09/11/2015

KINH A DI ĐÀ.

KINH A DI ĐÀ.
Hán dịch: nhà Dao Tần,
Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Saigon, Việt Nam

1. Kỳ Viên đại hội.
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.
2. Y báo, Chánh báo.
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
3. Y báo trang nghiêm
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.
Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
4. Chánh báo vô lượng thù thắng.
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
5. Nhơn sanh vãng lai
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
6. Sáu phương Phật đồng khuyên tin
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
7. Thuyết kinh rất khó
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Đà.




Thích Nghĩa:
1. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Đà Phật.
2. Triều Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
3. Ông Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
4. A-Dật-Đa là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..
[6]. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.
6.1 Khổ ở cõi Ta Bà
Tam Khổ:
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..
2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.
3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát Khổ:
1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc.
3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
4. Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.
5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong.
6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
7. Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.
6.2 Vui ở Cực Lạc
Tam Lạc:
1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...
2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...
3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...
Bát lạc:
1. Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..
2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...
3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...
4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...
5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên...
6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..
7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..
8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..
Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.
7. Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
9. Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10. Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. — trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
11. Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là a Di Đà.
12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát ..phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
14. Người tu Tịnh Độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].
Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.
15. Ngũ Trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).


Dưỡng sinh theo quy luật vận hành 12 kinh lạc của cơ thể người

   Các kinh lạc trong cơ thể chúng ta là cái gốc của sinh mệnh, chúng lại vận hành có quy luật rõ ràng. Vì vậy, việc hiểu và thực hành lối sống thuận theo quy luận vận hành của các kinh lạc là mở cánh cửa cho sức khỏe chúng ta. Dưới đây xin trình bày lại quy luật vận hành của 12 kinh lạc cùng những hướng dẫn cụ thể hữu ích trong sinh hoạt hàng ngày.


kinh-lac
1. Thủ thái âm phế kinh
phe-kinh
Thủ thái âm phế kinh
Giờ Dần (từ 3 – 5 giờ): Phế kinh vượng. Giờ dần ngủ tốt thì sắc hồng tinh khí đủ.
“Phế hướng về trăm mạch”. Phế vào giờ Sửu đưa máu huyết vào giai đoạn mới, máu mới cung cấp cho phế, rồi qua phế đưa đến toàn thân. Vì thế sắc mặt vào sáng sớm thường hồng hào, tinh lực dồi dào.
Người bị bệnh phổi sẽ phát mạnh nhất vào giờ Dần, ví như ho hay thở khò khè làm tỉnh ngủ.
Chứng thực: Chướng bụng, dễ táo bón, dễ bị trĩ, lưng và vai khó chịu, đau răng, da dẻ khác thường, thượng quản khác thường…[ads1]

2. Thủ dương minh đại tràng kinh
trang-kinh
Thủ dương minh đại tràng kinh
Giờ Mão (5 – 7 giờ): Đại tràng kinh vượng. Giờ Mão đại tràng hoạt động thải chất độc và cặn bã.
“Phế và đại tràng tương quan biểu lý”. Phế mang máu mới phân bố khắp toàn thân, giúp đại tràng đi vào trạng thái hưng phấn, hoàn thành quá trình hấp thụ dinh dưỡng và nước trong đồ ăn, thải chất cặn bã. Sáng sớm sau khi dậy là thời gian đại tiện rất tốt.
Chứng thực: Dễ đói, dạ dày yếu, xương khớp khác thường, thèm ăn, miệng khô, dễ táo bón.
Dưỡng sinh: Tranh thủ dậy sớm và uống một ly nước ấm, sau đó vào nhà vệ sinh thải những chất cặn bã tích trữ cả ngày hôm trước! Tuy nhiên cũng không nên vào nhà vệ sinh quá sớm, vì có nhiều người già bị trúng gió vì nguyên nhân này. Nên nghỉ ngơi khoảng 10 – 20 phút cho đầu óc tỉnh táo rồi đi. Lời khuyên về đồ ăn: cà tím, rau chân vịt, chuối, nấm, mộc nhĩ, ngô, đậu cô-ve, đậu Hà Lan…

