26/09/2014

Thước Lỗ Ban

 Trong xây dựng và thiết kế nội thất, chúng ta thường nghe đến cụm từ “thước Lỗ Ban”. Vậy thước Lỗ Ban là gì và được dùng để làm gì?

   Trong địa lý cổ Phương Đông thực hành, thước Lỗ Ban là một yếu tố không thể tách rời. Qua thực tế thiết kế và thi công vẫn có nhiều người tin tưởng vào cây thước cổ truyền này. Thước Lỗ Ban là một cây thước kinh nghiệm, nó không thuộc bất kỳ hệ thống đo đạc nào trên thế giới, và được đúc kết kèm thử nghiệm cả ngàn đời nay chỉ để phân định hai chữ tốt và xấu. Dĩ nhiên chỉ bằng một cây thước làm sao cải đổi được vận mạng, nhưng có lẽ qua chính sự sử dụng của gia chủ qua nhiều đời mà nghiệm được rằng khi tai hoạ có đến thì cũng nhẹ đi một chút, lộc phúccó tìm thì may mắn được nhiều hơn. 
   Có nhiều truyền thuyết về cuộc đời của Lỗ Ban như khi ông sinh ra từng đàn sếu tụ tập lại và ngôi nhà toả hương thơm kỳ lạ, hay về những con chim gỗ dẫn đường cho ông chế tác ra những người gỗ bất tử … Tuy nhiên, lịch sử ghi lại Lỗ Ban họ Công Thâu tên gọi là Ban, người nước Lỗ đời Xuân Thu (hiện tại thuộc tình Sơn Đông - Trung Quốc), cùng thời với Mặc Tử (một triết gia nổi tiếng). Vì ông là người nước Lỗ, cho nên mọi người gọi ông là Lỗ Ban. Ông là một người thợ nổi tiếng thời cổ đại và cũng là một nhà phát minh xuất sắc. Từ ngàn năm nay, thợ mộc và thợ xây dựng Trung Quốc đều tôn thờ ông như một vị tổ sư. 
    Khi kéo cây thước này ra thì chúng ta sẽ thấy có 2 hàng chữ Hán nằm trong các ô, một hàng chữ lớn và một hàng chữ nhỏ. Các bạn cứ lần theo hàng chữ lớn cho đến ô có 1 số nhỏ, đối chiếu ta được 42,9 cm hoặc gần 17 inches, đó chính là chiều dài của một cây thước Lỗ Ban. Tương truyền, chiều dài này được Lỗ Ban tính từ chiều dài trung bình từ cùi chỏ đến đầu ngón tay út duỗi thẳng của loài người.  Như vậy, suốt chiều dài cây thước kéo, loại 5 mét chẳng hạn, chỉ là một sự lập đi lập lại hơn 11 cây thước Lỗ Ban. 
   Thước Lỗ Ban có thước trên và thước dưới, dùng để đo Mộc và đo Thổ. Mặt Thổ dùng để đo đất, trong khi mặt Mộc dùng để đo cửa, bếp, bàn, tủ … Chú ý là khi đo cửa thì phải đo khoảng trống của cửa (lọt lòng), chứ không phải đo phủ bì. 
   Một cây thước Lỗ Ban có 8 cung (hàng chữ lớn, nằm trong ô vuông), là biến thể của đồ hình Bát Quái, thay vì sắp theo hình tròn người ta trải phẳng theo hàng ngang. Trong 8 cung đó có 4 cung tốt (màu đỏ) và 4 cung xấu (màu đen), đi từ trái sang phải sắp xếp theo thứ tự sau:

Tài - Bệnh - Li - Nghĩa - Quan - Kiếp - Hại - Bản

Trong mỗi cung đó lại chia thành 4 cung nhỏ.

