24/05/2017

Phật giáo: Nền tảng và khác biệt so với các tôn giáo khác

Tập hợp từ vi.wikipedia.org

Phật giáo (zh. 佛教, sa. buddhaśāsana, pi. buddhasāsāna, bo. sangs rgyas bstan pa སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་) là một tôn giáo vô thần bao gồm một loạt các truyền thống, tín ngưỡng và phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (zh. 悉達多瞿曇, sa. siddhārtha gautama, pi. siddhattha gotama). Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được gọi là Phật-đà, Bụt-đà (sa., pi. buddha), gọi tắt là Phật, hay Bụt, có nghĩa là "người tỉnh thức", "người giác ngộ". Theo sách vở Phật giáo cũng như các tài liệu khảo cổ đã chứng minh, Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã sống và giảng đạo ở vùng đông Ấn Độ từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 4 TCN.

Bánh xe Pháp Dharmacakra, biểu tượng của Phật giáo, tượng trưng cho giáo pháp, gồm Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Trung đạo

 

Sau khi Tất-đạt-đa Cồ-đàm qua đời thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng, với nhiều sự khác biệt so với ban đầu:

Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), còn gọi là Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Tiểu thừa, Phật giáo Thượng tọa

Phật giáo Phát triển (Mahayana), còn gọi là Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Đại chúng

Phật giáo Chân ngôn (Vajrayana), còn gọi là Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Kim cương thừa, Phật giáo Mật tông

Phật giáo Nguyên thủy phát triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á  (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar.)

Phật giáo Đại chúng phát triển ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tông, Thiên thai tông. Còn Phật giáo Kim cương thừa phát triển ở Tây Tạng, Mông Cổ và Bhutan.

Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 350 triệu đến 1,6 tỷ người.

Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con đường đưa đến giải thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập.

GIÁO LÝ CỐT LÕI

Tứ Thánh (diệu) đế

Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của Phật pháp là tứ thánh đế. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong luân hồi (zh. 輪回, sa., pi. saṃsāra), nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ. Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong thực tế ngọn lửa nào cháy lên cũng có nhân, có duyên của: chất đốt, không khí, v.v.. Khi chúng ta loại bỏ các điều kiện đó thì ngọn lửa cũng tắt, tương tự như vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chánh đạo - Trung đạo là con đường đưa đến khổ diệt (Đạo đế)

1. Khổ đế (zh. 苦諦, sa. duḥkhāryasatya, bo. sdug bsngal bden pa སྡུག་བསྔལ་བདེན་པ་), chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết; khổ tâm gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa nhận nó.

2. Tập đế (zh. 集諦, sa. samudayāryasatya, bo. kun `byung bden pa ཀུན་འབྱུང་བདེན་པ་), chân lý về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.

3. Diệt đế (zh. 滅諦, sa. duḥkhanirodhāryasatya, bo. `gog pa`i bden pa འགོག་པའི་བདེན་པ་), chân lý về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ, là một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt lòng ham muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô minh.

4. Đạo đế (zh. 道諦, sa. duḥkhanirodhagāminī pratipadmārgāryasatya, bo. lam gyi bden pa ལམ་གྱི་བདེན་པ་), chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường bát chánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.

Bát chính đạo

- Nhóm trí tuệ:

Chính kiến (zh. 正見, pi. sammā-diṭṭhi, sa. samyag-dṛṣṭi, bo. yang dag pa`i lta ba ཡང་དག་པའི་ལྟ་བ་): hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu biết về sự vật hiện tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc, cảm tính, hiểu biết 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống không làm khổ mình, khổ người.

Chính tư duy (zh. 正思唯, pi. sammā-saṅkappa, sa. samyak-saṃkalpa, bo. yang dag pa`i rtog pa ཡང་དག་པའི་རྟོག་པ་): suy nghĩ hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí và giác ngộ.

- Nhóm đạo đức:

Chính ngữ (zh. 正語, pi. sammā-vācā, sa. samyag-vāk, bo. yang dag pa`i ngag ཡང་དག་པའི་ངག་): lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết, mang tính xây dựng, mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.

Chính nghiệp (zh. 正業, pi. sammā-kammanta, sa. samyak-karmānta, bo. yang dag pa`i las kyi mtha` ཡང་དག་པའི་ལས་ཀྱི་མཐའ་): hành vi chân chính: không sát sanh, không trộm cắp, không ngoại tình, không sử dụng rượu bia ma túy. Các hành vi được khuyến khích: trồng cây bảo vệ môi trường, chia sẻ sở hữu hợp pháp với những người kém may mắn hơn, sống chung thủy một vợ một chồng, giữ sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người thân.