3. Túc dương minh vị kinh
vi-kinh
Túc dương minh vị kinh
Giờ Thìn (7 – 9 giờ): Vị kinh vượng.
Giờ Thìn ăn sáng, ổn định dinh dưỡng cơ thể. Ăn sáng vào giờ này dễ tiêu hóa, hấp thu cũng tốt. Ăn sáng có thể dùng đồ ăn nhẹ giúp bảo vệ dạ dày, như cháo, ngũ cốc, bánh bao… Đồ ăn quá khô nóng sẽ làm nóng dạ dày khiến môi khô nẻ, nhiệt… Còn nhịn ăn sáng sẽ dễ bị bệnh tật.
Chứng thực: Tỳ vị bất hòa, tiêu hóa và hấp thu không tốt sẽ dễ sinh đầy bụng, đau đầu, mệt mỏi, xương khớp khó chịu, bài tiết khác thường…
Dưỡng sinh: Chú ý ăn sáng. Nếu bao tử đói sẽ không ngừng tiết axít dạ dày, lâu dần sẽ gây loét dạ dày, viêm dạ dày, tá tràng, túi mật… Sau khi ăn khoảng một giờ có thể mát xa kinh vị giúp điều tiết công năng dạ dày.

4. Túc thái âm tỳ kinh
ty-kinh
Túc thái âm tỳ kinh
Giờ Tỵ (9 – 11 giờ): Tỳ kinh vượng, cơ thể tạo máu.
“Tỳ chủ vận hóa, tỳ thống huyết”. Tỳ là cơ quan điều hành toàn bộ việc tiêu hóa, hấp thu, bài tiết, lại quản về máu. “Tỳ khai khiếu ra miệng, phát ở môi”. Công năng của tỳ tốt thì việc hấp thu và tiêu hóa cũng tốt, chất lượng máu cũng tốt, môi sẽ hồng mịn. Môi trắng cho thấy khí huyết không đủ, môi thâm cho thấy khí lạnh nhiễm kinh tỳ.
Dưỡng sinh: Tỳ vị bất hòa, tiêu hóa và hấp thu không tốt, tỳ hư khiến trí nhớ suy giảm… Đây là thời gian kinh tỳ vận hành khai huyệt, cũng là thời gian bảo vệ tỳ tốt nhất. Kiến nghị nếu có điều kiện hãy dành cho bữa trưa nhiều lựa chọn về món ăn: đậu cô-ve, khoai lang, khoai tây, đậu hũ, rau cần tây… Trái cây có thể chọn táo, cam, quýt… Nước trà có thể chọn trà xanh, trà hoa nhài, mật ong…
5. Thủ thiếu âm tâm kinh
Giờ Ngọ (11 – 13 giờ): Tâm kinh vượng. Giờ Ngọ nên nghỉ ngơi để an thần dưỡng tinh khí.
“Tâm chủ thần minh, khai khiếu ở lưỡi, phát ở mặt”. Tim đẩy máu vận hành, dưỡng thần, khí, và cơ bắp. Một giấc ngủ ngắn vào giờ Ngọ có tác dụng dưỡng tim rất tốt, giúp buổi chiều tối sinh lực tràn đầy.
6. Thủ thái dương tiểu tràng kinh
Giờ Mùi (13 – 15 giờ): Tiểu tràng kinh vượng. Giờ Mùi phân trong đục, uống nước giúp hạ hỏa.
Tiểu tràng phân chia trong đục, đưa nước thải về bàng quang, cặn bã về đại tràng, chất tinh túy lên tỳ. Tiểu tràng kinh vào giờ Mùi điều hòa dinh dưỡng trong ngày. Nếu tiểu tràng kinh nóng sẽ dễ ho khan, trung tiện. Lúc này uống nhiều nước, uống trà có lợi cho tiểu tràng thải độc hạ hỏa.