   Thước Lỗ Ban được sử dụng đo đạc trong xây dựng dương trạch (nhà cửa) và âm cơ (mộ phần). Ở đây chỉ bàn về xây dựng nhà cửa. 
   Trong nhà, cái quan trọng nhất là cửa nẻo, chỗ chúng ta thường xuyên ra vào. Khi đo cửa, cần nhớ chỉ đo khoảng thông thủy (lọt lòng), tính từ mép trong của cửa. Điều này rất quan trọng, vì nhiều khi các bạn chừa lỗ cửa đúng kích thước Lỗ Ban nhưng khi lắp cửa vào do có thêm các gờ cửa mà làm sai chệch cung tốt - xấu.
   Cách thức đo là bạn kéo thước từ mép cửa này sang mép cửa kia, nếu rơi vào cung đỏ là ta được kích thước tốt, rơi vào cung đen là kích thước xấu, đo cả chiều rộng lẫn chiều cao cửa. Nhưng có một điều cần lưu ý, do thước Lỗ Ban chúng ta sử dụng có thêm phần thước kết hợp, tức là phần thước hàng chữ nhỏ, nên có khi cửa đã lọt vào cung tốt ở hàng trên, hàng dưới lại là cung xấu và ngược lại. Đó chính là quy luật bù trừ trong vũ trụ, được mặt này lại mất mặt kia. Như vậy để được một kích thước tốt, cần phải trên đỏ, dưới đỏ. 
 
   Ví dụ, cửa phòng bạn có kích thước 85cm, nghĩa là lọt vào cung Hưng Vượng, màu đỏ - tốt nhưng đối chiếu hàng dưới lại lọt vào cung Tai Chí, màu đen - xấu. Để khắc phục các bạn có thể nới rộng của ra từ 86 đến 89cm chẳng hạn. Cách sửa chữa khi cửa lọt vào cung xấu là các bạn có thể bào bớt cửa, đóng thêm nẹp, hoặc cùng lắm là làm lại khuôn cửa và cánh cửa mới cho đúng kích thước. Để tìm hiểu kích thước chi tiết về cửa, hãy xem lại bàiChọn kích thước đúng cho từng loại cửa đã được đăng trước đây. Ngoài cửa nẻo và bàn làm việc cũng nên theo kích thước Lỗ Ban, cách thức đo tương tự. 
Sự ứng nghiệm của các cung 
  • Cung Tài: nghĩa là tiền của, ứng nghiệm tốt nhất với cổng lớn, nơi đón nhận của cải từ ngoài vào.
  • Cung Bệnh: là đau bệnh, ứng đặc biệt với nhà vệ sinh. Nơi này thường là góc hung (xấu) của nhà, cửa lọt vào chữ Bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh sinh ra và phát triển.
  • Cung Ly: là chia lìa, rất kỵ cho cửa trong nhà. Cửa lọt vào chữ Ly, chồng thì làm ăn xa nhà, vợ gặp điều quyến rũ, con cái hoang đàng phá phách. 
  • Cung Nghĩa: rất tốt cho cổng lớn và cửa nhà bếp, cửa các phòng thông nhau thì không nên (đã nói ở bài 1).
  • Cung Quan: rất kỵ ở cổng lớn vì tránh chuyện kiện tụng ra chính quyền, nhưng lại tốt ở cửa phòng riêng vợ chồng vì sẽ sinh con quý tử. 
  • Cung Kiếp: là bị cướp, tượng trưng cho tai hoạ khách quan đến từ bên ngoài khiến hao tiền tốn của. Tránh ở cổng lớn, nhất là các cửa hàng, tiệm buôn càng nên lưu ý. 
  • Cung Hại: tượng trưng cho mầm xấu nhen nhúm từ bên trong, kỵ ở các cửa phòng trong nhà.
  • Cung Bản: thích hợp cho cổng lớn. 

