - Tôi cười đáp - Có lẽ cũng giống như vậy, chỉ khác ở chỗ lúc nào cũng phải súng đạn kè kè bên người. 
Cô gái bày lên bàn mấy chai nước lọc cùng những chiếc cốc giấy. Hay quá, khỏi phải mời khách uống nước suối. Tôi biết người dưới xuôi lên rất ngại uống nước ở đây. Ai cũng vậy chứ không riêng gì những người khách đặc biệt này. 
- Ông Tùng bàn với cha con tôi lên thăm anh, - ông Thành nói như phân bua - coi như một chuyến pícníc vậy! Quả thực tôi cũng mong có dịp nói chuyện thêm với anh, hôm trước về gấp quá! Mà phải có ông ấy mới đi được, chứ cha con tôi kiếm đâu ra trực thăng? 
- Ông nhìn ông Tùng nói vui - chỉ có đại tá mới dám xài máy bay như vậy! 
- Đồ Mỹ mà! Mình xài được gì hay thì cứ xài. Đem đi đánh nhau mãi cũng phí. Anh không thấy vừa rớt cả mớ đó à? - ông Tùng cũng nói giọng vui vẻ và quay sang tôi - À, anh Hải không biết phải không? Vừa rồi hành quân ở đường Chín, các anh bắn rớt chúng tôi như đập ruồi ấy!

Tôi nhìn ông ngạc nhiên. Lạ nhỉ! Không ngờ một đại tá ngụy lại có cách nói như vậy! Ông ta nói giọng Nam Bộ nhưng ít dùng ngữ điệu vùng trong ấy, chắc tại đi lâu ngày. Tôi chưa có dịp gặp gỡ một nhân vật "quan trọng” cỡ đó. Hồi ở thị xã Quảng Trị có tiếp xúc với vài sĩ quan cấp úy, nhưng lúc đó chúng tôi đóng kịch, nói chuyện như cùng chiến tuyến, mà cũng chỉ nói những chuyện bâng quơ cho phù hợp với hoàn cảnh. Còn ở đây, ông ta biết tôi là ai... 

Ông Tùng lại nói, cắt ngang những suy nghĩ của tôi: 
- Thiệt tình tôi cũng muốn đổi gió một chuyến, chứ chả lẽ cả đời cứ đánh nhau mãi? Hôm trước nghe mấy thằng lính kể chuyện về anh, tôi trông được gặp một lần cho biết... 
- Chắc đại tá muốn nhìn thấy người rừng xem như thế nào? - Tôi buột miệng và thấy áy náy. Ông ta đang là khách, chẳng nên căng thẳng làm gì. Không ngờ ông lại là người xin lỗi trước:
- Xin lỗi anh! Tại tôi nói không rõ ý. Mấy đứa nó kể về anh như huyền thoại... 
- Chúng thua trận, sợ tội nên nói quá lên, đại tá tin làm gì! 
- Là chúng kể cho nhau nghe chứ không phải nói với tôi đâu. Lại còn con Thủy... - Cô gái đỏ bừng mặt, vờ cúi xuống lấy gì đó trong túi xách - ... nó kể chuyện anh như trong xinê...
- Anh Hải, em cho con báo ăn được không? 
- Cô còn hỏi? Nó chẳng ra đón cô từ ngoài cửa máy bay là gì? 
Cô cúi mặt cười ngón ngoẻn, sắc hồng bừng trên đôi gò má cao cân đối. Quả nhiên ông đại tá bị đánh lạc hướng, ngây người nhìn con báo khoái khẩu với món thịt bò. 
Tôi quay sang ông Thành: 
- Bác vẫn khỏe chứ ạ? 
- À, tôi thấy khỏe lên nhiều. - Ông mỉm cười hiền lành. Trông sắc mặt ông tươi tắn, khác hẳn lần trước. Mới một tuần chứ mấy! 
Ông nói tiếp: 
- Giờ tôi chỉ mong hòa bình để gặp lại chú em tôi, gặp thằng cháu trai... 
Ông Tùng ngoảnh lại: 
- Nghe nói anh có quen chú Nguyên phải không? Này, thế chú ấy làm tới cấp gì rồi? 
- Vâng! Tôi cũng tình cờ có biết! - Tôi đáp nhưng không trả lời trực tiếp câu hỏi - Hồi năm năm tư, anh ấy đã dẫn một trung đoàn đi đánh trận Điện Biên đấy... 
Mắt ông Thành sáng rực, còn ông Tùng thì gật gù thán phục: 
- Chà chà! Vậy giờ ít lắm cũng đại tá chứ chẳng chơi đâu! Tôi biết, dòng anh toàn người giỏi mà!
Tôi cố kìm nỗi kinh ngạc. Không biết ông ta thân với ông Thành cỡ nào mà nói chuyện tỉnh bơ. Cứ như là chẳng có nhột khoảng cách nào giữa ông và chúng tôi. Hay đó là tính cách bộc trực của người Nam Bộ? 
- Nhưng anh ấy gàn dở lắm! Tới bữa ăn cơm với tụi cháu, đêm ôm võng xuống nằm nói chuyện. Dạo Mậu Thân, anh ấy cùng đặc công bò vào tận hầm chỉ huy trong sân bay Ái Tử... - Tôi kể tiếp những chuyện về anh Hai Nguyên, rồi nói với ông Thành - Anh ấy có nói hồi anh bỏ học, bác la dữ lắm? 
- Ừ, tính chú ấy vốn vậy, đã quyết việc gì thì đố ai cản được Chú ấy lo không đủ tiền cho cả hai anh em cùng học. - Ông rơm rớm nước mắt - Hồi đó cơ cực lắm anh à! Có củ khoai bữa sáng ăn đi học mà hai anh em cứ nhường nhau mãi, trưa về vẫn còn đó, nguội ngắt... 
- Tôi giống anh Thành, cũng nhà nghèo, cũng hai anh em mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chỉ tréo một chút là bên tôi em đi học còn anh đi lính. - Ông Tùng hể hả nói. 
"Còn có cái khác cơ bản là đi lính cho ai?”, tôi nghĩ vậy và hỏi: 
- Thế bây giờ... người em của đại tá ở đâu ạ? - Chú ấy du học bên Canada rồi ở lại luôn. Lấy vợ ở bển, nhưng cũng người Việt mình. Có bốn con, lớn rồi. Chú em tôi giờ là chuyên viên điện toán trong một chương trình không gian. - Ông trả lời với vẻ tự hào. 
Câu chuyện cứ thế tiếp tục vui vẻ. Trong đầu tôi loáng thoáng mấy chữ "ác ôn", "nợ máu”... Không biết đã lần nào ông ta lái máy bay ném bom xuống quê tôi chưa? Mà ném xuống đâu cũng vậy thôi! Nhưng hình như trong ông còn có một điều uẩn khúc nào đó mà tôi chưa biết được...