Chính mạng (zh. 正命, pi. sammā-ājīva, sa. samyag-ājīva, bo. yang dag pa`i `tsho ba ཡང་དག་པའི་འཚོ་བ་): nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm nghề đồ tể vì giết động vật hàng loạt; không làm nghề buôn bán vũ khí vì tạo ra giết người hàng loạt; không làm nghề buôn bán ma túy vì tiếp tay cho con nghiện, hủy hoại đời sống cá nhân và mất ổn định xã hội; không làm nghề buôn bán độc dược vì tổn hại sức khỏe, sinh mạng nhiều người; không làm nghề mại dâm vì phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình.

Chính tinh tấn (zh. 正精進, pi. sammā-vāyāma, sa. samyag-vyāyāma, bo. yang dag pa`i rtsal ba ཡང་དག་པའི་རྩལ་བ་): nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện đang làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm, loại bỏ ý định về những việc bất thiện sẽ làm.

- Nhóm thiền định:

Chính niệm (zh. 正念, pi. sammā-sati, sa. samyag-smṛti, bo. yang dag pa`i dran pa ཡང་དག་པའི་དྲན་པ་): sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống.

Chính định (zh. 正定, pi. sammā-samādhi, sa. samyak-samādhi, bo. yang dag pa`i ting nge `dzin ཡང་དག་པའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་): 4 tầng thiền: sơ thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ), nhị thiền (diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm), tam thiền (ly hỷ, trú xả), tứ thiền (xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh) cùng với những phương pháp hỗ trợ như tứ niệm xứ, định niệm hơi thở, định sáng suốt,v.v... được đề cập trong kinh tạng Pali. Sau khi đã đạt tứ thiền, hành giả dẫn tâm về Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên bố "Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại sinh tử này nữa".

Những tư tưởng cơ bản của Phật-đà đều được nhắc lại trong các kinh sách, nhưng có khi chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và vì vậy ngày nay có nhiều trường phái khác nhau, hình thành một hệ thống triết lý hết sức phức tạp.

Giáo pháp đạo Phật được tập hợp trong Tam tạng (zh. 三藏, sa. tripiṭaka, pi. tipiṭaka), bao gồm:

1. Kinh tạng (zh. 經藏, sa. sūtra-piṭaka, pi. sutta-piṭaka, bo. mdo sde`i sde snod མདོ་སྡེའི་སྡེ་སྣོད་) bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử. Kinh tạng tiêu biểu văn hệ Pali được chia làm năm bộ: 1. Trường bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), 2. Trung bộ kinh (pi. majjhima-nikāya), 3. Tương ưng bộ kinh (pi. saṃyutta-nikāya), 4. Tăng chi bộ kinh (pi. aṅguttara-nikāya) và 5. Tiểu bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya).

2.  Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-piṭaka, bo. `dul ba`i sde snod འདུལ་བའི་སྡེ་སྣོད་), chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già (sa., pi. saṅgha) cũng như các giới luật của người xuất gia, được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.

3. Luận tạng (zh. 論藏, sa. abhidharma-piṭaka, pi. abhidhamma-piṭaka, bo. mngon pa`i sde snod མངོན་པའི་སྡེ་སྣོད་)—cũng được gọi là A-tì-đạt-ma—chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lý học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó không còn giữ tính chất thống nhất.

Tăng-già (zh. 僧伽; s, pi. saṅgha) của đạo Phật gồm có Tỳ Kheo (zh. 比丘, sa. bhikṣu, pi. bhikkhu), Tỳ Kheo Ni (zh. 比丘尼, sa. bhikṣuṇī, pi. bhikkhunī) và giới Cư sĩ.

LỊCH TRÌNH TU HỌC

Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến sa. yathābhūtadarśana), với một tâm thức thoát khỏi phiền não (sa. kleśa) và si mê (sa. moha). Trong các loại phiền não thì tham ái (sa. tṛṣṇā) và vô minh (sa. avidyā), cũng được gọi là si (sa. moha), là những loại nặng nhất. Tham (sa. rāga), sân (sa. dveṣa) và si được gọi chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành bát chính đạo.

Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam học (sa. tisraḥ śikṣāḥ), cụ thể là tu học về giới (tăng thượng giới học, sa. adhiśīlaśikṣā), định (tăng thượng định học, sa. adhicittaśikṣā) và huệ (tăng thượng huệ học, sa. adhiprajñāśikṣā). Trước hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-khâu). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền, sa. caturdhyāna). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là tứ niệm xứ (sa. catvāri smṛtyupasthānāni), Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (sa. catvāry apramāṇāni, cũng được gọi là Tứ Phạm trú, sa. brahmavihāra). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại:

1. Chỉ (sa. śamatha) là phương pháp lắng đọng tâm

2. Quán (sa. vipaśyanāvidarśanā) là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là huệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi (sa. pratītyasamutpāda) hoặc ngũ uẩn.

Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát (sa. vimuktijñāna), biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu, sa. anāsrava) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán.

Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồ-đề phần.

PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần tiên chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".

Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. 

Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.

Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:

Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;

Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;

Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;

Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Phật giáo Bắc Tông có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.

NỀN TẢNG VÀ KHÁC BIỆT SO VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC

1. Nền tảng Đạo Phật: là tứ thánh đế. Đạo Phật là đạo giải quyết khổ đau với 2 khái niệm quan trọng là Nhân Quả và Luân hồi.

Nhân Quả:

Đạo Phật giải thích là mọi sự việc đều có lý do từ Nhân Quả. Nghĩa là mọi sự việc đều là kết quả từ nguyên nhân trước đó. Và sự việc đó chính nó lại sẽ là một nguyên nhân của kết quả sau này. Các sự việc tương tác Nhân Quả phức tạp lẫn nhau gọi là trùng trùng duyên khởi. Nhân có khi còn gọi là Duyên hay Nghiệp, và một khi đã gieo Duyên hay Nghiệp thì ắt sẽ gặt Quả (để phân biệt tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có khái niệm "thuận duyên", "nghịch duyên" hoặc "Thiện nghiệp", "Ác nghiệp"). Từ Nhân đến Quả có yếu tố Duyên. Duyên là điều kiện thuận lợi cho phép Quả tới nhanh hơn dự kiến (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở trì hoãn Quả tới chậm hơn, đôi khi triệt tiêu Quả (nghịch duyên).

Nhân quả tương tác theo luật hạt giống: hạt táo không thể sinh ra quả bưởi, hạt xoài không thể sinh ra quả đào. Nhân quả đạo đức là một ứng dụng của duyên khởi (nguyên lý duyên khởi là quy luật vận hành của vạn vật). Các nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn sẽ trổ quả sau khi bù trừ xong, ví dụ: về nghiệp tuổi thọ của một người, thiện nghiệp (trồng cây, phóng sanh, cứu mạng người khác) và ác nghiệp (sát sanh, giết người) đã gieo sẽ bù trừ nhau, nếu ác nghiệp nhiều hơn thì người đó sẽ nhận phần ác nghiệp sau khi đã được trừ với thiện nghiệp, bị bệnh tật hoặc tai nạn làm giảm tuổi thọ. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng nguyên thủy lý giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân mới đối lập với nhân cũ.

Dù con người dù không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải được hoàn toàn nhân quả này thì mối quan hệ Nhân Quả vẫn là một quy luật tự nhiên khách quan. Con người dù không thể hiểu hết, thấy hết, thậm chí có thể họ không tin Nhân Quả, nhưng quy luật này vẫn vận hành và chi phối vạn vật. Thời gian giữa Nhân và Quả là xuyên suốt thời gian vũ trụ chứ không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn đến 1 khái niệm là Luân hồi.

Luân hồi:

Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết 1 kiếp, tâm thức mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của 1 kiếp sống là khác nhau, có thể chuyển đổi giữa các loài, các thế giới (cõi súc sinh, cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la…). Quan hệ Nhân Quả quyết định cách thức Luân hồi, hay nói cách khác tùy theo Duyên hay Nghiệp đã tạo mà sẽ Luân hồi tương ứng để nhận Quả.

Chết là hết một kiếp, nhưng lại là khởi đầu của một kiếp khác, nối tiếp vô cùng tận. Dù có hết 1 kiếp sống thì vẫn sẽ tiếp tục Luân hồi sang kiếp khác để nhận Quả. Còn Luân hồi là còn khổ và Đạo Phật chỉ rằng Luân hồi chỉ có thể bị phá vỡ nếu đạt Giác ngộ. Nghĩa là có thể thoát khỏi Luân hồi sinh tử nếu biết cách "đoạn diệt" các nguyên nhân dẫn dắt Luân hồi. Đạo Phật gọi đó là giải thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát, như Phật đã nói "Như mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải thoát".