21/09/2014

LUẬN VỀ NGHỀ VÀ NGHIỆP

Ngôn ngữ tiếng Việt rất hay. Có những danh từ ghép mà tổ tiên của người Việt đúc kết mà thành không chỉ vì đơn thuần về ngữ nghĩa, mà còn là những kinh nghiệm sống, kể cả tâm linh. Trong số đó, có danh từ Nghề-nghiệp. 
Ở danh từ ghép này có 2 danh từ được ghép lại. Nghề là công việc chuyên môn của mỗi người làm việc hằng ngày để nuôi sống bản thân và gia đình. 
Còn Nghiệp là cái nghề mà nó đeo mang theo mình suốt đời, nhưng trong nghĩa tâm linh, nghiệp còn có nghĩa là hánh động có tác ý phát sinh từ tâm của mỗi người mà ra. Cho nên theo lý thuyết Phật giáo thì Nghiệp liên quan đến phạm trù nhân quả, gọi là nghiệp quả.
Tác ý tốt thì gieo nghiệp tốt từ một xuất phát điểm của cái tâm hướng chân thiện mỹ. Tác ý xấu là phát ra từ một cái tâm xấu đi ngược lại với chân thiện mỹ. 
Kết quả của chữ nghề nghiệp là làm việc chuyên môn của cá nhân suốt đời để nuôi sống bản thân và gia đình, đôi khi cả cộng đồng và dòng tộc. Nó tùy theo tác ý từ tâm của người đó hướng thiện hay hướng ác.
Song, nghề là cái mà chính bản thân người đó chọn được, quyết định được về chuyên môn. Trong khi đó, nghiệp là cái mà cá nhân người có nghề không thể chọn được, mà nó phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội, và tác ý tâm của cá nhân làm chuyển hướng đến nghè mà thành ra nghiệp. Ví dụ, tôi học y khoa, nhưng sau thời gian tôi thấy y khoa không hợp, tôi bỏ ngành y đi kinh doanh. Y khoa là cái nghề tôi đã chọn, nhưng hoàn cảnh xã hội, gia đình và tâm ý của tôi chuyển từ ngành y, tôi đi làm kinh doanh. Và cái nghiệp của tôi là nghiệp kinh doanh, trong khi cái nghề của tôi vẫn là nghề y khoa. Lúc đó, tôi kiêm cả luôn cái nghề kinh doanh, mà tôi phải học hỏi thêm để làm việc kinh doanh.
Trên thế giới không thiếu những cá nhân học một nghề, nhưng lại làm việc, một nghề khác với cái mình học. Cái nghề trái khuấy ấy gọi là nghiệp, và cũng là nghề mới của cá nhân đó. Nhưng cũng có nhiều người học nghề và làm chính cái nghề ấy suốt đời mình, và nó cũng chính là nghiệp của mình. Trong Phật học gọi nghiệp thì luôn gọi là nghiệp quả. Vì nghiệp là do tác ý từ tâm của con người mà ra. Tâm động thì duyên khởi, duyên khởi thì nghiệp sinh, nghiệp sinh thì gieo nhân và gặt quả. Tất cả  là một chuỗi logic của các khái niệm về khoa học xã hội, mà mỗi cá nhân phải tự kiến giải trước khi tư duy và hành động.
Không có gì phải tiếc nuối hay trăn trở khi ta học một nghề, mà phải đi làm một nghề khác. Vì nghề và nghiệp là 1 nhưng là 2, là 2 nhưng là 1.
Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà các nhà giàu họ chọn con đường làm từ thiện cho việc giải nghiệp mà mình đã gieo khi còn hung hăng đi tìm sự giàu có, mà họ phải tác ý phi chân, thiện và mỹ. Nhưng cũng có lắm nhà giàu chọn con đường làm từ thiện để cho việc mình làm giàu hơn. Vì không có con đường quảng cáo nào đắc nhân tâm hơn bằng con đường làm từ thiện.
Mấy năm gần đây ở Việt Nam, có những nhà giàu lên truyền hình làm từ thiện qua những cuộc đấu giá mua vật phẩm cao ngất ngưỡng, nhưng rồi trốn biệt, không mua. Đó là họ đã tự tác ý gieo nghiệp quả xấu. Kết cục sẽ khó lường.
Trong nghề nghiệp cũng thế, chân thiện mỹ luôn yếu hơn phi chân thiện mỹ, nhưng chân thiện mỹ luôn trường tồn. Ai làm nghề mà với tâm không tốt, ban đầu có thể thành công, nhưng không bền lâu được. Đó là ý nghĩa tận cùng của chữ nghề nghiệp.