Mười giờ trưa. Ông Thành giục con gái nấu cơm rồi quay sang nói với tôi:

- Lúc sáng cứ nôn nao lên đây thành ra chưa ăn uống gì. Tôi đã bảo con Thủy đem đồ nguội đi mà nó không chịu, nói lên giữa rừng nấu ăn thích hơn. 
Cô gái hỏi tôi lấy xoong rồi trút gạo đem đi vo. Họ lại đem cả gạo lên.
- Anh Hải đưa em xuống suối! - Cô bảo. 
Tôi ngần ngừ. Đúng là phải đưa cô ta đi, nhưng để hai ông khách ngồi đây cũng không yên tâm. Con báo thì nhất định chạy theo chúng tôi rồi! Tôi hỏi ông Tùng: 
- Sao lên rừng mà đại tá không mang theo súng? 
Ông ta cười bảo: 
- Lúc sáng cũng định mang khẩu súng săn cho có vẻ đi rừng, mà con Thủy không chịu. Nó nói làm vậy là vi phạm quy định của anh. 
Cô gái cười: 
- Chớ bác biểu sao? Bay trực thăng Mỹ, mang theo súng, không chừng lãnh đạn à! 
Tôi cũng cười, bảo cô đứng đợi rồi ra sau hốc cây đa lấy khẩu súng có kính ngắm khoác lên vai. Còn khẩu kia tôi lên đạn, khóa lại và dựng bên bàn đá. 
- Xin đại tá nhớ giữ súng trong tầm tay. - Tôi dặn. 
Ông nhìn tôi ngạc nhiên: 
- Anh... cẩn thận quá!
- Lúc này đại tá là khách của tôi mà! Nhưng cảnh giác vậy thôi chứ ở đây cũng yên. - Tôi nói rồi bước theo cô gái. 
Đi được một đoạn, cô cười khúc khích: Phải như vầy mới nói chuyện với anh được. Ngồi trên em đâu chen vô được câu nào! 
- Ờ thì... phải để người lớn nói chuyện chứ? 
- Em cũng lớn chớ bộ? 
- Cô bao nhiêu tuổi mà đòi lớn? 
- Em... hăm tư!
- Vậy còn ít hơn tôi một tuổi, chỉ đáng bậc em thôi! 
- Em đâu có đòi làm chị? - Cô cười, nói tiếp - Nhưng thôi, để nói sang chuyện khác. Em có đem lên cho anh bản đồ và địa bàn, giấu trong thùng mì ấy? Mà anh đừng cho ba em và bác Tùng biết. 
- Ôi, cám ơn cô Thủy nhiều lắm? - Tôi mừng rỡ - Nhưng... sao lại phải giấu bác? 
- Thì phải làm vậy cho nó ly kỳ chớ? - Cô cười tinh nghịch. 
Lúc này tôi mới để ý thấy cô nói tiếng miền trong chứ không phải tiếng Quảng, chắc tại lớn lên ở Sài Gòn. Tiếng vùng trong ấy với giọng nói thanh thanh nghe thật hay. 
Cô gái ngồi thụp xuống bên vũng suối, nhưng chưa vo gạo mà đưa tay nghịch nước: 
- Anh Hải này! Ba em vừa đi Tam Kỳ hai ngày đấy? 
- Vậy hả? Chắc bác đi thăm ai? - Tôi hồi hộp nhưng giả bộ thờ ơ hỏi lại. 
- Ba em vô chỗ già Lý. 
- Thế bác kể gì không? 
- Anh lên mà hỏi ba em ấy! Em hỏi, ông cứ ậm à ậm ừ, ra vẻ chuyện người lớn không nói với con nít. - Cô ấm ức. 
Tôi cười: 
- Chắc chẳng có chuyện gì nên bác mới không nói. 
- Đâu phải! Em biết ba đi để tìm cách nhắn cho chú Nguyên. Ôi! Em mong được gặp chú quá? Hồi nhỏ nghe ba em kể hoài. Cả má em cũng đâu biết mặt. Mà... chú giống ba em không anh? 
- Giống lắm! Không phải giống như in đâu, nhưng có nét gì rất dễ nhận. Hôm mới gặp bác, tôi cứ ngờ ngợ mãi mà không nghĩ ra. 
- Nhưng sao anh lại gọi... chú là anh? 
- Thì ông bảo gọi vậy để ông được trẻ lâu!
- Ngộ quá ha! Vậy là em mê chú rồi! - Cô nói như reo. Lúc nào em cũng hình dung chú như một nhân vật kỳ bí, oai phong lẫm liệt... 
Tôi bật cười: 
- Ông là người bình thường thôi, cô đừng nên thần tượng hóa. Nếu cô coi ai đó như vị thánh, rồi sau thất vọng vì thấy họ cũng chỉ là người bình thường, thì lỗi là ở cô đấy! 
- Anh Hải còn trẻ mà ăn nói già dặn ghê ta! 
- Tôi ăn thì được, chứ nói dở lắm, chỉ nghĩ sao nói vậy thôi. 
Cô gái vo gạo. Vùng nước trắng mờ lan dần ra vũng suối trong vắt. 
- Bác và cô rủ ông Tùng lên phải không - Tôi hỏi. 
- Đâu có! - Cô nói - Chính bác ấy rủ đó chớ! Ba em cũng muốn lên thăm anh, nhưng đâu dám hỏi. Còn em làm sao bay trộm được? Mặt đất kiểm soát chặt lắm! 
- Nhưng sao lạ vậy? Tự dưng một đại tá không lực lại... muốn lên đây?
- Anh thấy kỳ lắm sao? 
- Rất may là ông ấy không báo trước, chứ không tôi phải mất ăn mắt ngủ vì lo! - Tôi nới vui. 
- Hôm trước, em với ba em tới nhà để cảm ơn. Lúc em đưa quà, nói của anh gửi biếu, cả hai ông bà đều ngớ người ra rồi mừng rối rít. 
- Vậy sao? Chừng ấy trầm đâu có đáng gì? 
- Bộ anh không biết đó là kỳ nam à? Thứ đó mắc lắm! Nhưng em nghĩ không phải vì nó nhiều tiền. Nếu anh ở vào trường hợp ấy, khi có người ở tận trên rừng chẳng quen biết gì mà lại là người phía bên kia, gởi cho mình một món quà như vậy, thì anh nghĩ sao? 
- À…, chắc cũng có cảm giác như lúc nhận gạo và muối cô đưa lên!
- Ý, chẳng qua em tiếp tế cho Quân giải phóng thôi à nghen! - Cô nhìn tôi cười tinh nghịch, hàm răng trắng đều sáng lên cùng cặp mắt long lanh. - Mà anh đừng lo, dưới đó lên đây có nửa giờ bay chứ mấy! Còn khỏe hơn đi Tam Kỳ!

- Cô đã đi Tam Kỳ? 