Khác biệt của Đạo Phật với hầu hết các tôn giáo:

Bình đẳng:

Trong hầu hết các tôn giáo, không ai có thể sánh bằng hoặc ngang hàng với một đấng tối thượng là giáo chủ. Tất cả tín đồ đều phải suy tôn, coi vị này là số một và không bao giờ có cơ hội được như đấng đó. Điều này làm tôn giáo thường bị nhiều kẻ xấu lợi dụng để phục vụ cho lợi ích của riêng mình bằng cách làm cho người khác tin rằng mình là giáo chủ hoặc là người đại diện cho giáo chủ. Đạo Phật thì chỉ coi một bậc là tối thượng chứ không phải cá biệt duy nhất một ai là tối thượng. Bậc Vô thượng bồ đề hay gọi đơn giản là Phật chính là một bậc mà mọi chúng sanh đều có thể đạt được nếu kiên trì tu tập và đạt tới giác ngộ.

Phật là danh từ chung để gọi một người đã giác ngộ, đạt tới cảnh giới giải thoát, ra khỏi Luân hồi, hoàn toàn trong sạch và hơn nữa phải là người có lòng từ bi thương yêu, cứu giúp tất cả chúng sinh không phân biệt dù hy sinh cả bản thân mình. Sự suy tôn trong Đạo Phật là do tự cảm phục trước lòng từ bi, đức độ và công hạnh của người đã đạt đến bậc Vô thượng bồ đề. Là sự tự nguyện noi theo đức độ và giải thoát chứ không hề có sự ép buộc phải phục tùng, cầu lợi. Chính Phật cũng đã khẳng định: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"

Tính vô thường của vạn vật: Đạo Phật cho rằng mọi sự vật hiện tượng (trừ cõi Niết Bàn) đều là vô thường, không thể tồn tại vĩnh hằng, có sinh thì phải có diệt, Duyên khởi thì sinh - Duyên tận thì diệt. Ngay cả không gian, thời gian và vũ trụ cũng vậy, cũng có khởi đầu, biến đổi và cuối cùng là kết thúc (2.500 năm sau khi Đức Phật thuyết pháp, thuyết Big Bang và Vũ trụ giãn nở mà khoa học tìm ra cũng có nội dung tương tự). Trong khi đó, hầu hết các tôn giáo khác đều cho rằng bậc Thượng đế của họ là vĩnh hằng bất biến và sáng tạo ra vạn vật, cho rằng bậc Thượng đế đó không sinh ra từ đâu mà tự đã có khi vạn vật chưa tồn tại.

Tính vô lượng của thế giới: đa số các tôn giáo khác coi Trái Đất là trung tâm vũ trụ, loài người là sinh vật tối thượng do Thượng đế tạo ra. Đạo Phật thì cho rằng thế giới này chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng hiện hữu, loài người (Nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài vật khác (súc sinh giới), có kiếp sống còn cao cấp hơn loài người (Thiên giới), và tất cả đều phải chịu luân hồi vô tận từ kiếp này sang kiếp khác. Phật tổ từng nói: "Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly nước cũng có vô số những con trùng trong đó". Vào thời đó, những gì Đức Phật nói là mơ hồ và không ai có thể chứng minh, nhưng ngày nay thì nhiều điều đã được khoa học hiện đại chứng minh là đúng.

Tôn thờ:

Chính vì sự bình đẳng nên Đạo Phật không ép buộc hay khuyến khích thờ cúng cho bất kỳ ai. Nên phân biệt rõ sự ép buộc thờ cúng để hưởng thụ với sự thành tâm cúng dàng, hỷ xả của một tín đồ. Một vị Phật hay một vị tăng chân chính không coi trọng bản thân mình, sẵn sàng hy sinh vì chúng sinh và thực tế đã có rất nhiều bằng chứng trong lịch sử. Vì vậy việc chúng sinh dâng cúng và họ thụ nhận, hoặc một số trường hợp họ khuyên dâng cúng chính là vì muốn chúng sinh tạo công đức, gieo một nhân lành, gieo một duyên tốt để từ đó diệt trừ tham lam, đi vào tu tập, xả bỏ vướng bận và giải thoát.

Sự cúng dàng và bái lạy, hầu cận Phật là một sự ngưỡng mộ, noi theo đối với đấng Thế tôn đã giải thoát và từ bi vô lượng. Khi một người đạt đến quả vị Vô thượng bồ đề thì cả vũ trụ đều rúng động và suy tôn vì đức độ vĩ đại của vị Phật đó chứ vị Phật đó không còn mong muốn ai suy tôn, thờ cúng cho mình. Quả vị đó là một sự thật chứ không phải tự phong. Phật đã đạt tới và Phật nhận tất cả tấm lòng của chúng sinh hướng về chính đạo để hướng dẫn cách giải thoát cho chúng sinh. Hơn hết tất cả, quả vị Vô thượng bồ đề là bậc mà mọi chúng sinh đều có thể tự tu tập và đạt được theo sự chỉ bảo của Phật.