7. Túc thái dương bàng quang kinh
bang-quang-kinh
Túc thái dương bàng quang kinh
Giờ Thân (15 – 17 giờ): Bàng quang kinh vượng. Giờ Thân nước miếng đủ thì cơ thể dưỡng âm tốt.
Bàng quang chứa nước thải và nước miếng, nước thải bài tiết ra khỏi cơ thể, nước miếng tuần hoàn trong cơ thể. Nếu bàng quang nóng sẽ tiểu són. Giờ Thân nhiệt độ cơ thể nóng, người âm hư là nổi rõ nhất. Lúc này vận động sẽ hỗ trợ tuần hoàn nước miếng trong cơ thể, uống nước trà “bổ âm hạ hỏa” hỗ trợ rất tốt cho người âm hư.

8. Túc thiếu âm thận kinh
than-kinhTúc thiếu âm thận kinh
Giờ Dậu (17 – 19 giờ): Thận kinh vượng. Thận tàng tinh, giờ Dậu nạp nguyên khí mạnh.
“Thận chứa tinh chất của sinh sản và tinh chất của lục phủ ngũ tạng. Thận là cái gốc tiên thiên”. Khi qua giờ Thân cơ thể hạ hỏa thải độc, đến giờ Dậu thận tới lúc tích chứa tinh hoa. Lúc này không thích hợp cho những hoạt động mạnh, cũng không hợp uống nước nhiều.

9. Thủ quyết âm tâm bao kinh
tam-bao-kinhThủ quyết âm tâm bao kinh
Giờ Tuất (19 – 21 giờ): Tâm bao kinh vượng, giảm áp lực để tim dễ chịu.
“Tâm bao kinh là lớp da mỏng bên ngoài tim, bên cạnh có mạch, đường thông khí huyết. “Tà” không được vào, nếu không tim sẽ tổn thương”. Tâm bao kinh là bộ phận màng ngoài để bảo vệ tim, cũng là đường thông khí huyết. Tâm bao kinh vào giờ Tuất vượng nhất, giúp loại bỏ những nhân tố gây bệnh xung quanh tim để tim đạt trạng thái tốt nhất. Lúc này cần giữ tâm trạng đặc biệt thoải mái, có thể đọc sách, nghe nhạc, đi spa, khiêu vũ… để thả lỏng tâm trạng, giải tỏa áp lực.
10. Thủ thiếu dương tam tiêu kinh
Giờ Hợi (21 – 23 giờ): Tam tiêu kinh vượng, là giờ thông bách mạch.
Tam tiêu là tạng phủ lớn nhất trong lục phủ ngũ tạng, chủ về khí và có công dụng thông nước. Giờ hợi tam tiêu có thể thông bách mạch, vì thế ngủ vào giờ này là cách dưỡng sinh rất tốt, có lợi cho sức khỏe và giữ dung nhan. Đặc điểm chung của nhiều người già là ngủ vào giờ Hợi. Người hiện đại nếu không thể ngủ vào giờ này thì nên nghe nhạc, đọc sách, xem phim, luyện yoga. Tuy nhiên tốt nhất là không để qua giờ hợi mới ngủ.

11. Túc thiếu dương đảm kinh
Giờ Tý (23 – 1 giờ): Đảm kinh vượng. Giờ Tý ngủ đủ thì không bị thâm quầng mắt.
Lý luận Trung y cho rằng: “Khí dư của gan tiết vào mật, tụ lại thành tinh (dịch mật)”. Người ngủ trước giờ Tý thì mật hoàn thành trao đổi chất. Dịch mật sung túc thì não bộ tỉnh táo. Người ngủ trước giờ Tý thì sáng dậy đầu óc minh mẫn, khí sắc hồng hào, không bị thâm quầng mắt. Ngược lại, trong giờ Tý không ngủ thì khí sắc nhợt nhạt, thâm vành mắt. Ngoài ra, vì dịch mật thải độc không tốt nên dễ kéo theo kết tinh, kết thạch (sỏi mật).