- Ừa! Em có vô thăm già Lý mấy lần, từ sau ngày anh em mất tích... Không phải ngay thị xã đâu mà ở vùng ven, toàn đồi không hà! Ở đó hay lắm? Già Lý nói bên... Cách mạng lên về hàng ngày. Mà... lần trước em cũng vô ý quá, không hỏi coi anh cần chi để mang lên... 
- Cô Thủy giúp như thế là quý lắm rồi! Tôi biết ơn bác và cô nhiều lắm.
Cô cúi xuống đưa tay khỏa nước: 
- Nếu nói ơn huệ, gia đình em phải cám ơn anh mới đúng? 
Sao cô lại nói vậy? - Tôi ngạc nhiên. 
Cô im lặng, lúc sau mới nói: 
- Từ hôm ở đây về, ba em khỏe hẳn ra, ăn được ngủ được cười nói vui vẻ suốt ngày. Em biết ba mừng vì đem được anh Trà về bên má, và mừng nhứt là biết tin chú Nguyên. Và em cũng hứa với ba là từ nay không bay nữa. Nhưng ba em biểu cứ từ từ đợi ít lâu, để coi có giúp chi được cho anh không? 
Tôi sững sờ. Ông Thành nói vậy ư? Chưa biết ông định giúp tôi như thế nào, nhưng điều gì khiến ông dám gánh chịu nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng mình và con gái, để giúp một người đã từng bắn chết con trai mình?... 
- Ta lên nhà thôi anh! - Cô gái giục. 
Chúng tôi đứng dậy, bước lên lối mòn. Tôi hỏi: 
- Thế cô Thủy còn... muốn bay nữa không? 
- Có chớ! Đó là ham mê suốt đời của em mà! Nhưng chắc phải đợi đến lúc hòa bình. Còn bây giờ em sợ lắm!
- Cô sợ bác mắng? 
- Không! Khi nào ba em cho, em mới bay. 
- Cô sợ trúng đạn Quân giải phóng? 
- Có sợ nhưng em sẽ bay quá tầm đạn hoặc tránh vùng chiến sự. 
- Vậy cô sợ ổ không khí loãng? 
- Em biết cách tránh! 
- Chứ cô sợ gì? 
- Em sợ nhứt là khi bay đến nơi nào đó, lại có người hỏi: "Cô đến đây làm gì?” - Cô liếc nhìn tôi, cười tủm tỉm. 
Tôi điếng người, nhưng cố chống chế: 
- Thế cô không biết nói sao à? 
- Nói sao? 
- Thì nói là: “Tôi đi thăm con báo!" 
Cô cười rũ làm xoong nước trên tay sóng sánh: 
- Ối! Anh còn khôn hơn quỷ! Mà... Aga nó cũng mến em chớ! 
- Chắc gì! Chẳng qua nó ngửi thấy mùi thịt bò. 
Cô xịu mặt: 
- Anh toàn chọc quê em không hà! 
- Đâu có! Tôi nói con báo đấy chứ! Mà này, nếu thích, tôi cho cô đưa nó về nuôi! 
- Ôi, em thích lắm. Nhưng... ai nỡ bắt nó lìa rừng được… 
Câu chuyện đến đây chấm dứt vì chúng tôi đã lên tới nơi hai ông khách đang ngồi đợi. 
Ông Tùng nói với cô gái, miệng cười cười: 
- Thủy này, lâu lắm rồi mới thấy cháu vui như vậy đấy! 
- Cháu cũng thấy hôm nay trông bác trẻ hẳn ra! 
- Ờ thì... nghỉ ngơi giữa rừng, đầu óc nó thư giãn, người khỏe khoắn hơn. Chứ tao mà trẻ nỗi gì nữa cháu?
- Bác đâu đã già! Mấy bà mấy cô ở... 
- Đứng đó mà lí lắc mãi! Đi nấu cơm đi con? - ông Thành gắt con gái rồi nói với ông Tùng - Sao lên đây ngồi không mà thấy mau đói bụng quá! 
Tôi nói: 
- Tiếc thật? Nếu biết trước, cháu đã đi bắn con thú nào ngon thịt để đãi bác bữa thịt rừng. Mà bác với đại tá có thích câu cá không? 
- Câu cá? - ông Tùng bật dậy. 
- Vâng! Ở suồl đây có thứ cá ngon lắm! 
- Trời! Gì chớ-câu cá là nghề của tôi hồi nhỏ mà! - Ông Tùng ngoảnh sang ông Thành - Ta đi anh! 
- Thôi anh đi với anh Hải. Tôi phụ bếp cho con Thủy. - Ông Thành trả lời.

Tôi lấy hai chiếc cần câu cài bên vách nhà rồi dẫn ông ta ra suối. Chúng tôi ngồi trên gộp đá ở mé dưới vũng suối, nơi có bóng cây che mát. Nước trong leo lẻo, chỉ dưới chân tảng đá chỗ sâu nhất mới thấy tối mờ. Buổi trưa cá ít cắn câu nhưng không sao! Chỉ cần vài con đãi khách là được. 

Tôi tìm giun móc vào lưỡi câu, trao cho ông Tùng: 