Tóm lại, Đạo Phật là con đường giải thoát dành cho tất cả chúng sinh, không phân biệt ai. Đạo Phật nói lên sự thật, là một con đường khách quan để đi tới chân lý. Giáo lý của Đạo Phật không phải do Phật sáng tạo ra mà là chân lý khách quan. Phật chỉ là người phát hiện, dấn thân và chứng đắc để rồi truyền dạy lại cho chúng sinh cách giải thoát với lòng từ bi vô lượng. Sự cao quý của Phật ở chỗ xem tất cả chúng sinh là bình đẳng và hoàn toàn có thể thành Phật.

NHẬN XÉT

Nhà bác học Vật lý Albert Einstein có nhắc qua về Đạo Phật trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau:

"một người được giác ngộ bởi tôn giáo, đối với tôi có vẻ như là người cố gắng đến khả năng cực đại của bản thân, giải thoát mình khỏi những xiềng xích của những ham muốn ích kỷ của mình và đi sâu, chìm đắm trong những suy nghĩ, cảm xúc và nguyện vọng, những cái mà người đó luôn giữ chặt, vì giá trị của siêu-cái tôi cá nhân (gọi tắt là X). Tôi thấy rằng, dường như cái quan trọng là sức mạnh của những thứ (nội dung) nằm trong X... chứ không cần quan tâm đến bất kỳ một nỗ lực nào được thực hiện để thống nhất những điều này với một đấng Thiên chúa, nếu không thì nó có thể không khả thi khi tính Phật và Spinoza là như loại hình tôn giáo (nhân cách). Theo đó, người mộ đạo theo cảm giác (có ý thức) rằng, họ không hề nghi ngờ gì về tầm quan trọng của các đối tượng nằm trong X này và về các mục tiêu, cái mà không cần và cũng không có đủ khả năng xây dựng nên dựa trên một nền tảng khoa học hợp lý... Theo cách hiểu này, tôn giáo là nỗ lực lâu đời của nhân loại để trở nên rõ ràng và được nhận thức hoàn toàn đầy đủ về những giá trị và mục tiêu, và không ngừng củng cố cũng như mở rộng ảnh hưởng của nó. Nếu mọi người quan niệm về tôn giáo và khoa học theo những định nghĩa này, thì một cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học dường như là không thể. Vì đối với khoa học chỉ có thể xác định nó "là gì", chứ không phải nó "nên là gì"..."

Friedrich Nietzsche chỉ trích Đạo Phật làm thúc đẩy những thứ mà ông gọi là thuyết hư vô (nihilism). Ông cho rằng, đạo Phật có thể được mô tả như một nỗ lực, thông qua sự kiềm chế từ hành động, để thoát khỏi đau khổ và đi vào trạng thái không tồn tại một cách tuyệt đối, cái mà ông phê phán và cho rằng đó là sự trốn chạy hèn nhát trước thực tại.

Nhà bác học Vật lý Albert Einstein đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau:

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó... Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình theo xu hướng khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học... Tôi là một người không tôn giáo. Nhưng nếu có Tôn giáo thì Tôi phải là một Phật tử. Vì những gì Tôi hiểu biết bây giờ thì mấy ngàn năm qua Kinh Phật đã nói hết rồi".

23/05/2017

Ảnh màu Việt Nam hơn trăm năm trước

S.T

Những hình ảnh dưới đây do nhiếp ảnh gia Pháp M. Ch. Lemire thực hiện và được xử lý bằng kỹ thuật in màu cổ điển. Chúng được tập hợp từ một số ấn phẩm khác nhau về Đông Dương, xuất bản tại Pháp vào khoảng thời gian trước năm 1910. 
Lăng vua Đồng Khánh ở Huế. 
Trục đường chính của một ngôi làng ở Trung kỳ.
Chùa bên sông Hương, Huế. 
Một phạm nhân bị giải ra pháp trường. 
Nông dân cầm đôi gầu dùng để tát nước. 
Thuyền dành cho quai lại ở Trung Kỳ.
Xe bò kéo ở miền Trung. 
Những con thuyền trên sông Hồng ở Hà Nội. 
Một ngôi chùa ở Hà Nội.
 Thuyền bè trên sông Sài Gòn.
  Thuyền bè trên sông Sài Gòn.
 Đón rước các sứ thần Trung Quốc.
 Chùa ở Mỹ Tho.
 Một ngôi làng ở Nam Kỳ.
Nhà rông của người dân tộc Xê-đăng ở Kontum.
Người dân tộc thiểu số trong một bản làng ở Kon Tum. 
 Voi nhà ở Tây Nguyên.
Một toà tháp Chăm ở Mũi Né, Bình Thuận. 
Tượng nữ thần Uma trong một di tích của người Chăm.

