Sưu tầm từ nhiều nguồn, biên tập lại cho dễ hiểu hơn.
Bây giờ dùng thuốc Nam. Đông y nhiều lắm nên thấy cũng phải có chút kiến thức về thuốc để áp dụng cho hợp cách. Cũng biết kiến thức có hạn nên mình phải sưu tầm từ các nguồn tin cậy hòng đem đến cho các bạn những thông tin hữu ích.
Trân trọng.
Tính năng dược vật là tác dụng dược lý của vị thuốc để
điều chỉnh lại sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể.
Tính năng của vị thuốc gồm khí vị, thăng giáng, phù
trầm và bổ tả.
1. Tứ khí
Còn gọi là tứ tính gồm: hàn (lạnh), nhiệt (nóng), ôn
(ấm), lương (mát) Bốn loại tính chất này do sự phản ứng cơ thể khi dùng thuốc,
mà nhận thấy.
Hàn lương thuộc âm; nhiệt, ôn, thuộc dương. Những
thuốc hàn dương còn gọi là âm dược dùng để thanh nhiệt hoả, giải độc, tính chất
trầm giáng chữa chứng nhiệt, dương chứng. Những thuốc ôn nhiệt còn gọi là
dương dược để ôn trung, tán hàn, tính chất thăng phù để chữa chứng hàn, âm
chứng.
Ngoài ra còn một số loại thuốc không rõ rệt tính chất
hoà hoàn gọi là tính bình.
Vì vậy, muốn chữa bệnh và sử dụng thuốc đúng đắn, phải
chẩn đoán bệnh xem thuộc chứng hàn hay chứng nhiệt, sau đó nắm chắc tính chất
của thuốc để sử dụng. Chẩn đoán sai, dùng nhầm thuốc sẽ đem lại hậu quả không
tốt cho người bệnh.
2. Ngũ vị
Thông qua vị giác mà nhận thấy vị: cay (tân), chua
(toan), đắng (khổ) ngọt (cam), mặn (hàm) của vị thuốc. Ngoài ra còn vị đạm
không có vị rõ rệt, nên có tài liệu ghi là lục vị.
Vị cay (tân): có tác dụng bổ dưỡng để chữa các chứng hư, hoà hoãn để giảm cơn đau, bớt
độc tính của thuốc hay giảm độc cơ thể khi dùng làm thuốc, điều hoà tính của
các vị thuốc. như: Đẳng sâm, Hoàng kỳ bổ khí; Thục địa, Mạch môn bổ âm; Kẹo
mạch nha chữa cơn đau dạ dày.
Vị đắng (khổ): có tác dụng tả hạ và táo thấp dùng để chữa chứng nhiệt, chứng thấp, như:
Hoàng liên, Hoàng bá thanh nhiệt trừ thấp chữa lỵ và ỉa chảy nhiễm trùng;
Thương truật kiện kỳ táo thấp chữa ỉa chảy, đờm nhiều.
Vị chua (toan): hay thu liễm, cố sáp, chống đau dùng để chữa chứng ra mồ hôi (tự hãn), ỉa
chảy, di tinh. Như Kim anh, Sơn thù liễm mồ hôi, cố tinh, sáp niệu, Kha tử, Ngũ
bột tử chữa ỉa chảy lâu ngày, sau trực tràng; Ô mai chữa đau bụng cho giun.
Vị mặn (hàm): hay đi xuống, làm mềm nơi bị cứng hoặc các chất ứ đọng cứng rắn (nhuyễn
kiên), thường dùng chữa táo bón, lao hạch, viêm hạch; như: Mang tiêu (thành
phần chủ yếu là Natrisulfat) gây nhuận tràng, tẩy.
Vị đạm: hay thắng thấp, lợi niệu dùng chữa các chứng bệnh do thuỷ thấp gây ra
(phũ thũng), như: Ý dĩ, Hoạt thạch có tác dụng lợi niệu.
Ngũ vị có quan hệ rất mật thiết với tứ khí, ngũ tạng,
ngũ sắc, trên cơ sở này để định tác dụng của thuốc, tìm thuốc và bảo chế thuốc:
* Quan hệ giữa khí và vị
Khí và vị kết hợp với nhau thành tính năng thuốc,
không thể tách rời ra được.
Có những thứ thuốc một khí nhưng kiêm mấy vị: như Quế
chi tính ôn nhưng vị ngọt, cay; Sinh địa tính lạnh nhưng vị đắng, ngọt.