- Ở đây nước sâu, đại tá nới phao nữa đi! Loại cá này ăn mồi sát đáy. 
- Ồ, lâu lắm rồi tôi mới lại đi câu. Mà nơi này đẹp quá, anh chọn được nơi ở thật hay. Hèn chi con nhỏ về dưới cứ khen mãi. 
Tôi không rõ "con nhỏ”' khen tôi hay khen con suối, nhưng không tiện hỏi. 
- Có lẽ vì cô ấy yêu thiên nhiên và biết cảm nhận cái đẹp. Nhưng nhìn vậy thôi chứ sống ở đây cũng không phải dễ, khí hậu khắc nghiệt lắm. - Tôi nói, cốt đưa đẩy câu chuyện để tìm hiểu thêm vài việc - Thực tình, tôi rất ngạc nhiên khi thấy bác Thành và cô Thủy trở lại. Và càng bất ngờ hơn khi đại tá cũng lên đây! 
- Tôi biết! Nhưng nếu có suy nghĩ gì, xin anh hình dung sự việc đơn giản hơn. Với chúng tôi, chỉ nửa giờ bay là lên tới đây. Có phương tiện trong tay, tội gì chẳng nghỉ ngơi tí chút! Tướng Kỳ còn lái trực thăng ôm gà đi chọi hàng ngày. Tôi cũng muốn nhân dịp này để cảm ơn anh về món quà hôm trước. 
- Có gì đâu mà đại tá cảm ơn. Tôi rất mến bác Thành dù mới gặp lần đầu. Mà đại tá lại là bạn của bác ấy... 
- Tôi với anh Thành lại khác. Chúng tôi thân nhau từ hồi còn học trung học ở Sài Gòn. Vợ chồng tôi không có con nên coi hai đứa còn ảnh như con mình. Anh Thành gửi gắm cả hai đứa nó cho tôi, vậy mà... tôi không giừ được thằng con trai cho ảnh. Thực ra, với quyền hành của mình, tôi có thể để thằng Trà làm việc gì đó không nguy hiểm. Nhưng tôi đã không làm vì nghĩ điều đó là hèn. Một người lính phải cho ra người lính... 
- Nếu vậy, đại tá đâu có gì phải áy náy! Anh ta đã thể hiện tư cách người lính đúng như đại tá mong muốn. - Tôi nóng nảy cắt ngang lời ông ta. 
Không chú ý tới thái độ của tôi, ông ta trầm ngâm một lúc rồi nói: 
- Tôi không nghĩ như vậy! Thực tế nó là thằng giỏi, một phi công lành nghề dù còn rất trẻ. Nhưng thời gian sau này nó thay đổi nhiều, trở nên liều lĩnh và tàn bạo. Tôi muốn người lính chỉ làm bổn phận của mình chứ không nên hiếu sát. 
- Chắc đại tá phải biết nguyên nhân? 
- Tôi biết! Tất cả chỉ tại thằng cha cố vấn!
"Không hẳn vậy đâu, ngài đại tá?", tôi nghĩ thầm nhưng không nói. Việc cần làm lúc này là moi một ít thông tin. 
- Đại tá muốn nói tới trung tá Cođy? - Tôi hỏi. 
- Con Thủy có kể anh nghe rồi thì phải? Đến giờ tôi vẫn không hiểu hắn làm cách nào mà kéo được thằng Trà theo. Hôm nghe con Thủy nói hắn bay lên tận đây để bắn thử rốc két, tôi càng ngạc nhiên. 
- Thời gian sống ở đây, tôi thấy có nhiều dấu vết chứng tỏ trực thăng đã tới vùng này nhiều lần chứ không chỉ hai vụ bắn nhau với tôi. Chẳng lẽ đại tá không kiểm soát được các chuyến bay ấy? 
- Tôi hiểu anh muốn nói gì. - Ông ta trả lời - đúng ra là phải kiểm soát được. Nhưng máy bay, vũ khí, tiền bạc họ bỏ ra, tôi biết nhưng... cũng khó can thiệp. 
- Thế đại tá không nghĩ ông ta làm gì ở vùng này? Xin lỗi, không phải tôi tò mò, chẳng qua vì thấy những cuộc đụng độ giữa tôi với mấy chiếc trực thăng là hoàn toàn tình cờ. 
- Lúc đầu tôi nghi thằng cha này dính tới mấy vụ ma túy. Chuyện ấy bây giờ không hiếm. Nhưng nếu vậy, anh sống ở đây hai năm phải biết cái gì đó: đường dây vận chuyển, kho chứa, thậm chí cả nơi chế biến... Nếu anh không thấy những thứ đó thì không phải ma túy. Hơn nữa sau vụ thằng Trà chết, rồi cha Cođy bị điều chuyển, mọi việc êm trở lại. 
- Nghe cô Thủy nói, ông ta là người có thế lực? 
- Thế lực gì đâu! Nhưng cũng có thằng bạn mà chả nói là bạn thân từ hồi nhỏ. Tay này là "xịa" chính cống đấy? 
- Đại tá có biết? 
- Hắn có đến chỗ tôi mấy lần. Chúng tôi có uống rượu với nhau, và chỉ thế thôi. Hắn đến cốt gặp thằng cha kia. Hắn tên là John Smith, nghe nói cũng vai vế lắm trong làng tình báo. Có vậy mới gỡ được cho Cođy khỏi ra tòa án binh. 
- Kìa, cá cắn câu, đại tá giật đi! 
Ông ta vung tay. Một con cá đen trũi to bằng cổ tay vùng vẫy dữ dội ở đầu dây. Khuôn mặt ông đại tá sáng bừng niềm thích thú. Ông ta nhoài cả người lên bãi cỏ, cố chộp cho được con cá đang giãy dụa. 
Tôi cũng giật được một con, và bứt nhánh cây xỏ vào mang hai con cá.
- Cá này ngon lắm! Lát nữa đại tá sẽ biết! 
- Ta câu nữa đi! - Ông ta rủ - Chà! Lâu lắm rồi hôm nay tôi mới có cảm giác thú vị như thế này! 
Tôi móc mồi cho cả hai. Ông Tùng buông câu rồi nhìn tôi nói: 
- Anh là một người kỳ lạ! 
- Đại tá chưa nhìn thấy người lính Giải phóng lần nào ư! 
- À, cũng có gặp. Mà mấy thằng chiêu hồi ấy thì nói làm chi! Là một người lính chần chính, tôi coi trọng sự can đảm. Những kẻ hèn nhát, dù ở bên nào, tôi đều căm ghét. 
Tôi hăng máu lên: 
- Theo đại tá, thế nào là một người lính chân chính? 
- Thế anh nghĩ thế nào? - Ông ta thích thú hỏi lại. 
- Người lính chân chính, trước hết phải là con người chân chính. Tôi trả lời.

- Ồ? Cách nghĩ của anh hay lắm, nhưng... chung chung. Theo tôi, đã là người lính thì chỉ làm bổn phận của mình, đừng dính dáng đến chính trị. Tất nhiên phẩm chất hàng đầu phải là dũng cảm, sau nữa, là người giỏi. Tôi là một phi công thành thạo nghề nghiệp và độc lập, không tham gia một đảng phái nào, không lệ thuộc vào phe cánh nào. Anh biết rồi đấy! Chính trường Nam Việt những năm trước liên tục đảo chánh, vậy mà tôi không dính vào ai hết. Tôi chỉ làm công việc của mình. Và tôi giỏi, nên chả ai bắt bẻ được Tướng Thiệu, tướng Kỳ đều cần tôi, mặc dầu hai ông chẳng ưa gì nhau... 