19/05/2017

Chúc mừng sinh nhật Bác

Đến dịp 19/5 lại thấy báo chí, truyền hình bắt đầu "nhớ về Bác". Xét lại thì thấy mình chưa viết một bài nào về Ông Cụ bởi bất cứ bài nào viết về Ông Cụ dù là bất cứ ai viết và viết kiểu thì gì ở dưới cũng có rất nhiều tranh cãi thậm chí cắn xé lẫn nhau.

Mình không thích viết ra để người ta tranh cãi nên vẫn chưa viết. Hôm nay thử viết một bài về Cụ theo cách tiếp cận mới "ít tranh cãi" mà lại gắn với "sự kiện" xem sao, cho mọi người có cái đổi móm.

Ngày 19/5 cách đây 74 năm một tổ chức tên không hề lạ là Việt Minh đã ra đời tại Pác Bó Cao Bằng, song cho đến nay chẳng mấy ai chú ý tới cái ngày thành lập tổ chức này, tuy vậy không phải vì thế mà ngày 19/5 bị lãng quên mà nó đã trở nên quá quen thuộc với người Việt Nam với ý nghĩa là ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh.

Liệu rằng đây có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử giống như ngày mất của ông trùng với ngày quốc khánh?

Khi nói về cái ngẫu nhiên thường người ta bỏ qua luôn lý do xuất hiện của nó vì đơn giản nó xảy ra một cách "không cố ý" tuy nhiên lịch sử lại chưa đầy những hành động có chủ ý của con người. Và một trong những chủ ý như thế của Hồ Chí Minh đã tạo ra một "ngày sinh nhân tạo" cho mình.

Sẽ là không ngoa chút nào khi nói ngày sinh nhật 19/5 của Ông Cụ là là sinh nhật chính trị vì nó tạo ra hoàn toàn vì mục đích chính trị.

Bây giờ chúng ta quay về thời điểm lịch sử xung quanh tháng 5/1946. Vào ngày 6/3/1946 Hồ Chí Minh cùng Jean Sainteny đã ký kết hiệp định sơ bộ Pháp-Việt. Theo đó Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp. Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa Dân Quốc để giải giáp quân đội Nhật . Hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của cả hai bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Chính vì thế mà nó bị các đảng phái khác ra sức công kích dữ dội xem nó là "Hiệp ước bán nước" khiến ông Hồ phải đứng ra thề trước quốc dân đồng bào trong một cuộc mit tinh ở Nhà hát lớn: “Hồ Chí Minh không bán nước!” Những diễn biến này đặt ông trước những tình thế nhạy cảm tiếp theo.

Sau Hiệp định Sơ bộ, quân Pháp bắt đầu vào miền Bắc và sớm gây sự. Quân Tưởng rút dần nhưng chậm. Cao ủy Pháp D’Argenlieu đề nghị gặp Hồ Chí Minh trên Vịnh Hạ Long. Cuộc gặp gỡ đi đến các thỏa thuận: Mở cuộc đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Khi trù bị kết thúc sẽ mở đàm phán chính thức ở Paris. Phía Pháp đồng ý mời một đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam sang thăm Pháp. Cùng dịp này, Chính phủ Pháp mời Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với danh nghĩa thượng khách của nước Pháp. Đây là cơ hội lớn để đề cao vị thế của Việt Nam, tranh thủ dư luận Pháp, tranh thủ đấu tranh về vấn đề Việt Nam trực tiếp với Chính phủ Pháp, tránh giáp mặt với thực dân Pháp ở Đông Dương.

Trong lúc Ông Cụ chuẩn bị chuyến đi thì Cao ủy Pháp D'Argenlieu, mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 từ ngày 14/5/1946. D'Argenlieu đến Vientiane ngày 17/5/1946, đến Hà Nội chiều ngày 18/5/1946.

Trên danh nghĩa, D'Argenlieu là cao uỷ, đại diện chính phủ Pháp tại Đông Dương. Việt Nam là một quốc gia trong Liên Bang Đông Dương nên theo nghi thức ngoại giao, để đón tiếp cao ủy, phía Việt Nam phải treo quốc kỳ trong ba ngày để đón D'Argenlieu.

Dư luận trong nước thì vẫn còn đang sôi sục vì Pháp đã chiếm lại Nam Bộ, quả này mà dân thấy treo cờ ra với lý do chào đón "toàn quyền" thì thể nào "bọn phản động" cũng có cớ sẽ làm rùm beng lên công kích chính phủ Việt Minh bán nước cho mà xem.