12. Túc quyết âm can kinh
can-kinh
Túc quyết âm can kinh
Giờ Sửu (1 – 3 giờ): Can kinh vượng. Theo lý luận Trung y: can tàng huyết, khi nằm máu về can.
Nếu giờ Sửu không ngủ thì can sẽ tiếp tục phải chuyển vận năng lượng kích thích tư duy và hành động, việc trao đổi chất bị ảnh hưởng. Vì thế trước giờ Sửu không đi vào giấc ngủ thì sắc mặt xanh xám, tâm trạng uể oải, dễ bị bệnh gan và mặt đốm rỗ.
Chứng hư: Khả năng miễn nhiễm của da suy giảm, trời lạnh tay chân dễ tê lạnh, cổ họng khô, ho khan…
Chứng thực: Hơi thở không thông, cổ họng khó chịu, tức ngực, thở khò khè, viêm amidan, ho, đau mỏi vai, dễ bị bệnh trĩ…
Dưỡng sinh: Lúc này cơ thể cần nhiều dưỡng khí, cần thở sâu, vì thế mà phải ngủ sâu. Nếu lúc này không thể ngủ thì tốt nhất hãy uống ly nước ấm cho cơ thể dễ chịu và để phổi không bị khô.
Theo NTDTV

50 tư thế tạo dáng chụp hình chân dung đẹp cho nữ


   Trang Digitalcameraworld đưa ra một số gợi ý về các tư thế cho người được chụp trong phong cách truyền thống, với ảnh toàn thân, ảnh ngồi, ảnh đứng, ảnh chụp từ trên xuống, ảnh chụp chỉ phần đầu và ảnh chụp ngang vai.


Các bạn có thể xem gợi ý cách tạo 50 dáng ở bên dưới đây
















06/11/2015

Không quân Việt Nam hiện tại

Loạt infographic sau đây sẽ đem lại một cái nhìn toàn cảnh về các loại máy bay và vũ khí, trang thiết bị kèm theo mà Không quân Nhân dân Việt Nam đang sở hữu.

Các tiêm kích Su-30MK2 và Su-27 là những chiếc chiến đấu cơ mạnh mẽ và hiện đại nhất Không quân Nhân dân Việt Nam hiện nay. Hiện Không quân Nhân dân Việt Nam có trong biên chế 11 chiếc Su-27 và 36 Su-30MK/MK2 (gồm cả số đang chờ nhận từ Nga).
Tuy Su-27/30 là chiến đấu cơ hiện đại nhất nhưng chiếm số lượng máy bay chiến đấu đông đảo nhất trong Không quân Nhân dân Việt Nam lại là các máy bay Su-22 và MiG-21. Su-22 và MiG-21 từng là hai mẫu chiến đấu cơ mạnh mẽ nhất của Không quân Nhân dân Việt Nam trước khi Su-27 bắt đầu phục vụ.
Bên cạnh các chiến đấu cơ, Không quân Nhân dân Việt Nam còn sở hữu các máy bay huấn luyện 2 chỗ ngồi cũng có khả năng chiến đấu khi cần. Quan chức Nga khẳng định Việt Nam đã đặt hàng máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130 hiện đại.
Về trang bị trực thăng, đóng vai trò chủ lực trong Không quân Nhân dân Việt Nam là các máy bay trực thăng đa nhiệm Mi-8/17.  Mi-171 là biến thể trực thăng Mi-8 hiện đại nhất trong số máy bay Mi-8/17 của Việt Nam.
 Ngoài họ Mi-8/17, Không quân Nhân dân Việt Nam còn sở hữu hơn 20 chiếc trực thăng tấn công Mi-24 huyền thoại có khả năng tiêu diệt xe tăng. Việt Nam cũng có số lượng nhỏ (khoảng 12-15 chiếc) trực thăng đa dụng UH-1H do Mỹ sản xuất, ta thu được sau năm 1975.
 Trước năm 2013, các trực thăng hải quân Ka-28 và Ka-32 nằm trong biên chế Trung đoàn 954, Không quân Nhân dân Việt Nam.   Ka-28 hiện là máy bay săn ngầm chủ lực của Không quân Hải quân Việt Nam.
 Ngoài các loại trực thăng phục vụ nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, Không quân Nhân dân Việt Nam còn có trong trang bị một số máy bay bay dịch vụ.   Các máy trực thăng đa nhiệm EC-155, EC-225 do hãng Eurocopter (châu Âu) sản xuất, thuộc biên chế Binh đoàn 18 (tức Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam). 
 Nòng cốt lực lượng máy bay vận tải Không quân Nhân dân Việt Nam hiện nay gồm chủ yếu vận tải cơ An-26 và An-2. An-26 bắt đầu phục vụ trong Không quân Nhân dân Việt Nam từ đầu những năm 1980 với vai trò chuyển quân, chuyển hàng hóa và có lúc được cải tiến để ném bom.
 Tương lai, máy bay vận tải C-295 và C-212 thế hệ mới sẽ thay thế dần dàn An-26 vốn “tuổi cao, sức yếu” trong Không quân Nhân dân Việt Nam. C-295 có thể là "xương sống" không quân vận tải Việt Nam trong tương lai gần.