Lối suy nghĩ của ông ta đơn giản, nhưng cũng vì thế là trở nên rắc rối khó hiểu. Dĩ nhiên tôi có quan điểm của mình, nhưng dễ gì nói cho ông ta hiểu, và cũng không cần thiết. Tôi nghĩ vậy nên chỉ nói: 
- Nếu nói không tham gia đảng phái nào, thì còn đúng. Chứ khi đã làm bổn phận, như cách nói của đại tá, có nghĩa là đã phục vụ cho một chế độ chính trị nhất định, ít nhất cũng cho một ý đồ chính trị nào đó. Chỉ có tụi thổ phỉ mới không theo đường lối chính trị nào, còn đại tá đang ở trong một quân đội chính quy. 
Một lát im lặng, rồi ông ta hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập gì với chuyện đang nói: 
- Tôi nghe kể, anh leo lên cây bắn rớt máy bay của thằng Trà? 
- Vâng! - Tôi đáp gọn lỏn. 
- Vậy mà anh còn chôn cất nó và tìm cách nhắn gia đình lên đem nó về? 
- Tôi làm những gì lương tâm mách bảo. - Tôi trả lời và nói tiếp - Cá ăn hết mồi rồi, đại tá mắc lại mồi đi! 
Ông ta nhấc cần câu, cầm con giun nhỏ tôi đưa móc vào lưỡi câu thả xuống nước. 
- Tôi cảm ơn anh về điều đói - Ông nói. 
Chẳng lẽ ông ta cảm ơn về mồi câu? Tôi ngạc nhiên nên hỏi lại: 
- Tôi không hiểu?... 
- Ông Thành là bạn tôi. - ông Tùng trả lời - Khi thằng Trà chết, ông ấy đau đớn gần như không muốn sống, nhưng chẳng hề trách tôi một câu nào. Điều đó càng làm tôi thấy mình có lỗi với ổng. Con Thủy thì sùng sục đòi bay tìm. Còn bà nhà tôi đay nghiến tôi hoài, bả quý hai đứa nó lắm! Vì vậy tôi rất mừng khi thấy từ hôm ở đây về ông Thành tươi tỉnh hẳn lên, có vẻ như đã thăng bằng trở lại. Cả con Thủy cũng thế. Anh không biết rằng tôi đã lo như thế nào mỗi lần nó bay, dù đã bố trí để nó chỉ bay những phi vụ đơn giản, không có đụng độ. Bà nhà tôi thì mừng cuống quít, cứ như tìm được xác con bả không bằng. Hôm nhận được khúc trầm anh gửi biếu, bả ngớ cả người, rồi xoắn xuýt lấy con Thủy để hỏi chuyện. Bà nhà tôi là người nhân hậu anh à! Tôi thương quý bả ở cái tính ấy. Lúc đó tôi thấy lạ, cứ nghĩ mãi, không hiểu vì sao một người như anh lại có sức thu hút đến thế với những người thân của tôi. Giờ thì tôi hiểu, anh là một người linh giỏi và có lòng nhân từ. Một người lính Việt Cộng lại đi vuốt mắt cho kẻ thù của mình lúc đã chết, là điều làm tôi thực sự ngạc nhiên. 
Ông Tùng nói những điều đó một cách chân thành, vì thế nên tôi đâm khó nghĩ, không rõ ông là người thế nào. Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Nếu đại tá không phiền thì cho tôi hỏi, vì sao đại tá lại nghĩ như vậy?
- Tôi nói thẳng thắn với anh, được chứ? 
- Vâng! Tôi cũng mong thế! - Tôi đáp. 
- Tôi không ưa nổi Cộng sản. Xin lỗi, nếu điều đó làm anh khó chịu. 
- Đại tá đừng xin lỗi, và tôi cũng vậy! Chúng ta đã thỏa thuận là nói chuyện thẳng thắn cơ mà! Nhưng vì sao đại tá lại không ưa Cộng sản? Nghe nói hồi trước gia đình đại tá cũng nghèo lắm? 
- Anh tưởng cứ người nghèo thì đi theo Cộng sản sao? 
- Không! Nhưng những người giàu có thường nghi chúng tôi sẽ làm cho họ nghèo đi.
- Tôi không ưa cộng sản vì họ tạo nên loại người cuồng tín. Các anh hô hào; đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, như vậy khi nào mới hết chiến tranh? Chả lẽ cứ đánh giết nhau hết đời này qua đời khác ư? 
- Vì thế nên đại tá thấy lạ khi một người lính như tôi lại có lòng nhân từ? 
Ông ta ngoảnh sang nhìn tôi chăm chú, lát sau mới đáp: 
- Điều đó tôi đã nói rồi! 
Tôi ngập ngừng. Khó mà đưa lý lẽ ra để tranh luận với ông ta những vấn đề lớn đó. Hơn nữa, tôi không được chuẩn bị cho một cuộc tranh luận kiểu này. Dù có giàu óc tưởng tượng đến mấy đi nữa, cũng chưa bao giờ tôi nghĩ đến cuộc chuyện trò kỳ lạ như thế này với một đại tá ngụy ở giữa rừng già. Người đang ngồi bên cạnh tôi có hệ tư tưởng đối nghịch. Và đừng hòng tính tới chuyện thuyết phục một kẻ mà thâm niên chống Cộng lớn hơn cả tuổi đời của tôi, trừ phi chính trong bản thân ông ta đang có sự chuyển biến nào đó.

Tôi nói: 