Bản quyền của net.

Tai biến mạch máu não Xin nhớ ba chữ: C.N.G


Tai biến mạch máu não hay còn gọi đột quỵ đang trở thành vấn đề quan trọng của y học. Đặc biệt, bệnh gia tăng khi thời tiết lạnh giá.
Tai biến mạch máu não hay còn gọi đột quỵ đang trở thành vấn đề quan trọng của y học bởi vì tuổi thọ trung bình ngày càng tăng mà nguy cơ đột quỵ lại phụ thuộc vào tuổi tác. Đặc biệt, bệnh gia tăng khi thời tiết lạnh giá. Mỗi năm, ở nước ta, Tai biến mạch máu não ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người và để lại những di chứng nghiêm trọng.

Tai biến mạch máu não là gì?

Tai biến mạch máu não xảy ra khi mạch máu cung cấp ôxy và các chất dinh dưỡng cho phần mô não đó bị tắc nghẽn hay bị vỡ ra. Khi điều này xảy ra thì các tế bào thần kinh trong phần não trên sẽ bị tê liệt, không làm việc được nữa. Do đó, phần cơ thể do chúng điều khiển cũng không còn chức năng như cũ. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tai biến nhưng hay gặp nhất là một động mạch máu bị tắc bởi cục máu đông được gọi là huyết khối, nó được hình thành trong lòng động mạch. Hoặc các động mạch bị xơ vữa do trong mạch máu bị ứ đọng mỡ và dày lên. Điều này dần dần làm hẹp lòng mạch máu, gây chậm dòng chảy, đến một lúc nào đó tạo thành cục máu đông. Cục máu đông trôi đi lang thang bị cuốn theo dòng chảy và bị nghẹt lại ở một mạch nào đó của não gọi là thuyên tắc não. Nếu một động mạch trong não bị vỡ ra gây chảy máu gọi xuất huyết não. Xuất huyết não có thể xảy trên bệnh nhân có xơ vữa động mạch và tăng huyết áp hoặc xảy ra sau chấn thương ở đầu hay một túi phình động mạch bẩm sinh bị vỡ.

