27/07/2015

Ải Nam Quan ngày xưa


Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan: “Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là “Ðại Nam Quan”, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề “Trấn Nam Quan”, dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ “Trung ngoại nhất gia”, dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có”Chiêu đức đài”, đằng sau đài có “Ðình tham đường” (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có”Ngưỡng đức đài” của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ.”

 Theo “Ðịa dư các tỉnh Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Ðỗ Ðình Nghiêm (Nhà in Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội, 1926): “Cửa Nam Quan ở ngay biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Kể từ Hà Nội lên đến tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km; đến cây số 152 là chợ Kỳ Lừa; đến cây số 158 là Tam Lung; đến cây số 162 là Ðồng-Ðăng; đến cây số 167 là cửa Nam Quan đi sang Long Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng Ðăng lên cửa Nam Quan có 5 km; từ Kỳ Lừa lên Nam Quan mất 15 km [về phía tây nam chợ Kỳ Lừa có động Tam Thanh, trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng Sơn] và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn lên Nam Quan là 17 km.”

 Các bức ảnh trong bài này sắp xếp không theo trình tự thời gian, mà theo trình tự không gian của chuyến đi từ Đồng Đăng sang Long Châu – Trung Quốc. Trong số đó có các bức ảnh do vợ chồng Imbert chụp vào khoảng thời gian cuối năm 1906, trong chuyến đi tới vùng biên ải Trung Hoa.

La région de Dong Dang au début du XXe siècle.

Hình 1: Thị xã Đồng Đăng nhìn từ đỉnh cao của trạm quan trắc, nơi đóng quân của một đội trưởng bộ binh bản xứ và một trung úy Pháp. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906 – trang Ecpad)

 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Hình 2: Ga Đồng Đăng, ga cuối trên biên giới của tuyến đường sắt đường sắt Hà Nội – Vân Nam. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906).
 
Ai Nam Quan (2)
Hình 3: Một trong những bức ảnh của tạp chí LIFE về Việt Nam thời thuộc Pháp. Hình ảnh chuột Mickey cầm súng đứng gác giúp ta ước đoán bức ảnh được chụp vào những năm 30, khi hình tượng chuột Mickey trở nên nổi tiếng khắp thế. Bảng chỉ dẫn mang dáng hình cửa ải ghi rõ khoảng cách từ Đồng Đăng đến Nam Quan là 4 km. Hoạt động canh giữ cửa khẩu biên giới thể hiện qua số lượng binh sĩ và các xe quân sự
 
Ai Nam Quan (1)
Hình 4: Chỉ dẫn ghi trên tường: Đường sang Trung Hoa qua cửa Nam Quan
 
 
(Hình 5: Ảỉ Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng)
 
 
Ai Nam Quan (35)
Hình 6: Đường lên biên giới Việt – Trung đi qua những ngọn núi. Đường mòn quanh co, gập ghềnh qua những sườn dốc nguy hiểm.
 
 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Hình 7: Cùng một góc chụp với bức trước
 
Ai Nam Quan (3)
Hình 8: Đồng Đăng – Đồn canh của Pháp trên đường biên giới. Nhìn về phía Ải Nam Quan. Đã hiện ra vệt mờ của bức tưòng thành trên sườn dốc của ngọn núi bên phải dẫn tới điểm cao nơi đặt đồn canh của Pháp
 
Ai Nam Quan (4)
Hình 9: Đồn Pháp nhìn từ Ải Nam Quan
 
3012h
Hình 10: Một bức trong loạt bưu ảnh “Đồn và lô cốt địa đầu Bắc Bộ” – Nam Quan: Cửa khẩu sang Trung Quốc. Đồn biên giới Trung quốc và lô cốt Pháp
 
Ai Nam Quan (5)
Hình 11: Hình chụp từ cao điểm thấy rất rõ hai cửa quan 
 
Ai Nam Quan (6)
Hình 12: Toàn cảnh Ải Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng. Đã thấy rõ hai cửa quan: cửa của Việt Nam nhỏ bé, khiêm nhường, một tầng mái, cửa của Trung Hoa lớn hơn, hai tầng mái. Một dải tường thành chạy lên núi từ hai bên cửa quan Trung Hoa. Trên con đường chạy về cận cảnh bức ảnh có một số nhân vật đang di chuyển. Rõ ràng, mặc dù về mặt tự nhiên đây là vùng rừng núi, nhưng cả người Pháp và nhà Thanh đều chủ ý để khu vực cửa khẩu trơ trọc nhằm theo dõi mọi biến động.
 