- Có thể nói, đại tá gặp tôi một cách ngẫu nhiên. Phía Quân giải phóng đâu biết trước một cuộc gặp gỡ như thế này để chọn người chờ sẵn ở đây? Còn tôi, khi tôi làm tất cả những việc như đại tá đã biết, tôi đâu nghĩ là sẽ có ngày gặp ông Thành, cô Thủy và... gặp đại tá? 
- Anh muốn nói rằng, anh chỉ là một trong ngàn vạn người, và phía các anh ai cũng như vậy? 
- Rất mừng vì đại tá hiểu được ý tôi! 
- Tôi hiểu ý anh, nhưng đừng nghĩ là tôi công nhận điều đó! Thế anh nói sao về vụ tàn sát ở Huế năm Mậu Thân? 
- Vì vậy mà đại tá nói chúng tôi là những kẻ cuồng tín? 
- Tôi đưa ra một dẫn chứng!
- Nếu tôi nói đến hai từ "Sơn Mỹ”, chắc đại tá cũng đoán ra ngay sau đó tôi sẽ nói gì! Nhưng việc đó không nên, phải không ạ? Thật nhẫn tâm khi đem sinh mạng đồng bào mình ra làm vật so đo như đặt trên bàn cân, chỉ cốt tính chuyện hơn thua trong một cuộc tranh luận giữa hai cá nhân. Cho nên tôi chỉ nói, phía chúng tôi không hề có một chủ trương như vậy! 
- Các anh vẫn hô hào diệt ác trừ gian? 
- Đúng! Chúng tôi đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Nhưng "diệt và "trừ” ở đây không chỉ có nghĩa là giết. Đại tá nên nghĩ rằng, trong mấy chục ngày đêm Quân giải phóng chiếm giữ thành phố Huế, người dân Huế vẫn sống yên ổn. Họ còn giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. 
- Cái hố chôn xác người ở vùng ven Huế là có thật! 
- Tôi không phủ nhận điều đó! 
- Vậy anh định giải thích thế nào? 
- Thẳng thắn mà nói, tôi không có quyền phán xét. Tôi cũng không có mặt ở đó lúc xảy ra sự việc nên... 
Cá lại cắn câu. Tôi giật được con nữa xỏ vào xâu cá lúc nãy và móc lại mồi thả xuống nước. 
Ông Tùng vẫn ngồi im ý chờ tôi nói tiếp, mắt đăm chiêu nhìn những gợn nước tròn lan ra từ chiếc phao câu nhấp nháy, nhưng hình như không nhận thấy cá đang phá mồi. Tôi nói tiếp: 
- Vụ việc ở Huế lúc đó là sai lầm của một số ít người. Tôi nghĩ sai lầm đó đã gây tổn thất rất lớn cho phía chúng tôi, nhất là khi nó bị các ông lợi dụng để kích động hận thù. Mặt trận dân tộc giải phóng đang kêu gọi toàn dân đứng về phía mình, chúng tôi đâu muốn mọi người mất lòng tin. 
- Cứ cho là các anh không có chủ trương, sao việc đó lại xây ra? 
- Đại tá đừng đề cao chúng tôi quá.
- Tôi đề cao các anh cái gì? Ông ta đảo mắt, ném sang tôi cái nhìn bực dọc. 
- Chúng tôi đi theo Cách mạng với nhiều hoàn cảnh, nhiều trình độ nhận thức khác nhau. Và trước hết chúng tôi là những con người bình thường như mọi người khác. Trong mỗi con người đều có tính thiện tính ác. Rồi có lúc, lòng thù hận thổi bùng lên cái ác ở một số người, nhất là khi họ bị dồn tới bước đường cùng. Dưới sông tàu nã pháo, trên trời phản lực ném bom và trực thăng rỉa đại liên, ở mặt đất bộ binh vây chặn các ngả. Một số người phải dẫn giải lên căn cứ những kẻ mà họ coi là kẻ thù. Là người địa phương, trước đây bản thân họ hoặc gia đình từng phải chịu đau đớn mất mát bởi những kẻ đó. Còn lúc đó, họ đang cận kề cái chết. Rồi trong tâm trạng thất vọng bởi cuộc tổng tấn công ở vào bước thoái lui, họ đã làm những việc không được phép làm. Xin nói thêm với đại tá, số người bị giết đó tuy không mặc áo lính nhưng là những kẻ đang cộng tác với chế độ các ông ở những hình thức hay mức độ khác nhau. Đối với Cách mạng, họ là kẻ chống đối. Tuy nhiên, đáng ra họ phải được xét xử. Tôi cũng nghĩ rằng có những người chưa đáng tội chết, và có người bị oan. 
- Thế bên các anh đã xử những kẻ phạm sai lầm ấy như thế nào? 
- Đại tá nghĩ họ còn sống ư? 
- Sao anh biết là họ đã chết? 
- Tôi không nói thế Tôi chỉ hỏi thế thôi? Tình hình ở Huế lúc đó, hẳn đại tá biết hơn tôi nhiều. Tôi có người bạn nhập ngũ cùng ngày cũng chết ở Thành Nội đợt đó. Cả đại đội chỉ trở về có mấy người. 
- Anh nói rất khôn, nhưng thực ra cũng chỉ nói theo lối tuyên truyền, nhằm bênh vực cho phía các anh! 
- Tôi chỉ nói ra những điều mình suy nghĩ dựa vào những gì mình biết. Đó chỉ là ý kiến cá nhân. 
- Như vậy là anh đồng tình với việc bắn giết những người tay không vũ khí? 
- Không! Tôi hoàn toàn phản đối. 
- Quanh co! Chẳng lẽ anh không nhận ra mâu thuẫn trong cách nói của mình sao? 
Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời: 
- Có lẽ cách diễn đạt của tôi không rõ. Đại tá có muốn nghe một câu chuyện để hiểu thêm ý tôi không ạ?

Đúng lúc đó, ông Thành cùng con gái đi xuống, có con báo lẽo đẽo theo sau. Tôi ngập ngừng định đứng dậy, nhưng ông Tùng đã vẫy tay gọi họ ngồi xuống bên cạnh và nói với tôi. 