Nhận biết sớm dấu hiệu bệnh Tai biến mạch máu não

Tứ chi tê liệt: bệnh nhân cảm thấy một bên mặt hoặc tứ chi tê liệt, đau nhức, cơ thể rã rời, miệng chảy nước bọt, hoa mắt chóng mặt... vài giờ hoặc vài ngày trước đó. Những biểu hiện này rõ nhất là sau khi ngủ dậy. Đây là một dạng phản ứng do hệ thống động mạch cảnh không cung cấp đủ máu, não thiếu máu, thiếu ôxy.
Đột nhiên mặt mũi tối sầm, không nhìn thấy mọi vật: hiện tượng này thường diễn ra trong vài giây hoặc vài phút và sau đó lại hồi phục thị lực bình thường. Điều này chứng tỏ võng mạc mắt bị thiếu máu tạm thời, khả năng lưu thông của mạch máu não bị thu hẹp nghiêm trọng.
Người bệnh có hiện tượng ú ớ: Không nói được hoặc khó nói hoặc không hiểu được người khác nói, có lúc tư duy lộn xộn, hỏi không đáp, gọi không thưa... Đây cũng là do việc cung cấp máu cho não bị thiếu, ảnh hưởng đến trung khu ngôn ngữ của vỏ não.
Người bệnh có hiện tượng hoa mắt chóng mặt, buồn nôn, có lúc còn cảm thấy quay cuồng rồi đột ngột bị ngã bất tỉnh. Nguyên nhân là do động mạch không cung cấp máu cho não đủ gây ảnh hưởng đến tiểu não và các tổ chức thần kinh liên quan.
Đau đầu chóng mặt: Nếu người bệnh có tiền sử tăng huyết áp thì khi xuất huyết não, sự giao động của huyết áp sẽ tăng cao, gây ra đau đầu, chóng mặt, thậm chí kèm theo buồn nôn, nôn, trong người cảm thấy khó chịu... Rất có thể đã xảy ra hiện tượng xuất huyết não.
Ngáp nhiều: Ở người cao tuổi, do xơ cứng động mạch não, các mạch máu bị thu hẹp làm cho việc lưu thông máu chậm lại, gây thiếu máu, thiếu ôxy cho tổ chức não.Chức năng của não bị ảnh hưởng gây hiện tượng ngáp. Nếu trong một vài ngày, người cao tuổi có hiện tượng ngáp nhiều liên tục chứng tỏ não bị thiếu máu và có thể xảy ra tai biến cần cảnh giác.
Động mạch nuôi não bị xơ vữa hoặc tắc là nguyên nhân gây tai biến  mạch não.

Phòng ngừa như thế nào?

Tai biến mạch máu não xảy đến rất đột ngột, bệnh nhân không cảm thấy đau đớn gì. Vì vậy, bệnh nhân đôi khi không gọi được người trợ giúp, chính vì thế sẽ dễ mất đi quãng thời gian quí giá là thời gian chúng ta có thể cứu được bộ não (còn gọi giờ vàng) trong 3 giờ đầu bị bệnh. Khi bị tai biến mà phát hiện muộn, cho dù điều trị tích cực cũng dễ để lại di chứng nặng nề. Do đó, phát hiện và điều trị tích cực các nguyên nhân gây tai biến là quan trọng như: điều trị tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, tránh căng thẳng thần kinh, làm việc nghỉ ngơi hợp lý, tập luyện đều đặn vừa với sức mình, không uống nhiều bia rượu... Khi có các triệu chứng đau đầu, chóng mặt, khó ở, mệt không rõ nguyên nhân..., cần đến ngay cơ sở y tế để được khám, phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Số người tai biến mạch máu não thường gặp ở nước ta ở là độ tuổi ngoài 50, tỷ lệ nam mắc cao hơn nữ khoảng 3 lần. Có tới 80% bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp( trong khi đó hơn 2/3 bệnh nhân tăng huyết áp không tự biết mình mắc bệnh, và khi đã phát hiện tăng huyết áp rồi thì cũng có tới gần ½ không được điều trị, trong số được điều trị thì số được chữa đúng cách chỉ non ¼), tiếp đó là những người bệnh tim, tiểu đường…Thời gian xẩy ra tai biến thường từ 1 giờ sáng đến 12 giờ trưa, bệnh có nguy cơ tăng cao về mùa đông khi thời tiết thay đổi đột ngột. Ngoài triệu chứng thường gặp như đã nói ở trên, người bệnh có thể có những triệu chứng như: đau đầu vùng chẩm- gáy, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cảm giác, mất ý thức, rối loạn tâm thần…
BS. Vũ Hồng Ngọc (Sức khỏe đời sống)

Tai biến mạch máu não Xin nhớ ba chữ: C.N.G.
Bạn chỉ tốn vài phút để đọc mấy điều đơn giản dưới đây, mà có thể cứu được mạng người. Một chuyên viên điều trị nói rằng: nếu ông ta có thể đến với nạn nhân Tai biến mạch máu não trong vòng 3 tiếng đồng hồ, ông ta có thể hoàn toàn đảo ngược ảnh hưởng cuả tai biến…