Vì vậy khi sử dụng thuốc trên lâm sàng phải nắm đồng
thời kỳ và vị của thuốc. Thí dụ: nếi sốt do biểu nhiệt dùng thuốc tân lương
giải biểu như Bạc hà, Sài hồ; nếu sốt do thực hiện dùng thuốc đắng lạnh (khổ
hàn) như Hoàng liên, Đại hoàng; do hư nhiệt vì tân dịch hao tổn dùng thuốc ngọt
lạnh (cam hàn) như Sinh địa: Huyền sâm.
Tính |
Tên
thuốc |
Vị |
Tác
dụng |
Ôn (ấm) |
Gừng sống Hậu phác Hoàng kỳ Ô mai |
Cay Đắng Ngọt Chua |
Tán hàn
giải biểu Hành khí Kiện tỳ Cố sáp
(cầm ỉa chảy) |
Hàn (lạnh) |
Hoàng liên Phù bình |
Đắng Cay |
Thanh
nhiệt trừ thấp Tân
lương giải biểu |
Hàn ôn |
Lô căn Cam thảo |
Ngọt Ngọt |
Thanh
nhiệt tả hoả Kiện tỳ |
Hàn lương nhiệt |
Thạch cao Bạc hà Phụ tử |
Cay |
Thanh
nhiệt tả hoả Tân
lương giải biểu Trừ hàn |
* Quan hệ giữa ngũ vị, ngũ sắc, ngũ tạng
Người xưa dựa vào quan hệ này để tìm cây thuốc, sơ
bộ nhận xét vềtác dụng lâm sàng: vị chua, sắc xanh vào can: vị ngọt, sắc
vàng vào tỳ: vị cay, sắc trắng vào phế: vị đắng, sắc đỏ vào tâm: vị mặng sắc
đen vào thận.
Quan hệ này chỉ đạo sự quy kinh của thuốc sẽ nói ở mục
sau:
3. Thăng, giáng, phù, trầm
Thăng giáng phù trầm là chỉ xu hướng tác dụng của
thuốc: thăng là đi lên, giáng là đi xuống, phù là phát tán ra ngoài, trầm là
thẩm lợi vào trong và xuống dưới.
Các vị thuốc thăng và phù đều đi lên, hướng ra ngoài
thường có tác dụng: thăng dương, phát biểu, tán hàn. Các vị thuốc trầm và giáng
thường đi xuống và vào trong nên có tác dụng: tiềm dương, giáng nghịch, thu
liễm, thẩm lợi, tả hạ.
Tính chất thăng, giáng, phù, trầm, quan hệ mật thiết với
khí, vị và tỷ trọng nặng, nhẹ của vị thuốc. Khí, vị: vị cay, ngọt, tính ôn
nhiệt thuộc dương thường là các vị thuốc thăng như Ma haòng, Quế chi, Gừng, vị
đắng, chua, mặng, tính hàn, lương thuộc âm thường là các thuốc trầm, giáng như
Đại Hoàng, Mang tiêu, Hoàng liên. Tỷ trọng: thuốc loại hoa, lá là những vị
thuốc nhẹ thuốc loại phù thăng như Lá sen, Bạc hà, Kinh giới: các vị thuốc
khoáng vật, hạt, quả có tỷ trọng nặng thuộc trầm giáng như Mẫu lệ, Long cốt, Tô
tử Chỉ thực, Thục địa.
Trên lâm sàng, bệnh tật phát sinh ở những vị trí khác
nhau của cơ thể: trên, dưới, trong, ngoài, Xu thế của bệnh có khi nghịch lên
trên (nôn, nấc), khi giáng xuống dưới (ỉa chảy, sa trực tràng)… nên khi dùng
các loại thuốc có phân biệt khác nhau.
- Bệnh tại biểu thường dùng các thuốc phù thăng mà
không dùng thuốc trầm giáng: bệnh tại lý, dưới thường dùng các thuốc trầm giáng
mà không dùng thuốc phù thăng.
- Bệnh nghịch lên trên cây rức đầu dùng Thạch quyết
minh, Mẫu lệ để trầm giáng. Bệnh thể đi xuống thì dùng các thuốc đi lên như
chứng tỳ hư hạ hàm gây chứng sa trực tràng phải dùng các thuốc kiện tỳ, thăng
dương như Hoàng kỳ thăng ma, Sài hồ để chữa, nếu dùng thuốc đắng lạnh để hạ,
bệnh lại càng nặng thêm.