- Anh cứ nói đi! 
- Vâng? Hơi dài dòng một chút... - Tôi tiếp tục câu chuyện - Quê tôi ở Vĩnh Linh, vùng đất mà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ được gọi là cái túi bom đạn. Người quê tôi phòng tránh các cuộc oanh kích bằng cách dở nhà làm hầm chữ A và dựa vào thế các triền đồi đất đỏ để đào những địa đạo, thường là sâu trên hai chục mét dưới lòng đất Hẳn đại tá có biết việc này? 
- Anh kể tiếp đi! 
- Lúc có máy bay ném bom, những ai không đủ sức cầm khẩu súng bắn trả đều phải chui xuống nấp dưới địa đạo. Trong một cuộc oanh kích, máy bay Mỹ sử dụng bom khoan, loại bom nổ ngầm trong lòng đất. Phải nói là phi công giỏi! Họ đánh sập địa đạo, chôn sống trong lòng đất gần trăm con người, toàn là người già, trẻ em, phụ nữ có thai... Kết cục thế nào, chắc đại tá cũng đoán được. Người trên mặt đất biết địa đạo bị sập nhưng đành bó tay. Các loại bom phá, bom sát thương đã làm đảo lộn địa hình, không còn nhận ra của địa đạo ở đâu nữa. Mà có biết cũng chàng thể đào nổi hàng ngàn khối đất đá để moi những con người tội nghiệp đó lên. 
- Lúc đó tôi đã vào chiến trường. Nói đúng hơn là vào vùng đất phía nam sông Bến Hải, chứ ở đâu cũng đều là chiến trường cả rồi. Người kể lại chuyện cho tôi nghe là một cậu trai trẻ cùng quê, học sau tôi mấy lớp, mới nhập ngũ hơn tháng. Hồi nhỏ cậu ta rất hiền, vẫn thường bị tôi bắt nạt. Cậu ấy chỉ mê đọc truyện chứ chả bao giờ tham gia vào trò chơi đánh trận giả của lũ trẻ cùng xóm. Đến bây giờ, tôi như vẫn nhìn thấy cậu ấy ngồi trước mặt mình, mặc bộ quân phục rộng thùng thình còn mới tinh, đội chiếc mũ tai bèo mới tinh, và khẩu AK tựa trên vai cũng mới. Cậu ấy ngồi dựa lưng vào vách hầm, thong thả kể chuyện, giọng dửng dưng như không hề có chút xúc cảm nào. Nhưng khi ngẩng lên nhìn cậu, tôi bỗng giật mình: trên khuôn mặt vừa qua tuổi thiếu niên đó đang giàn dua nước mắt, những giọt nước mắt lạnh vì không có tiếng khóc. Và khủng khiếp nhất là đôi mắt. Đôi mắt cậu ấy lóe lên một thứ ánh sáng kỳ lạ mà tôi không biết tả thế nào, chỉ có cảm giác là nó giống mắt của một con ác thú. Kể xong chuyện, cậu ta thề sẽ xé xác bất cứ tên giặc nào mà cậu bắt gặp... Mẹ cậu và hai đứa em..., không, ba đứa mới đúng vì còn một đang trong bụng mẹ, cả bốn mẹ con đều chết dưới địa đạo. 
Sau này nhiều lần tôi cố nghĩ xem những người dưới địa đạo còn sống được bao lâu nữa sau khi cửa hầm sập, mà chịu không đoán được, và cũng không hiểu mình nghĩ như vậy để làm gì? Có thể lúc những chiếc máy bay về tới căn cứ thì dưỡng khí trong địa đạo cạn? Cũng có thể khi các phi công mở sâm banh uống mừng một phi vụ trót lọt và kéo nhau vào tiệm nhảy thư giản, thì những người dưới lòng đất bắt đầu bị ngạt? Đại tá thử hình dung xem họ làm gì lúc đó? Họ có nghĩ gì không? Những người mẹ ôm con gào thét đến điên dại? Những người già cào cấu xé rách lồng ngực? Họ giãy dụa trong lòng đất tối om như âm phủ và mãi mãi nằn lại dưới đó. Tất nhiên chẳng có ai quay phim chụp ảnh được họ, dù với mục đích gì đi nữa. Liệu có thể nói rằng bàn tay ấn nút cắt bom của những phi công đó sạch sẽ không? 
Tôi ngừng lời. Mọi người im lặng. Nắng đã tràn tới gộp đá, bóng râm thu lại dưới gốc cây. Tôi rút dao găm đứng dậy: 
- Để tôi đi làm cá. Loại cá này nướng ăn ngon lắm! Ông Thành kéo tay tôi:
- Anh để con Thủy nó làm. Ta ngồi vào đây cho mát! 
Cô gái đỡ cây dao, xách xâu cá bước xuống bờ nước. Tôi đang ngần ngừ thì ông Tùng cuốn dây câu đi lên ngồi dưới gốc cây, ý muốn nói chuyện tiếp. Chả lẽ các vị khách không đói sao? Ông Thành và tôi lên theo, ngồi xuống vạt cỏ. 
Ông Tùng khơi chuyện trước: 
- Có phải anh muốn nói cậu ấy có mặt ở Huế trong Mậu Thân? 
- Không! Cậu ấy chết sau đó mấy ngày. Chết vì giẫm phải mìn chứ chưa kịp bắn một phát súng thù nào. Nhưng những chuyện như thế bây giờ nhiều lắm, ở đâu cũng có. - Tôi ngưng một lát rồi nói tiếp - Không rõ câu chuyện vừa rồi có giúp đại tá hiểu thêm ý tôi nói lúc nãy không ạ? 
- Tôi biết! Anh muốn đề cập đến nguyên nhân của nguyên nhân. - Ông nói, mắt vẫn nhìn đăm đăm con thác nhỏ lúc này đang chói nắng sáng lóa - Anh kể tôi nghe một câu chuyện để nói về lòng căm thù, theo cách nghĩ của các anh. Nhưng sự việc đó chỉ là rủi ro. Các trận oanh kích vào Bắc Việt chỉ nhằm phá hoại các căn cứ quân sự, ngăn chặn việc chuyển người và vũ khí của chính quyền Hà Nội vào Nam Việt. Và anh nên nhớ: lúc sử dụng các phương tiện chiến tranh hiện đại, sai số kỹ thuật là cho phép. 
Tôi cười nhẹ: 
- Tôi không hiểu là ai cho phép, nhưng đại tá dùng từ hay lắm! Để nói tới rủi ro trong chiến tranh, trước đây người ta thường dùng "tên bay đạn lạc", còn bây giờ đại tá lại nói: "sai số kỹ thuật"! Nhưng khi người Mỹ đánh phá miền Bắc, làm gì có sai số? 
- Anh lầm! Dù phương tiện, vũ khí có hiện đại đến đâu, những sai sót là điều không tránh khỏi. Nhất là khi các mục tiêu quân sự nằm lẫn với khu vực dân cư, và phi công phải bay trên một vùng hỏa lực phòng không dày đặc. 
- Tôi chưa được bay bao giờ, không biết có sợ như lúc... ngồi dưới trận bom B52 hay không? - Tôi nói, không giấu sự mỉa mai - Nhưng đại tá nói như thế, thì mấu chốt cuối cùng của vấn đề vẫn là yếu tố con người. Tôi cũng nghĩ vậy! Không thể coi khẩu AK là biểu tượng của chúng tôi, còn cây AR15 là biểu tượng của phía các ông. Chính vì thế nên tôi không lầm. Khi Mỹ đã tuyên bố "đánh cho Bắc Việt trở lại thời kỳ đồ đá", thì bom đạn ném xuống đâu cũng đều trúng tích, cũng nhằm hủy diệt, làm gì có "sai sổ” hay rủi ro?

Cô gái làm xong mớ cá, bước lên bãi cỏ ngồi xuống cạnh con báo. Ông Thành nãy giờ vẫn ngồi im chưa nói gì. 