05/11/2015

Mấy điều lưu ý khi ngâm chân mùa Đông

Mùa đông sắp đến, hãy dành một chút thời gian sưởi ấm đôi chân của bạn để máu lưu thông nhanh hơn, đôi chân của bạn sẽ khỏe mạnh hơn trong mùa đông lạnh giá sắp tới.
1. Không ngâm chân khi ăn quá no hay quá đói
Khi ngâm chân tránh những lúc ăn quá no hay quá đói, bởi ngâm chân sẽ làm máu lưu thông nhanh hơn, sẽ dễ rơi vào tình trạng chóng mặt. Tốt nhất đợi 30 phút sau khi ăn cơm mới ngâm chân, sẽ không ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho dạ dày.
2. Trẻ con không cần ngâm chân
Cơ thể trẻ con vốn dễ bị nóng, dễ sốt. Nếu như dùng nước nóng để ngâm chân, ra mồ hôi thì nóng càng thêm nóng. Đặc biệt là trẻ nhỏ, sự phản ứng với nhiệt độ không như của người lớn, người lớn cảm thấy vừa ấm nhưng với trẻ nhỏ thì rất nóng mà trẻ nhỏ lại không biết cách biểu đạt suy nghĩ của mình. Do đó không nên dùng nước nóng ngâm chân cho trẻ. Mỗi ngày chỉ cần lấy nước ấm rửa sạch chân, sau đó mát xa chân cho trẻ.
3. Người tiểu đường nên chú ý nhiệt độ nước
Người mắc bệnh tiểu đường phải chú ý nhiệt độ của nước, bởi người mắc bệnh này sẽ khiến dây thần kinh phản ứng với nhiệt độ của nước không bình thường, cho dù nhiệt độ nước rất cao nhưng họ cũng không cảm nhận được, do đó sẽ dễ bị bỏng và một số hậu quả khác.
4. Người mắc bệnh nấm chân phải cẩn thận tránh bị nhiễm trùng
Người mắc bệnh nấm chân khi bệnh tình nghiêm trọng không nên dùng nước nóng ngâm chân, bởi như vậy vết thương rất dễ bị nhiễm trùng.
5. Người già không nên ngâm chân quá lâu
Người cao tuổi khi ngâm chân quá lâu sẽ dẫn đến tình trạng bị đổ mồ hôi, căng thẳng. Do đó, mỗi ngày trước khi đi ngủ người cao tuổi chỉ nên ngâm chân không quá 20 phút.
6. Những người mắc bệnh tim mạch, suy tim, huyết áp thấp, người hay hoa mắt, chóng mặt nên chú ý.
Những người mắc bệnh tim mạch, suy tim, huyết áp thấp, người hay hoa mắt, chóng mặt đều không nên dùng nước quá nóng hay ngâm chân quá lâu. Bởi khi ngâm trong nước quá nóng hay quá lâu các mạch máu sẽ giãn nở, máu dồn về các mạch máu dưới da, từ đó dẫn đến tình trạng thiếu ô xy và thiếu máu cục bộ tại các cơ quan quan trọng như não, tim, não … như vậy nguy cơ tái phát bệnh tim hay huyết áp thấp sẽ tăng cao.
Làm thế nào để ngâm chân hiệu quả?
Bước 1: Hãy ngồi ngay ngắn, hai chân duỗi thẳng phía trước, hai tay thả lỏng, hít thở đều. Lưng thẳng hơi ngả phía sau. Hai chân giữ thẳng hướng về phía trước, xoay khớp cổ chân ít nhất 10 lần.
Bước 2: Lưng thẳng hơi ngả về phía sau. Lấy mắt cá chân làm trọng tâm cố gắng xoay chân trước sau ít nhất 10 lần.
Bước 3: Xoay đều 2 bàn chân ít nhất 10 lần. Đầu tiên xoay hai bàn chân theo chiều kim đồng hồ và ngược lại; tiếp theo đó xoay chân trái theo chiều kim đồng hồ, chân phải theo ngược chiều kim đồng hồ và ngược lại.
9 giờ tối là khoảng thời gian lý tưởng cho việc ngâm chân. Nhưng các bạn hãy lưu ý sáu trường hợp nêu trên để ngâm chân có tác dụng tốt nhất và tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra.