Đúng là một bài toán khó cho Ông Cụ và các đồng chí của mình.

Quân đội Pháp thì muốn tổ chức lễ đón D'Argenlieu thật long trọng để phô trương thanh thế và khẳng định sự quay trở lại của Pháp. Họ mời Hồ Chí Minh tới dự vào ngày 19/5/1946.

Ngày 18 sau khi nhận được giấy mời Ông Cụ liền cử bộ trưởng Phan Anh tới dự và sau đó yêu cầu thư ký Vũ Đình Huỳnh mời các lãnh đạo trong chính phủ và các đoàn thể tới Bắc Bộ Phủ dự lễ sinh nhật mình vào ngày hôm sau. Theo Hồi ký "Tháng tám cờ bay" của Vũ Đình Huỳnh có đoạn:

“Khi tôi báo tin về ngày sinh của Bác, mọi người cằn nhằn sao nước đến chân mới nhảy. Anh Trường Chinh nói rằng tôi đã biết ngày sinh của Bác mà không nói trước. Tôi thưa lại: Bác vừa bảo thì tôi đến đây ngay”.

Chi tiết này cho thấy ngày sinh nhật đùng một cái được đẻ ra này chắc đến 100% là sinh nhật giả. Vì đâu mà ông Hồ lại sinh khéo thế đúng vào dịp có "việc phải xử lý".

Hôm sau, cả Hà Nội bừng lên màu cờ, biểu ngữ chúc mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tối 19/5, lễ mừng chính thức được tổ chức trọng thể tại Bắc Bộ Phủ. Không khí tưng bừng, quan khách tấp nập. Các đoàn thiếu nhi gõ trống ca vang trong phủ. Trong không khí rộn ràng đó, Cao ủy D’Argenlieu và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang hoa đến "chúc mừng sinh nhật Hồ chủ tịch".

Hiệu quả của việc lựa chọn ngày sinh cho mình của Ông Cụ đã giúp Ông đi một nước cờ ngoại giao có ý nghĩa cả về mặt đối nội và đối ngoại.

Đối với dân chúng ông đã tìm được một lý do để treo cờ "đón giặc Pháp" là để mừng thọ “Cha già dân tộc” mà họ không hề nghi ngờ gì về mục đích của nó, điều ấy cũng tạo thêm hậu thuẫn cho bản thân ông và Việt Minh, giúp đo được sự ủng hộ của dân chúng đối với mình, cũng như kiềng mặt các đảng phái đối lập.

Đối với các đồng chí là cơ hội biểu dương lực lượng, cho họ được chào mừng ngày thành lập Việt Minh.

Còn đối với Pháp Ông Cụ đã đảo ngược thế cờ, đổi vị thế chủ và khách với phía Pháp, tránh không đến dự buổi lễ phía Pháp tổ chức mà lại kéo hai đại diện chính của nước Pháp đến chào mình, nói theo kiểu vẫn thấy trong phim Tàu là "hạ thấp oai phong của địch nâng cao uy thế của ta", tạo bước đệm tốt cho chuyến thăm của ông sang Pháp sắp tới.

Nói chung là một mũi tên trúng nhiều con chim và từ sau sự kiện đó thì ngày 19/5 được chính thức hóa trở thành ngày sinh Ông Cụ.

Mọi người có thể tham khảo các thông tin về lý lịch của Bác theo các kênh chính thống như Tạp chí Cộng sản hoặc các thông tin gần đây được công bố trên đài báo TW.

16/05/2017

Vài nét về Đàn ông


1. Hầu như chàng trai nào cũng không ưa những kẻ tán tỉnh bạn gái mình.
2. Một chàng trai có thể bị thu hút bởi ngoại hình của bất cứ cô gái nào. Nhưng để rơi vào tình yêu với một người con gái nào đó, những vấn đề thuộc về thế giới nội tâm mới là yếu tố quan trọng.
3. Đàn ông ghét những cô gái xấu tính, hay có ác ý với người khác, cho dù cô ta xinh đẹp cỡ nào.
4. Người duy nhất khiến các chàng yêu và hâm mộ mãnh liệt chỉ có mẹ họ mà thôi.
5. Các gã đàn ông có thể nói nhiều hơn bạn, nếu chủ đề các cuộc trò chuyện có liên quan đến phụ nữ.
6. Chàng trai nào cũng ghét cay ghét đắng khi bạn gái họ kể về người yêu cũ.
7. Con trai không thích những cô gái thề thốt quá nhiều.
8. Các chàng trai không thích hành động bạn chạm vào mái tóc anh ta.
9. Đàn ông có xu hướng bị thu hút bởi những cô gái có phẩm chất, tính cách tương tự như mẹ của họ.
10. Con trai ghét bị người khác đối xử với mình như một đứa trẻ 3 tuổi, đặc biệt là ở giữa chốn đông người. Ngay cả khi đó là hành động thể hiện sự quan tâm, chăm sóc họ thì họ vẫn thích đón nhận những điều đó ở chỗ riêng tư hơn
11. Nếu một anh chàng hứa sẽ gọi điện cho bạn mà không gọi lại, điều đó không có nghĩa là anh ta quên hoặc bị mất số điện thoại của bạn. Nó đơn giản là tín hiệu cho thấy chàng không muốn gọi cho bạn mà thôi.
12. Hầu hết đàn ông dễ xúc cảm hơn so với phụ nữ, ngay cả khi họ tỏ ra rất mạnh mẽ ở bề ngoài.
13. Nụ cười của một cô gái có thể kích thích bất kỳ chàng trai nào.
14. Hầu hết đàn ông đều sẵn sàng chọn thể thao thay vì đi chơi với con gái.
15. Cho dù bề ngoài đàn ông luôn tỏ ra không vấn đề gì nhưng thực lòng, họ không thể thích nổi những gã kiếm được nhiều tiền hơn mình.
16. Đa số các chàng không mấy hứng thú trước các cô gái trang điểm quá đậm và hay hành động giả tạo. Họ thích những cô gái đơn giản và tôn thờ lối sống tự nhiên.
17. Khi ở trong một mối quan hệ nghiêm túc, các chàng trai có xu hướng yêu nửa kia của mình nhiều hơn so với tình cảm mà phụ nữ dành cho họ.
18. Các chàng luôn thích những cô gái độc lập và tự tin vào chính mình. Một cô gái lúc nào cũng không chắc chắn về bản thân mình sẽ không tạo được hứng thú đối với đàn ông.
19. Đàn ông cực ghét khi bị bỏ lại một mình.
20. Khi đã yêu thật lòng, các chàng trai sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi phải vượt qua cú sốc chia tay so với con gái.
21. Một trong những sở thích lớn của phái mạnh là đương đầu với thử thách. Nếu quá dễ dãi để chiếm được trái tim một cô gái nào đó, họ sẽ nhanh chóng đánh mất sự quan tâm, yêu thích, hứng thú với cô gái đó. Họ sẽ có xu hướng bị thu hút bởi những cô gái tỏ ra kiêu kì, gây khó khăn cho công cuộc chinh phục của họ.
22. Những gã trai nam tính cực kỳ ghét những anh chàng gay.
23. Các chàng trai cũng thích ngồi “tám” chuyện tầm phào thậm chí còn nhiều hơn cả phái nữ.
24. Đàn ông thường suy nghĩ quá nhiều trước mọi vấn đề.
25. Nếu một anh chàng liên tục trêu ghẹo bạn, chỉ là anh ta đang cố gắng để có được sự chú ý của bạn. Mà nguyên nhân sâu xa là bởi anh ấy đang thích bạn.
26. Hành động liều lĩnh và cũng là khó khăn nhất của các chàng trai đó là buộc phải cư xử như những đứa trẻ trước mặt bạn gái.
27. Đàn ông không thích những cô gái mạnh mẽ hơn họ về mặt thể chất.
28. Các chàng thường có cảm giác bất an nếu bạn gái không thường xuyên và liên tục nhắc nhở với họ rằng bạn yêu họ.
29. Phái mạnh thích các cô gái hay đỏ mặt, họ cảm nhận đó là nét hấp dẫn.
30. Chàng trai nào cũng rất ghét mỗi khi con gái chọn cách ứng xử với họ bằng sự im lặng. Họ thích lắng nghe tất cả suy nghĩ, cảm giác của phụ nữ hơn là phải đối mặt với sự im lặng.
Nhưng điều đó lại mang đến nỗi thất vọng lớn với các chàng sau khi nghe được tất cả sự thật. Bởi họ không đoán được những gì con gái thực sự nghĩ và mong muốn.
31. Phụ nữ có thể nói nhiều hơn đàn ông. Nhưng cũng có lúc các chàng trở thành kẻ “lắm lời”. Đó là khi họ trò chuyện với 1 người con gái thực sự thân thiết, gần gũi. Sở thích của phái mạnh luôn là những cô gái biết lắng nghe.
32. Không riêng gì con gái, con trai cũng thích những món quà và muốn nhận được những điều bất ngờ.