761b
Hình 13: Ải Nam Quan (trước) năm 1905. Dù hướng chụp chính diện làm cho cửa quan của Việt Nam lẫn vào công trình đồ sộ của nước lớn Trung Hoa, nhưng vẫn thấy rõ ba tầng mái của hai cửa quan. Hai phía Ải Nam Quan của Việt Nam cũng có hai bờ tường chạy về hai ngọn núi, nhưng ngắn hơn và có hình bậc thang.
 
Ai Nam Quan (33)
Hình 14: Khoảng cách chụp gần lại, phân biệt rất rõ hình dáng của hai cửa ải
 
Ai Nam Quan (8)
Hình 15: Hướng chụp từ trên điểm cao cho thấy giữa hai cửa quan là một vùng đệm. Bưu ảnh gửi đi ngày 6.03.1907
 
Ai Nam Quan (7)
Phụ ảnh với chú thích của người sử dụng
 
Ai Nam Quan (9)
Hình 16: Vị trí chụp từ đường đi.
 
Ai Nam Quan (11)
Hình 17: Việc ghi thời điểm chụp bức ảnh này là ngày 2 tháng 8 năm 1940 như phụ ảnh dưới hoàn toàn không có cơ sở. Đến cuối năm 1906 cửa quan của Trung Hoa chỉ còn một mái lầu (xem hình 2…6), nhưng trong bức ảnh này ta vẫn thấy rõ hai mái lầu giống như các bức ảnh chụp trước đó.
 
Ai Nam Quan (10)
Hình phụ: có thể suy luận ngày 02 tháng 8 năm 1940 là ngày đăng bức ảnh này trêm một tài liệu (báo) nào đó, chứ không phải ngày chụp. 
 
Ai Nam Quan (14)Hình 18: Khoảng cách từ phía người chụp rút ngắn lại
 
Ai Nam Quan (12)
Phụ ảnh: Bức tô mầu hình 16
 
Ai Nam Quan (18)
Hình 19: Một bức bưu thiếp rất đẹp và có giá trị bởi dòng lưu bút của người sử dụng cho biết vị trí Ải Nam Quan cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 17 km, được tu sửa vào năm 1908…
 
Ai Nam Quan (16)
Hình 20: Một tốp lính và sĩ quan Pháp trước Ải Nam Quan
 
Ai Nam Quan (17)
Hình 21: Cận cảnh
 
Ai Nam Quan (20)
Hình 22: Hoạt động bang giao diễn ra nơi cửa khẩu có vẻ rất hòa hảo. Còn nhớ sau Công ước Thiên Tân 1885, người Pháp đã xúc tiến một dụ án rất tham vọng: xây dựng mạng lưới đường sắt từ phần lãnh thổ Đông Dương sang Vân Nam. Tuyến đường này khánh thành ngày 31 tháng Ba năm 1910.
 
Ai Nam Quan (19)
Hình 23: Một bức ảnh vô cùng quý hiếm với cận cảnh hình trang trí trên cửa ải, các vòm cổng của hai bên, cũng như bức bình phong chắn ngang phía Trấn Nam Quan 
 
Ai Nam Quan (13)
Hình 24: Đây là một bức ảnh gây tranh cãi bởi sự khác biệt trong hình dáng của Ải Nam Quan
 
Ai Nam Quan (15)
Hình 25: Vùng đệm nằm giữa hai cửa quan. Hướng chụp vẫn từ phía Việt Nam. Người chụp đứng trên sườn núi, ngay sau phia bức tường đá. Quả là người Trung Hoa rào rậu rất kĩ. Trấn Nam Quan (cửa quan của Trung Hoa) xây liền sau bờ tường thành chạy từ trên ngọn núi đá vôi xuống. Chỗ cao nhất của bờ thành gần tới mái của cửa quan. Bên trái bức ảnh, ở lưng chừng núi có một công trình giống ngôi miếu (ở hình số 15 ta đã có thể nhìn thấy nó). 
 
Ai Nam Quan(46)
Hình 26: Vùng đệm nằm giữa hai cửa quan. Phía sau cửa quan Trung Hoa có một bức bình phong
 
Ai Nam Quan (26)
 

Hình 27: Viên quan nhà Thanh phụ trách Trấn Nam Quan
 
Ai Nam Quan (37)
Hình 28: Một viên quan nhà Thanh chỉ huy quân đội trấn giữ cửa ải
 
Ai Nam Quan (38)
Hình 29: V.iên quan nhà Thanh cùng tùy tùng mang cờ phướn khi sang giao tế vùng đất thuộc Pháp
 
Ai Nam Quan (23)
Hình 30: Sang địa phận Trung Hoa. Đối diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang. Trong kiến trúc cổ, theo quan niệm phong thủy, bình phong có tác dụng khắc phục, hạn chế những yếu tố xấu, phát huy những yếu tố tốt về phong thuỷ. Bức bình phong chắn sự dòm ngó từ ngoài vào. Hoạt động ngoại giao nơi này diễn ra sôi động với chương trình khảo sát, hoạch định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh. Có thể phân biệt được quan chức Pháp trong bộ Âu phục trắng, cưỡi ngựa trắng và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các nhân vật trong ảnh. Hãy chú ý đến cụm nhà ngói có tường bao ở góc trái bức ảnh.
 
Hình 31: Bức ảnh có dòng lưu bút đề ngày 9.08.1907. Các quan chức Pháp – Hoa chụp ảnh kỉ niệm bên bức bình phong
 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Hình 32: Những đứa trẻ Trung Hoa trên cửa ải. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906)
 
Ai Nam Quan (22)
Hình 33: Thời gian trôi qua thể hiện qua chiều cao cây cối. Ta dễ dàng nhận thấy Trấn Nam Quan chỉ còn một mái lầu và xuất hiện hàng lan can. Có thể cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan năm 1907 của Tôn Trung Sơn đã làm thay đổi diện mạo của cửa quan này.
 
Ai Nam Quan (21)
Hình phụ: Dấu bưu điện 1911. Hãy để ý đến hai người đàn ông mặc Âu phục mầu trắng đứng gần bức tường bao của cụm nhà trước cổng quan. Vóc dáng, tư thế, và đồng phục cho biết họ có thể là những viên chức Pháp làm việc tại văn phòng quản lý biên giới. Cụm nhà nhỏ nơi họ đứng trước kia Quan Đế Miếu (miếu thờ Quan Công) và Đền Chiêu Trung. Năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 văn phòng được xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp, nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu”. Công trình vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng thông tin không rõ ràng, có phần mâu thuẫn về niên đại lịch sử khiến Pháp Quốc Lầu có một lai lịch mờ ám (Đọc thêm tại đây
 
Ai Nam Quan (32) 
Hình 34: Trấn Nam Quan nhìn từ điểm cao phía Trung Hoa. Vẫn thấy rõ bức bình phong và cụm nhà ngói trước cổng quan. Trên đỉnh núi bên trái có một danh trại khá lớn.
 

Ai Nam Quan (29)
Phụ ảnh: Dòng lưu bút ghi ngày 17.04.1911. Bưu cục Lạng Sơn đóng dấu ngày 19.04.1911
 
Ai Nam Quan (27)
Hình 36: Ngôi làng Trung Hoa ở Nam Quan (trong khung mầu vàng của phụ ảnh 34). Hai dãy nhà lá nằm bên con đường lát đá. Đây có lẽ là khu dân cư, cuối đường có một khu nhà ngói khang trang hơn có lẽ là doanh trại hoặc khu gia binh
 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Hình 37: Ngôi làng nhìn từ điểm cao
 
Ai Nam Quan (30)
Hình 38: Xử trảm một người Hoa tại khu vực Ải Nam Quan
 
47
Hình 39: Một lễ hội người Hoa ở Lang Cang Tchap gần Ải Nam Quan
 
Xen vào loạt ảnh của Union Commerciale Indochinois, chụp cùng một thời gian, đánh số từ 228 đến 233, miêu tả con đường từ Ải Nam Quan sang Long Châu, là những bức ảnh của vợ chồng Imbert Edgard chụp cuối 1906
 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Vợ chồng Imbert được những người Trung Hoa đưa tới ngôi làng Loc Kan Thiap.
 
233x
233. Đường đi Long Châu chạy qua khu vực những đồi cỏ
 
232b
232. Phong cảnh đường đi Long Châu
 
229
229. Một dinh thự trên đường đi Long Châu. Không rõ Loc Hang Thiap là địa danh gì?
 
La région de Dong Dang au début du XXe siècle.
Vợ chồng Imbert chụp ảnh trước dinh thự của chỉ huy tên Sen ở Loc Hang Thiap
 
Ai Nam Quan (5)
Cùng người đồng hương và chủ nhà Trung Hoa đến thăm một nhà hát ở Loc Hang Thiap
 
228v
228. Những ngôi miếu….
 

Hơn 100 năm đã trôi qua từ lúc người Pháp chụp những bức hình trên. Vạn vật đã đổi thay. Một mầm cây non có thể đã trở thành cổ thụ. Một con sông có thể đã cạn khô hay đổi dòng. Một ngọn núi có thể đã trở thành bình địa. Các triều đại cũng vậy. Ải Nam Quan xưa có phải là Hữu Nghị Quan ngày nay? Người ta sẽ chẳng tranh cãi khi xung quanh nó không có những bức màn bí ẩn. Dù thế nào, trong tâm thức mỗi chúng ta dải đất hình chữ S bắt đầu từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

20/07/2015

Thanh kiếm võ sĩ đạo Nhật Bản

Thanh kiếm truyền thống của Nhật Bản hơi cong, rất sắc và là biểu tượng cho danh dự của võ sĩ samurai.