Ông Tùng thôi không nhìn ra thác nước nữa mà quay sang tôi, nói chậm rãi: 
- Chẳng phải trong luận thuyết của Cộng sản các anh thường sử dụng mối liên hệ nhân quả đó sao? Nếu chính phủ Hà Nội không đổ quân vào Nam Việt thì làm gì có cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc? Việt Nam cộng hòa là một chính thể quốc gia được nhiều nước trên thế giới công nhận. Lúc các anh mang vũ khí vượt qua vĩ tuyến mười bảy là đã thực hiện một cuộc xâm lăng trắng trợn. 
Tôi nhìn ông, cố giấu vẻ tò mò. Ông ta nghĩ vậy thật sao? Khuôn mặt có nhưng nét rắn rỏi giờ tối sầm lại dưới vành lưỡi trai của chiếc mũ thể thao màu trắng. Đôi mắt mệt mỏi và hai mí mắt dưới sùm sụp dường như đang phồng lên làm nét mặt của ông ta trở nên nặng nề khó hiểu. 
Tôi nói: 
- Tôi không nhớ những nước nào đã công nhận chính quyền của các ông, có phải mấy nước đưa quân chư hầu sang giúp các ông đó không? Còn vì sao họ công nhận, tôi nghĩ mình cũng đoán được... Nhưng thôi! Xin lỗi, tôi hỏi điều này hơi tò mò, đại tá quê ở đâu ạ? 
ông Tùng nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời: 
- Tôi quê miệt Tiền Giang. 
Tôi nói thong thả: 
- Có một nhà thơ khi nói về những người đi mở mang vùng đất phương nam, đã viết hai câu thơ nổi tiếng: “Từ độ mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...". Hai câu thơ ấy rất hay, phải không ạ? Nhất là về ý nghĩa lịch sử. Không biết ông cha xưa cầm cuốc cầm phảng đi mở đất, có nghĩ rằng đến lúc nào đó thế hệ con cháu sẽ tự chia cắt đất đai bờ cõi không? Và hơn thế nữa, có vị tổng thống nào đó của các ông đã tuyên bố một câu xanh rờn: "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến mười bảy...". Tôi không nhớ vị nào đã nói thế, vì có dạo phía các ông quốc trưởng, tổng thống thay đổi xoành xoạch. Nhưng chỉ có những kẻ như vậy mới coi việc người Việt Nam đi đánh giặc ngay trên đất nước mình là xâm lược. Thế đại tá nghĩ sao về việc quân Mỹ cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại từ bên nước Mỹ kéo sang đây? 
Ông Tùng bực bội cau đôi mày rậm. Cô gái nhìn hai chúng tôi lo lắng. Riêng ông Thành nét mặt rạng rỡ hẳn lên. Điều đó làm tôi yên tâm.
- Hoa Kỳ là đồng minh của chúng tôi. Họ giúp chúng tôi cũng như Nga Xô đứng bên các anh vậy? - Ông Tùng mệt thỏi trả lời. 
- Khác nhiều chứ! Mỹ đổ vào miền Nam hơn nửa triệu quân. Trước đây có đài phương Tây đã nói mỗi tháng có từ năm đến sáu trắm lính Mỹ chết ở Việt Nam. Còn ở miền Bắc, theo tôi biết cũng có một số chuyên gia Liên Xô, nhưng không đông và phần lớn là chuyên gia về kinh tế. 
- Cá nhân tôi cũng chẳng ưa gì người Mỹ, - ông Tùng nói giọng gay gắt - nhưng họ giúp đỡ chúng tôi, chiến đấu và đổ máu cùng chúng tôi. Còn các anh thì sao? Nga Xô và Trung Cộng giao cho các anh một mớ vũ khí, và thế là các anh đánh thí xác. Tôi khâm phục lòng dũng cảm của những người lính phía các anh, nhưng sao các anh không nghĩ rằng chính quyền Hà Nội đang làm tên lính xung kích cho Nga Xô ở bên bờ Thái Bình Dương, và biến những người lính các anh thành những kẻ hy sinh mù quáng? Hà Nội đã chà đạp lên hiệp nghị Giơnevơ, biến khu phi quân sự phía bắc sông Bến Hải thành căn cứ quân sự để làm bàn đạp xâm lăng Nam Việt. Anh đừng lấy làm lạ khi quê anh trở thành cái túi bom đạn... 
Mặt tôi nóng ran. Tôi nghe rõ tiếng mạch đập thình thịch trong đầu và người rực như sốt. Sự phẫn nộ làm cả người tôi rung lên. Quay mặt đi để khỏi nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông Thành cùng nét mặt bối rồi của cô gái, tôi nhìn xuống dòng suối, tai cố lắng nghe tiếng nước chảy, mắt tìm mấy bóng cá mờ mờ khi ẩn khi hiện trong khe đá. Lát sau thì trấn tĩnh lại được. Tôi nói: 
- Theo hiệp nghị Giơnevơ, cuộc tổng tuyển củ sẽ tiến hành sau hai năm. Nhưng điều đó không bao giờ thực hiện được, bởi ngay từ đầu, chính quyền Diệm đã hô hào “lấp sông Bến Hải”, gào thét "Bắc tiến”. Làng tôi chỉ cách giới tuyến có bảy cây số. Hồi đó bọn trẻ con chúng tôi nghe vậy sợ lắm! Còn người lớn thì lo lắng đào những cái hố cá nhân trong vườn nhà và dặn bọn trẻ chúng tôi, nếu có phái đoàn quốc tế tới hỏi thì nói là đào hố trồng chuối... Họ sợ mang tiếng hiếu chiến, sợ "vi phạm hiệp nghị"! Quê tôi mà là căn cứ quân sự ư? Chắc đại tá cũng biết, khi máy bay Mỹ lần đầu ném bom Vĩnh Linh, ở đây người ta bắn trả bằng những thứ vũ khí gì? Không cần đến tin tức tình báo, chỉ nhìn vào những vết đạn trên máy bay của tướng Kỳ, những ai là phi công đã trải qua chiến đấu đều biết rõ đó là đạn của các loại súng bộ binh cổ lỗ sĩ. Hôm đó chính tướng Kỳ dẫn những chiếc AD6 của không lực các ông tham gia đánh phá, dù chỉ mang tính chất tượng trưng, và đã tỏ ra rất "tự hào” về những vết đạn trên máy bay mình. Những việc này hẳn đại tá rõ hơn tôi. 
Còn những điều khác mà đại tá vừa nói, đài Hoa Kỳ và đài BBC nói mãi rồi, hồi trước tôi có nghe. Thú thực là nghe trộm thôi. Ở bên chúng tôi, lính trẻ như tôi không được nghe những đài đó. Nhưng những gì người Mỹ đã làm ở Việt Nam là tội ác chứ đâu phải sự giúp đỡ? Đại tá bay trên trời, chắc chỉ nhìn thấy cảnh bom đạn chết chóc từ xa hoặc qua ảnh chụp trên máy bay, chứ chưa ngồi dưới những đợt bom B52 hay đi trong màn sương mờ mờ của hóa chất làm trụi lá từ máy bay rải xuống. Đại tá đâu phải hít vào phổi thứ mùi ghê rợn thường có sau trận bom: mùi tanh nồng của máu trộn lẫn với mùi khói bom và mùi xác người cháy khét lẹt... 
Đại tá bảo, quân Mỹ đổ máu cùng các ông? Quả có thế! Nhưng để làm gì? Người Mỹ thực dụng lắm mà! Nợ gì còn trả được, chứ nợ xương nợ máu lấy gì để trả? Cho nên tôi chẳng hề lấy làm lạ khi thấy trước những việc làm mờ ám của một trung tá cố vấn, mà đại tá lại nói: “Tôi biết nhưng cũng khó can thiệp"... 
- Anh thật... quá quắt? - Ông ta nói như quát, mặt phừng phừng giận dừ. 
Tôi điềm đạm hỏi: 
- Đại tá có cần tôi phải xin lỗi không ạ? 
- Không cần? - Ông ta phẩy tay 
- Mà... anh định xin lỗi điều chi? 
- Tôi chỉ xin lỗi vì đã làm buổi đi câu của đại tá mất vui! 
Ông Tùng nhìn tôi chằm chằm, rồi bỗng cười lớn: 
- Hay lắm? Tôi sẽ rất thất vọng nếu anh xin lỗi về những lời nối thẳng thắn vừa rồi... 
Ông Thành và con gái thở phào nhẹ nhõm. Còn tôi mãi sau này mới hiểu vì sao ông ta lại nói như vậy. 
- Nhưng hôm nay tôi chưa định tranh luận với anh đâu đấy! - Ông Tùng nói tiếp. 
Tôi đáp: 
- Vâng, tôi cũng nghĩ thế? Thấy đại tá nói rất ít... 
Nét mặt ông giãn ra và dịu hẳn lại. 
Không ai bảo ai, cả bốn chúng tôi cùng đứng dậy. Tôi giục mấy vị khách lên nhà trước, rồi chạy xuống đoạn bờ suối phía dưới chặt mấy tàu lá chuối. Lúc quay trở lại, thấy ba người đã lên gần đến nhà. Cô gái vác khẩu tiểu liên trên vai, tay xách xâu cá chân bước thoăn thoắt, mái tóc kẹp thòng đung đưa sau lưng. Giá có thêm chiếc mũ tai bèo...




< Trước     Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối