26/07/2021

Miệt vườn, miệt thứ, miệt dưới



Đận vừa rồi mình có dịp đi thăm thú miền Tây Nam b mới biết và vỡ vạc được nhiều điều. Ví dụ như miệt Vườn, miệt Thứ, miệt Dưới…

Cũng may trong chuyến đi này mình được gặp gỡ nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Nam bộ, mấy ông nhà văn bản địa và các cụ cao tuổi nên thu hoạch rất phong phú.

Ở miền Nam ta hay nghe nói tới Miệt Vườn, và thường hiểu Miệt Vườn nôm na là vùng đồng ruộng, vườn tược đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Còn từ Miệt Thứ coi vậy mà ít người nghe nói, ngay cả khi tôi hỏi những người bạn quê quán, gốc gác Nam bộ.

Sách Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Hùynh Tịnh Của giải thích chữ Miệt:

- Miệt. Nhỏ mọn, xứ miền, một dãy đất.

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị còn phân biệt Miệt vườn và Miệt ruộng:

- Miệt vườn: Miền vườn, đất vườn.

- Miệt ruộng: Miền ruộng, xứ ruộng, phường ruộng.

Nhà văn, học giả Sơn Nam (1926-2008), một người được mệnh danh là “Ông già Nam bộ”, “Nhà Nam bộ học”, đã viết về vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau:

Người ở đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích khá tỉ mỉ những nét đặc biệt của từng vùng nhỏ trong đồng bằng. Họ gọi riêng rẽ:

- Miệt trên: vùng Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa có thể tính luôn vùng Tân An.

- Miệt Cao Lãnh: vùng chợ Cao Lãnh ngày nay, trước kia là quận lỵ của Sa Đéc.

- Miệt Đồng Tháp Mười.

- Miệt Dưới: vùng Rạch Giá, Cà Mau.

- Miệt chợ Thủ, Miệt Ông Chưởng, theo lòng Ông Chưởng, nối sông Hậu qua sông Tiền, tỉnh Long Xuyên.

- Miệt Xà Tón, Bảy Núi, tức là vùng Thất Sơn và quận lỵ Tri Tôn (Châu Đốc).

- Miệt Hai Huyện (cũng là miệt Chợ Thủ, Ông Chưởng).

Miệt Vườn, gọi tổng quát những vùng cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Miệt Vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long.

Chúng ta đã nghe những danh từ:

- Về vườn, gái vườn, công tử vườn, điếm vườn, bắp vườn, nhà vườn…

Hồi trước năm 1975 bạn nào ở Saigon chắc có nghe từ “Dân chơi miệt vườn”, có lẽ ý nghĩa tương đương với từ “Công tử vườn” trong sách của nhà văn Sơn Nam. Một “Công tử vườn” vang danh thiên hạ xưa nay mà người dân Nam bộ ai cũng biết tiếng, đó là “Công tử Bạc Liêu” Trần Trinh Huy (1900-1974), còn gọi là Ba Huy và có biệt danh là Hắc Công Tử, người nức tiếng ăn chơi một thời, đã dám sắm và lái máy bay đi thăm ruộng vườn của gia đình (đất của nhà ông ấy rộng đến nỗi, có lần ông Huy cùng cô bồ đi máy bay thăm ruộng, lạc sang đất Thái, bị không quân Thái bắt, phải do cha đem 5 ngàn đồng bạc Đông dương sang chuộc về).

Như vậy theo nhà văn Sơn Nam, thì Miệt Vườn là những vùng đất cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Nhà văn Sơn Nam cũng cho biết Miệt Vườn là nơi có mật độ dân số cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, được tạo lập trên những đất gò, đất giồng, đất vườn phù sa rất tốt, thích hợp trồng cây ăn trái, người dân quê làm vườn đỡ vất vả mà dễ kiếm ăn hơn làm ruộng, cuộc sống khá sung túc. Cho nên nhìn trên bản đồ thấy ở Miệt Vườn có rất nhiều địa danh, nhiều chợ quận, chợ làng.

Thế còn Miệt Thứ?

Như đã nói bên trên, hơi lạ là khi hỏi về Miệt Thứ, vài người bạn hoặc người quen biết gốc gác miền Tây Nam bộ của tôi lại không biết, có người còn nói chưa nghe nói đến tên Miệt Thứ bao giờ. Trong sách của nhà văn Sơn Nam có nói đến Miệt Thứ. Ông viết:

Đại Nam Nhất Thống Chí chép đó là vùng “Lâm Sác”, vùng Thập Câu, giới bình dân gọi nôm na đó là Miệt Thứ, là ven U Minh. Thập Câu là mười con rạch mang tên là rạch thứ Nhứt, rạch Thứ Hai… rạch thứ Mười chảy song song từ vùng đất thấp U Minh Thượng ra biển, gọi là “thập” nhưng trong thực tế hơn mười con rạch.

Người địa phương lần hồi khai thác và khám phá thêm, thí dụ như rạch thứ chín rưỡi (giữa rạch thứ Chín và thứ Mười) hoặc rạch Xẻo Vẹt, Xẻo Ngát, Chà Và giả, Chà Và thiệt, rạch Ổ Heo, rạch Nằm Bếp, rạch Kim Quy…

Đây là vùng đất vào thời trước rất xa xôi, hiểm trở với nhiều thú dữ và bệnh tật, là nơi dừng chân cuối cùng của người dân Việt trên con đường Nam tiến, người dân chỉ đến khai thác vùng này từ sau năm 1870.

Ở vùng Miệt Thứ ruộng xấu năng xuất kém, đất thấp nhiều muỗi mòng, nhưng được một cái ở Miệt Thứ những thức ăn như kỳ đà, rắn, lươn, cua, cá lóc, tôm, đuông chà là nhiều đến mức ê hề, người sành điệu tha hồ mà chế biến, có lẽ dân miền Tây nhậu giỏi cũng nhờ “mồi nhậu” chế biến từ những “hế biến từ những “đặc sản” này.

Miệt Thứ thời ấy xa xôi cách trở quá, cho nên cô gái Miệt Vườn theo chồng về Miệt Thứ có tâm sự:

Đêm đêm ra đứng hàng ba,
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.
Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho ai?

Còn cô gái ở miền Miệt Thứ Cà Mau lại bày tỏ:

Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh
.

Trong sách của Bùi Đức Tịnh (1923-2008), một học giả, nhà giáo, nhà báo quê ở Ba tri – Bến Tre, sách của ông viết nhiều về đủ mọi thể loại (Văn học sử, Văn học, Ngôn ngữ học, Địa danh Nam bộ…) cũng có viết về Thứ và Miệt Thứ:

- Thứ: Danh từ dùng riêng trong vùng Rạch Giá, Cà Mau để gọi 9 con rạch đổ ra vịnh Thái Lan bắt đầu từ chỗ gần sông Cái Lớn (Rạch Giá) xuống đến Khánh Lâm (Cà Mau). Ngọn rạch gần sông Cái Lớn nhất gọi là Thứ Nhứt, rồi đến Thứ Nhì, Thứ Ba… cho đến Thứ Chín.

Cũng cần phân biệt vùng có những con rạch đến thứ chín này là khu vực Thới Bình, Huyện Sử (tên một ngôi chợ) với khu vực gọi là “Miệt Thứ” thuộc quận Năm Căn ngày trước. Đây là vùng U Minh Hạ có 12 con kinh đưa vào rừng lấy củi, ăn ong (lấy mật ong), được gọi theo thứ tự từ kinh 1 đến kinh 12…

Nói chung qua hai học giả người Nam bộ chuyên viết vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta thấy:

Miệt Vườn: để chỉ vùng đất cao giồng, gò có vườn cam vườn quýt (vườn trái cây) ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ, đây là vùng đất màu mỡ, trù phú, người dân Việt Nam đến định cư tại vùng này khá sớm, cuộc sống sung túc.

Miệt Thứ: là vùng đất thuộc vùng U Minh, Cà Mau, nơi có hơn mười con rạch mang tên rạch thứ Nhứt, rạch thứ Hai… (theo nhà văn Sơn Nam), hoặc mười hai con kinh gọi theo thứ tự từ kính đến kinh 12 (theo học giả Bùi Đức Tịnh). Chữ Thứ ở đây là theo thứ tự của các con rạch, con kinh. Vùng này thời trước xa xôi, hiểm trở, dân cư thưa thớt, nghèo nàn bệnh tật… với nhiều hiểm nguy, còn truyền lại trong những câu ca dao:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.

Hoặc:

Tới đây xứ, sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.

Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Bây giờ những từ ngữ, địa danh như Miệt Vườn, Miệt Thứ đã dần trở thành quá khứ ít được nhắc tới, bởi đâu đâu cũng đã là thành phố.

Cách nay vài chục năm (trước năm 1975) ở miền Nam, thì từ “thành phố” được mặc nhiên để chỉ Saigon.

Thời đó những tỉnh duyên hải, cao nguyên miền Trung, hay về miền Tây Nam bộ, người ta gọi Saigon là “thành phố”, người Saigon là “người thành phố, dân thành phố”, và khi người ở những địa phương ấy nói “đi chơi thành phố” ai cũng hiểu là “đi chơi Saigon”.

Một từ khác chỉ địa danh ở miền Tây Nam bộ hồi đó cũng hay được người dân Saigon nói, với ngụ ý để chỉ một nơi xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy, bây giờ gọi là “vùng sâu vùng xa”, hoặc dùng để chê bai ai đó “cù lần lửa, quê cời quê kệch”.

Những ai là công chức hay trực thuộc quân đội VNCH bị chuyển đi đến những nơi như thế, thường được ví von là “đi Chắc Cà Đao”, còn anh chàng nào dưới quê mới lên Saigon còn ngờ nghệch, được ví là “gia đó ở Chắc Cà Đao mới lên”.

Nhưng cũng ít người rõ nơi này ở đâu. Trang văn Học và Ngôn Ngữ của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – TP. HCM cho biết:”Đó là tên một con rạch, cũng là tên một ngôi chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần Long Xuyên (An Giang). Học giả Vương Hồng Sển có ghi lại hai giải thích về tên gọi Chắc Cà Đao:

Theo ông Nguyễn Văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng này xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek: rạch; Pedao: loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.

Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn.

Đấy chỉ là mấy thu hoạch nhỏ trong chuyến đi này của mình; có dịp lại xin chia sẻ thêm.

Tham khảo:

– Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh Miệt Vườn, Sơn Nam, NXB Trẻ-2014.

– Lược khảo nguồn gốc Địa danh Nam Bộ, Bùi Đức Tịnh, NXB Văn Nghệ TP. HCM-1999.

 


Ngẫm n+2

 

Chính trị luôn đứng trên quân sự, bất kể là trước đây hay sau này, chính trị gia mới là người phát động chiến tranh, là người đặt ra chiến lược, bọn họ căn cứ vào lợi ích của quốc gia, chĩa mũi nhọn vào một chỗ nào đó, phát động từng cuộc chiến tranh một.

Không phải nhà Quân sự muốn đánh thế nào thì đánh, mà tướng lĩnh chẳng qua là căn cứ vào nhu cầu của Chính trị gia, đi đến tiền tuyến điều binh khiển tướng, bài binh bố trận, bố trí chiến thuật, đánh thắng trận chiến này.

Có chút thời điểm, một vị tướng quân nào đó đánh thắng được một trận chiến, nhưng lại không đạt được lợi ích mà Quốc gia cần, đấy cũng là làm điều vô ích, nếu không có chút giá trị nào thì đây cũng là một lần hành động thất bại.

Cho nên, nhiều nhà Quân sự, chả biết có tài ba hay không đều muốn làm Chính trị gia là vì thế.

20/07/2021

Xoa bóp chữa đau lưng

 Sau một thời gian bấm phản xạ đốt sống thắt lưng ,bệnh nhân thấy chỉ đỡ nhưng không khỏi .

Tôi hướng dẫn bấm phản xạ Thận ,niệu quản ,bàng quang - mấy hôm sau thì ok .

Sau đây là các vùng phản xạ cần làm :
1- Vùng px cột sống thắt lưng mỗi chân 3 phút ,ngày 2 lần .
2- Vùng phản xạ Thận ,niệu quản ,bàng quang vừa bấn vừa vuốt mỗi chân 3-5 phút ,ngày 2 lần .



HƯỚNG DẪN LÀM DAO THÁI TỪ THÉP CƯA GỖ SIÊU SẮC


 

19/07/2021

Chuyện nhàm

 

Lúc đó nước Tề muốn làm suy yếu nước Lỗ và nước Lương, cố ý thu mua hàng dệt thô của hai nước với giá cao;

Để làm suy yếu nước Lai và nước Cự, cố ý thu mua củi của hai nước với giá cao;

Để làm suy yếu hai nước Đại và Sở, cố ý thu mua da hồ ly trắng của nước Đại và nai sống của nước Sở với giá cao.

Như vậy, vua dân các nước Lỗ, Lương, Lai, Cự, Đại, Sở quả nhiên đều mắc mưu, rối rít bỏ bê nông canh mà đi dệt vải, đốn củi, săn hồ ly, bắt nai. Mà nước Tề lại nhân cơ hội này toàn lực sản xuất lương thực, tăng sản lượng dữ trữ lương thực của quốc gia và dân chúng.

Một thời gian sau, nước Tề ngừng thu mua những sản vật trên, đồng thời thực hiện đóng cửa, không bán lương thực cho đối phương.

Như vậy, giá lương thực của các nước tăng vọt, giá lương thực của nước Tề lại vô cùng thấp. Thế là, phần lớn dân chúng bỏ chạy sang nước Tề, quốc lực các nước suy yếu, cuối cùng không thể không cúi đầu xưng thần với nước Tề, Tề Hoàn Công cũng vì thế mà trở thành bá chủ một thời.

17/07/2021

Luận người Tốt - Xấu

 

Trên thế giới này vốn không có sự phân biệt người tốt và người xấu. Bởi vì người xấu và người tốt đều là một sự phán đoán chủ quan của mọi người, là theo quan niệm đạo đức của bản thân họ mà chế định ra.

Nếu là người chế định ra, vậy thì không thể là sự thực khách quan.

Có thể nói như thế này: người xấu chính là loại người gặp bất kỳ chuyện gì cũng đều xuất phát từ lợi ích của bản thân mình. Còn người tốt thì khi gặp bất kỳ chuyện gì, họ đều suy nghĩ tới lợi ích của người khác trước, sau đó mới dùng giá trị quan của mình.

Người sau sẽ dùng giá trị quan của mình để nhìn người trước, ngược lại cũng thế.

 

13/07/2021

Ngẫm n+1

   Mượn việc đọc Sử mới thấy sơ một điều: Sự khác biệt giữa minh quân và hôn quân rất đơn giản. Một kẻ thì luôn nghĩ sẽ vì nhân dân mà phục vụ; kẻ còn lại thì chỉ nghĩ làm sao khiến nhân dân phục vụ cho mình.

    Phục vụ và bị phục vụ, căn bản là vô cùng khác biệt.

10/07/2021

10 câu thần chú phổ biến trong Phật giáo

 


Thần chú mang lại cho chúng ta sự bình tĩnh, tự tại, thăng bằng và thoải mái khi gặp khó khăn. Khi trì tụng thần chú, chúng ta nên giữ cảm giác tích cực, hoan hỷ và cống hiến, hồi hướng công đức ấy cho tất cả chúng sinh được giác ngộ và an lạc, như là một hành động từ bi cao cả.

Khi trì chú, chúng ta nên để cho tâm được tập trung nhưng vẫn giữ trạng thái thật thư giãn, thả lỏng và không nghĩ tới bất cứ điều gì khác. Chỉ cần tập trung tâm cho việc trì tụng thần chú. Nên nhớ rằng, dù tu tập theo phương pháp gì đi nữa thì điều quan trọng nhất luôn được đề cập và nhấn mạnh trong Phật giáo vẫn là nên làm những điều thiện và luôn tránh xa điều ác!

1. Lục Tự Đại Minh chú của Quán Thế Âm Bồ Tát 

OM MANI PADME HUM
Đọc là: Ôm Ma-ni Pê-mê Hung.

Thần chú Sáu Âm này là tinh tuý của tâm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cao quý, người luôn dõi theo chúng sinh trong sáu cõi với lòng từ bi. Vì thế, tụng chú này sẽ giải thoát các chúng sinh khỏi luân hồi.

2. Thần chú của Đức Tara Xanh 

OM TARE TUTTARE TURE SOHA 
Đọc là : Ôm Ta-rê Tu-ta-rê Tu-rê Soha

Tụng thần chú của Tara Xanh sẽ giúp vượt qua nỗi sợ hãi và giận dữ, bảo vệ chúng ta khỏi những chướng ngại cũng như tăng trưởng những ước nguyện một cách nhanh chóng.

3. Thần chú của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

OM A RA PA TSA NA DHIH 
Đọc là: Ôm A Ra-pa Sa Na Đi

Niệm Thần chú này tăng thêm trí tuệ, khả năng biện luận, nhớ, viết…

Khi niệm, âm “Dhih” của câu chú cần được nhấn mạnh.

4. Câu tâm Chú Chuẩn Đề

OM CALE CULE CUNDI SOHA
Đọc là: Ôm Ca-lê Cu-lê Cun-đi Soha

[Hay bản dịch tiếng Hán là: Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta-bà-ha].

Từ xưa người ta đã quen vẽ 9 chữ thần chú Chuẩn Đề thành 1 vòng tròn để thờ trong nhà và hàng ngày trì tụng để mang lại những kết quả tốt đẹp, linh nghiệm trong cuộc sống.

5. Câu Tâm Chú Lăng Nghiêm: 

Để hàng phục ma quỷ như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật đã nói.

OM ANALE VISADE VIRA VAJRA-DHARE BANDHA BANDHANI VAJRA-PANI PHAT HUM TRUM PHAT SOHA.
Đọc là: Ôm A-na-lê Vi-sa-đê Vi-ra Vaj-ra Đa-rê Ban-đa Ban-đa-ni Vaj-ra Pa-ni Phát Hum Trum phát Soha

6. Thần chú của Phật Di Đà: 

OM AMI DEWA HRIH
Đọc là: Ôm A-mi Đê-goa Ri

“Hrih”đại diện cho những phẩm chất của Đức Phật Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc,chủ yếu là thiền định và lòng từ bi.

7. Thần chú của Phật Thích Ca Mâu Ni

OM MUNI MUNI MAHA MUNIYE SOHA

Thần chú này nhằm tiêu diệt tội chướng, nhanh chóng giải thoát. Thần chú Phật Thích Ca Mâu Ni có thể được coi là tinh túy của Đức Phật, bản chất của sự giác ngộ của Ngài.

8. Thần chú Địa Tạng Bồ Tát: 

OM PRA MANI DHANI SOHA
Đọc là: Om Pra Ma-ni Đa-ni Soha

Thần chú Địa Tạng làm tiêu hết các nghiệp chướng đang mang.

9. Thần chú của vị thần tài Phật giáo Zambala

Zambala được coi là 1 vị Phật mang lại của cải, giàu sang.

Người ta cho rằng nếu gặp khó khăn hoặc lo âu trong tiền bạc, tài chính thì có thể niệm tên ngài Zambala hoặc trì tụng thần chú của ngài là:

OM ZAMBALA JARDIN JAYA SOHA.

[hoặc OM ZAMBALA ZALENDHRAYE SOHA]…

thì sẽ được toại nguyện.

Quan niệm của Phật tử Tây Tạng trong việc thờ phụng hoặc thực hành trì chú Zambala là để xua tan sự lo âu, bất an về tiền bạc.

Dân gian thường gọi ngài là “Zambala – God of Wealth” (Zambala- vị thần của giàu sang).

10. Thần chú Bát Nhã Tâm Kinh

GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE BODDHI SOHA
Đọc là: Ga-tê Ga-tê Pa-ra-ga-tê Pa-ra sam-ga-tê Bo-đi Soha.

Thần chú trí tuệ chiếu phá vô minh, trừ dứt phiền não. Cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được Vô Thượng Niết Bàn. Lại cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được Vô Thượng Bồ Đề.

Những người hành trì Kinh Đại Thừa Phật Giáo đều có tụng các Thần Chú trong các thời khoá nhằm mục đích tiêu trừ nghiệp chướng oan khiên, thêm được phước lành tăng trưởng.

 Ý nghĩa chữ Thần Chú là lời nói bí mật của chư Phật (Mật ngôn hay Phật ngôn), lời nói đặc biệt này chỉ có các đức Phật trong mười phương nghe biết mà nó không phải là thứ ngôn ngữ thường tình của các chúng sanh trong ba cõi sử dụng, cho nên những thứ ngôn ngữ này người phàm phu không thể nào hiểu rõ.

Những ai muốn chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương gia hộ những khổ đau của cuộc đời chỉ cần hành trì Thần Chú được chỉ dẫn sẽ được linh ứng theo sở cầu.