Tính chất thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc còn có
thể thay đổi tuỳ theo sự bào chế và sự phối ngũ: về bào chế vị thuốc sao với
rượu thì đi lên, sao với nước ngừng thì phát tán, sao với giấm thì thu liễm,
sao với muối thì đi xuống: thí dụ Hương phụ vị cay, đắng, tính ôn là loại thuốc
trầm giáng, về phối ngũ: vị thuốc thăng phù dùng với đa số vị thuốc trầm giáng
sẽ đi xuống, vị thuốc trầm giáng ở cùng nhiều vị thuốc thăng phù có thể theo đó
mà đi lên trên.
4. Bổ tả
Bệnh tật là qúa trình đấu tranh mất đi hay phát triển
của chính khí và tà khí. Vì vậy bệnh tật có 2 mặt: hư và thực.
Nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ, thực thì tả, do đó
tính năng của thuốc căn cứ yêu cầu chữa bệnh còn chia làm 2 loại bổ và tả.
Trong khi vận dụng thuốc để chữa bệnh trước hết phải
nắm được khí, vị sau đó tiến lên phân loại thuốc bổ hay tả. Thí dụ: Hoàng liên
tính hàn có tác dụng thanh nhiệt táo thấp là thuốc tả; Thiên môn tính hàn, chữa
âm hư gây sốt là thuốc bổ: Đào nhân có tác dụng hoạt huyết chữa chứng ứ huyết
là thuốc tả: Bạch thược bổ huyết chữa chứng huyết hư là thuốc bổ.
Trên thực tế lâm sàng, do tính chất phức tạp của bệnh
tật, chứng hư và chứng thực lẫn lôn, hoặc bẩm tố là hư mắc thêm bệnh mới thì
khi dùng thuốc phải vận dụng bổ tả cùng dùng để chữa bệnh (công bổ kiêm trị).
V. SỰ QUY KINH CỦA THUỐC
Quy kinh là tác dụng đặc biệt của các vị thuốc đối với
các bộ phận khác nhau của cơ thể, tuy về tính năng dược vật (khí, vị, bổ, tả)
có thể giống nhau, nhưng tác dụng chữa bệnh ở các vị trí lại khác nhau. Thí dụ:
bệnh nhiệt phải sử dụng thuốc hàn lương, nhưng nhiệt ở phế, vị, đại tràng… khác
nhau, phải sử dụng thuốc khác nhau.
Sự quy kinh của thuốc căn cứ vào:
1. Trên cơ sở hệ kinh lạc và các trạng phủ để thể hiện sự quy kinh. Quy kinh là đem tác
dụng của vị thuốc quan hệ với: lục phủ ngũ tạng và 12 kinh mạch, nói rõ tác
dụng của vị thuốc đối với bệnh trạng của phủ, tạng, kinh lạc nào đó.
Theo kinh nghiệm thực tế lâm sàng, người xưa đã tổng
kết một số các triệu chứng quy nạp thành hội chứng bệnh của từng kinh lacj,
từng tạng phủ, sau đó nghiên cứu tác dụng của thuốc thấy nó tác dụng vào kinh
lạc, tạng phủ nào.
Thí dụ: Cát cánh, Hạnh nhân chữa chứng ho hen thuộc
bệnh của phế: Táo nhân vào tâm kinh vì nó tác dụng an thần: Cương tàm vào can
vì chữa co giật.
2. Sự quy kinh lấy lý luận ngũ hành làm cơ sở, đặc biệt là quan hệ giữa ngũ sắc, ngũ
vị, ngũ tạng. Như cam thảo màu vàng vị ngọt chữa bệnh ở tỳ và vị: Mang tiêu mặn
và đen vào thận; Chu sa đắng và đỏ vào tâm…
3. Căn cứ vào học thuyết kinh lạc về sự liên quan chặt chẽ giữa các đường
kinh để thể hiện sự quy kinh:
- Sài hồ là vị thuốc chữa bệnh thuộc đởm kinh cũng có
tác dụng chữa vào kinh can (sơ can giải uất, thanh can minh mục) vì can và đởm
có quan hệ biểu lý về đường kinh và tạng phủ.
- Câu đằng là vị thuốc bình can tức phong chữa bệnh ở
kinh can, cũng có tác dụng đến tâm bào lạc vì kinh can và kinh tâm bào lạc cũng
là kinh quyết âm.
Trên thực tế lâm sàng, ta thấy một số vị thuốc có
nhiều tác dụng khác nhau, chữa nhiều bệnh khác nhau vì sự quy kinh của nó vào
nhiều tạng phủa khác nhau như hạt Sen có tác dụng cầm ỉa chảy, cầm di tinh, an
thần vì vào kinh tỳ, thận, tâm. Ô mai voà kinh phế, tỳ, can nên có tác dụng
chữa ho, cầm ỉa chảy, chưa đau bụng giun. Có những vị thuốc vào cả 12 kinh như
Cam thảo nên việc dùng rất rộng rãi và phổ biến (trong sách Thương hàn luận có
250 bài thuốc thì 120 bài có Cam thảo).