Thanh kiếm Nhật Bản được bán đấu giá 418.000 USD tại New York, Mỹ năm 1992. Nó còn có tên gọi khác là Katana, dài, hơi cong và rất sắc. Võ sĩ Nhật rất trọng dụng và luôn đeo loại vũ khí này. Katana thường cặp với Tanto, loại kiếm ngắn hơn. Katana dùng để chém đối phương trong tác chiến, còn Tanto để đâm khi áp sát kẻ địch hoặc để võ sĩ mổ bụng tự sát. Bộ đôi trở thành biểu tượng cho tác phong, danh dự của võ sĩ xứ mặt trời mọc và gắn liền với văn hóa, lịch sử Nhật Bản. Ảnh: Christies Images
1h
Thanh kiếm Nhật Bản được bán đấu giá 418.000 USD tại New York, Mỹ năm 1992. Nó còn có tên gọi khác là Katana, dài, hơi cong và rất sắc. Võ sĩ Nhật rất trọng dụng và luôn đeo loại vũ khí này. Katana thường cặp với Tanto, loại kiếm ngắn hơn. Katana dùng để chém đối phương trong tác chiến, còn Tanto để đâm khi áp sát kẻ địch hoặc để võ sĩ mổ bụng tự sát. Bộ đôi trở thành biểu tượng cho tác phong, danh dự của võ sĩ xứ mặt trời mọc và gắn liền với văn hóa, lịch sử Nhật Bản. Ảnh: Christies Images
Kiếm ngắn và dài thế kỷ 17 được trang trí giống nhau của thợ rèn Echigo no Kami Kanesada. Tokugawa Ieyasu (1543 - 1616), vị tướng Nhật Bản, từng nhận định rằng lưỡi kiếm cong chính là "linh hồn của võ sĩ đạo", biểu tượng cho tâm huyết của võ sĩ với môn võ. Trong suốt hơn 1.000 năm qua, các thợ rèn bậc thầy của Nhật đã cho ra đời loại vũ khí này, dẫn đầu thế giới về tiêu chuẩn thủ công, thẩm mỹ và sự huyền bí. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
1
Kiếm ngắn và dài thế kỷ 17 được trang trí giống nhau của thợ rèn Echigo no Kami Kanesada. Tokugawa Ieyasu (1543 - 1616), vị tướng Nhật Bản, từng nhận định rằng lưỡi kiếm cong chính là "linh hồn của võ sĩ đạo", biểu tượng cho tâm huyết của võ sĩ với môn võ. Trong suốt hơn 1.000 năm qua, các thợ rèn bậc thầy của Nhật đã cho ra đời loại vũ khí này, dẫn đầu thế giới về tiêu chuẩn thủ công, thẩm mỹ và sự huyền bí. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
Họa tiết trên kiếm về các chiến binh samurai. Hơn 100 thanh kiếm cổ đã được công nhận là bảo vật quốc gia. Nhiều thanh bị mất hoặc thất lạc trong Thế chiến II và thời gian sau đó. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
1
Họa tiết trên kiếm về các chiến binh samurai. Hơn 100 thanh kiếm cổ đã được công nhận là bảo vật quốc gia. Nhiều thanh bị mất hoặc thất lạc trong Thế chiến II và thời gian sau đó. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
Bức tranh về võ sĩ Nhật Bản mang đồ đạc trên vai và đeo Katana, dao găm bên hông khoảng năm 1850. Ảnh: Getty
Bức tranh về võ sĩ Nhật Bản mang đồ đạc trên vai và đeo Katana, dao găm bên hông khoảng năm 1850. Ảnh: Getty
Chiến binh samurai đeo kiếm và mặc áo giáp khoảng năm 1880. Ảnh: Getty
Chiến binh samurai đeo kiếm và mặc áo giáp khoảng năm 1880. Ảnh: Getty
Thợ thủ công gấp thép nhiều lần trong quá trình rèn, tạo nên sức mạnh huyền thoại của kiếm. Ảnh: Shunsuke Okashita
Thợ thủ công gấp thép nhiều lần trong quá trình rèn, tạo nên sức mạnh huyền thoại của kiếm.
Thợ thủ công gấp thép nhiều lần trong quá trình rèn, tạo nên sức mạnh huyền thoại của kiếm. Ảnh: Shunsuke Okashita
Paul Martin, chuyên gia người Anh, cầm thanh kiếm Nhật. Món khí giới này có thể tồn tại nhiều thế kỷ bằng cách đánh bóng, lau chùi cẩn thận. Ảnh: The Japanese Sword
1
Paul Martin, chuyên gia người Anh, cầm thanh kiếm Nhật. Món khí giới này có thể tồn tại nhiều thế kỷ bằng cách đánh bóng, lau chùi cẩn thận. Ảnh: The Japanese Sword
Thanh Katana từ thế kỷ 13 của thợ rèn Masamune này là bảo vật quốc gia Nhật Bản. Chủ nhân của thanh kiếm được coi là nghệ nhân nổi tiếng nhất mọi thời đại. Ông sống khoảng cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15 tại tỉnh Sagami. Tại xứ sở mặt trời mọc, giải thưởng Masamune dành cho những thợ rèn xuất sắc nhất. Ảnh: Wiki Commons
1
Thanh Katana từ thế kỷ 13 của thợ rèn Masamune này là bảo vật quốc gia Nhật Bản. Chủ nhân của thanh kiếm được coi là nghệ nhân nổi tiếng nhất mọi thời đại. Ông sống khoảng cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15 tại tỉnh Sagami. Tại xứ sở mặt trời mọc, giải thưởng Masamune dành cho những thợ rèn xuất sắc nhất. Ảnh: Wiki Commons
Dao găm do thợ rèn Rai Kunitoshi tạo ra. Một số thanh kiếm của ông được công nhận là bảo vật quốc gia. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
1
Dao găm do thợ rèn Rai Kunitoshi tạo ra. Một số thanh kiếm của ông được công nhận là bảo vật quốc gia. Ảnh: Eric Bossick For Unique Japan
Kiếm của Tướng Tomoyuki Yamashita, chỉ huy quân đội Nhật Bản tại Philippines trong Thế chiến II. Ảnh: Getty
1
Kiếm của Tướng Tomoyuki Yamashita, chỉ huy quân đội Nhật Bản tại Philippines trong Thế chiến II. Ảnh: Getty