Nguồn: Weixin
Người dịch: Trâm Vũ

04/11/2015

Thực hành 7 câu nói hằng ngày.

Hằng ngày luôn ghi nhớ  và thực hành 7 câu nói dưới đây để trở thành người Tốt hơn.
Một câu nói chân thực:
1.        Trân quý sinh mệnh, vui vẻ với cuộc đời
Hai câu nói thành tâm:
1.        Đừng để ngoại vật sai khiến tâm linh của mình
2.        Đừng để tiền bạc thay thế tình thân
Ba câu nói lương tâm:
1.        Hiếu kính tốt cha mẹ, bởi vì họ là người đã sinh ra và dưỡng dục mình
2.        Bồi dưỡng tốt con cái, bởi vì chúng mới chính là hy vọng của mình
3.        Hòa thuận tốt với vợ, chồng bởi vì họ mới chính là người ở bên mình cả đời
Bốn câu nói nội tâm
1.        Dù sống vừa mệt vừa khổ cũng phải nở một nụ cười
2.        Những sự tình không như ý trong cuộc đời thường là 8 -9 phần, đừng nhìn vào 8-9 phần này mà hãy nghĩ đến 1-2 phần còn lại.
3.        Thường xuyên gột rửa tâm linh, loại bỏ tro bụi
4.        Học cách sống đơn giản, đơn giản là một loại tưởng bình thường mà lại không bình thường
Năm câu nói tri tâm
1.        Đừng vì việc nhỏ mà phải so đo
2.        Đừng vì tiền bạc mà chịu phiền não
3.        Đừng vì tham lam mà bị che phủ
4.        Đừng vì tình cảm mà làm phức tạp
5.        Đừng tìm người khác để đi so sánh
Sáu câu danh ngôn
1.        Tin tưởng bản thân, hãy mỉm cười để đón nhận mọi thử thách của cuộc đời.
2.        Khích lệ chính mình, dùng hành động và sự cố gắng để chứng minh bản thân mình không thua kém người khác.
3.        Ủng hộ chính mình, khiến mình luôn bảo trì một lòng hướng lên
4.        Tôi luyện chính mình để tâm tính của mình luôn bảo trì sự thanh thản
5.        Hoàn thiện chính mình để mình trở thành hoàn mỹ
6.        Quên đi chính mình để nhanh chóng tìm được con đường đến với Phật
Bảy câu nói của người xưa
1.        Đừng so sánh, đừng tự giận mình
2.        Làm nhiều, nói ít, trong tâm cân bằng
3.        Ăn ít muối, ăn nhiều chua, ít chơi bài bạc, đi bộ nhiều
4.        Ngủ đúng giờ, dậy đúng giờ, rèn luyện thể dục thể thao
5.        Vợ chồng yêu thương nhau, con cái hiếu thảo, coi trọng gia đình
6.        Hành thiện, tích đức, trong lòng hướng Phật

7.        Chịu một chút thiệt thòi, một chút khổ, ngốc một chút, ngốc cũng là phúc.