Khi nghiên cứu tác dụng của thuốc, nắm được sự quy
kinh có thể giúp cho sự vận dụng tổng hợp các vị thuốc được chính xác, giải
thích được sự phối hợp của các vị thuốc mà bản thân chúng nằm ở các chương khác
nhau. Thí dụ: Bạch thược, Sài hồ hay phối hợp với nhau vì chúng đều quy vào
kinh can (Sài hồ là thuốc giải biểu, Bạch thược là thuốc bổ âm).
VI. SỰ PHỐI HỢP CỦA CÁC VỊ THUỐC
Phối ngũ là việc sử dụng hai vị thuốc trở lên, nó là
cơ sở cho việc tạo thành các bài thuốc dùng trên lâm sàng.
Mục đích của sự phối ngũ các vị thuốc là để phát huy
hiệu lực chữa bệnh, hạn chế tác dụng xấu của vị thuốc, mặt khác để thích ứng
với những chứng hậu bao gồm nhiều triệu chứng phức tạp trong quá trình bệnh
tật.
Có mấy loại phối ngũ sau đây:
- Tương tu: 2 thứ thuốc cùng một tác dụng hỗ trợ kết quả cho nhau
- Tương sử: 2 vị thuốc trở lên dùng chung, một thứ là chính một thứ là phụ để nâng
cao hiệu quả chữa bệnh.
Tương tu và tương sử là hai loại phối ngũ thường thấy
nhất
Tương uý:khi một thứ thuốc có tác dụng xấu dùng chung với một vị khác để chế ngự:
Thí dụ: Bán hạ sống gây ngứa dùng với Gừng cho hết ngứa.
- Tương sát:một vị thuốc có độc, dùng với một vị khác để tiêu trừ độc tính trở lên
không độc.
Tương uý và tương sát là sự phối ngũ thường thấy đối
với các thuốc độc.
- Tương ố:hai thứ thuốc dùng chung với nhau sẽ làm giảm hoặc làm mất hiệu lực của
nhau như Hoàng cầm vơi Sinh khương.
- Tương phản: một số ít thuốc đem phối ngũ gây tác dụng độc thêm, như Ô dầu với Bán hạ.
Tương ố và tương phản là sự phân phối ngũ nói trên sự
cấm kỵ trong khi thuốc dùng.
- Ngoài ra còn lối dùng đơn độc một vị thuốcmà tác dụng như Độc sâm thang (có một vị Nhân sâm).
Bảy loại phối ngũ này YHCT gọi là thất tình hoà hợp.
VII. SỰ CẤM KỴ TRONG KHI DÙNG THUỐC
7.1. Những vị thuốc cấm kỵ khi có thai
a. Loại cấm dùng: Ba đậu (tả hạ), Khiên ngưu,
Đại kích, Thương lục (trục thuỷ): Tam thất (hoạt huyết); Sạ hương (phá khí);
Nga truật, Thuỷ diệt, Manh trùng (phá huyết). Các vị thuốc trên có tác dụng
trục thuỷ, tả hạ, phá khí, phá huyết.
b. Loại dùng thận trọng: Đào nhân, Hồng
hoa (hoạt huyết); Bán hạ, Đại hoàng (tả hạ): Chỉ thực (phá khí); Phụ tử, Can
khương, Nhục quế (đại nhiệt). Các vị thuốc trên có tác dụng phá khí, tả hạ,
hoạt huyết, đại nhiệt.
7.2. Các vị thuốc tương phản lẫn nhau
- Cam thảo chống: Cam toại, Nguyên hoa, Hải tảo
- Ô dầu phản: Bối mẫu, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm.
- Lê lô phản: các loại Sâm, Tế tân, Bạch thược
7.3. Cấm kỵ trong khu uống thuốc
Cam thảo, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai kiêng ăn thịt
lợn: Bạc hà kiêng Ba ba; Phục linh kiêng gấm.
Khi ăn uống chú ý không nên dùng các thức ăn chống lại
tác dụng của thuốc.
Thí dụ: dùng thuốc ôn trung trừ hàn (nóng ấm) không ăn
các đồ ăn lạnh; dùng các thuốc kiện tỳ, tiêu đạo không nên ăn chất béo, chất
khó tiêm dùng thuốc an thần không nên ăn chất kích thích.