NHẬN DIỆN - TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
Trong bữa tiệc BBQ, một người bạn bị mất thăng bằng suýt ngã, bà ta trấn an mọi người là bà không sao cả, chỉ bị trượt trên gạch và đôi giày mới… Vài người đã giúp phủi bụi cho bà (thay vi kêu xe cứu thương) và làm cho bà một đĩa thức ăn mới. Bà Ingrid tiếp tục cuộc vui cùng bạn bè cho đến hết buổi chiều.
Mọi người mới về đến nhà, thì nhận được điên thoại cuả chồng bà Ingrid, báo tin là vợ ông đã đuợc đưa vào bệnh viện lúc 6 giờ chiều, và đã qua đờí vì Tai biến mạch máu não trong bữa tiệc BBQ. Nếu có người biết cách nhận ra triệu chứng Tai biến mạch máu não, có lẽ bà Ingrid có thể vẫn còn sống với chúng ta hôm nay.

XÁC ĐỊNH - TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
Hệ thần kinh não bộ cuả nạn nhân Tai biến mạch máu não, có thể bị tàn phá nhanh chóng và kinh khủng, khi những người chung quanh không phát hiện ra được các triệu chứng cuả Tai biến mạch máu não. Thực ra, một người bàng quang có thể nhận diện được Tai biến mạch máu não, bằng cách hỏi nạn nhân ba câu đơn giản:

C.           Yêu cầu người đó Cười
N.           Yêu cầu người đó Nói
G.           Yêu cầu người đó Giơ tay lên

Nếu người đó bị trở ngại bất cứ điều nào kể trên, bạn hãy gọi xe Cấp cứu ngay tức khắc.
Ghi chú: Còn một dấu hiệu khác về Tai biến mạch máu não là Lưỡi của nạn nhân bị Cong, hoặc bị Ngả về một bên. Đó cũng là triệu chứng cuả Tai biến mạch máu não. Nếu mỗi người nhận được Email này, và gởi đi cho 10 người, thì ít nhất có một mạng người được cứu sống.

Chỉ với một cây kim, ta có thể cứu được mạng người.
Kính thưa quí vị, có thể quí vị đã có đọc những dòng chữ này rồi, nhưng chúng tôi muốn trích dịch ra tiếng Việt Nam và phổ biến rộng rãi, trong hy vọng có thể cứu được mạng người trong cơn nguy cấp, khi chờ đợi được các chuyên viên Y-tế săn sóc.
Chỉ cần một ống tiêm thuốc (loại dùng xong rồi phế thải, bằng nhựa), hoặc một cây kim may, là chúng ta có thể cứu mạng một bệnh nhân đang bị chứng tai biến mạch máu não (stroke). Việc cứu chữa thật đơn giản và dễ dàng một cách lạ lùng, nhưng có thể mang đến những kết quả cũng không kém lạ lùng và hữu hiệu. Chúng ta chỉ cần một phút để đọc tài liệu này, và các điều ghi trong tài liệu quả là những hướng dẫn tuyệt vời.
Xin quí vị ghi nhớ hoặc lưu giữ tài liệu này để sẵn sàng áp dụng, vì biết đâu, một ngày nào đó, quí vị sẽ dùng đến để cứu sống mạng người.
Cô Irene Liu kể chuyện: “Cha tôi bị tê liệt và chết sau đó vì ông là nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não. Ước chi tôi biết được thủ thuật này từ trước. Khi tai biến mạch máu não xảy ra, tất cả những tia huyết quản nhỏ trong não bộ sẽ từ từ vỡ ra sau đó.”
Khi có bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chúng ta phải giữ bình tĩnh, đứng cuống quít. Điều quan trọng nhất là ĐỪNG BAO GIỜ DI CHUYỂN NẠN NHÂN, bất kỳ là họ đang bị nạn ở đâu. Vì nếu nạn nhân bị di chuyển, các tia huyết quản trong não bộ sẽ vỡ ra. Từ từ giúp bệnh nhân ngồi thẳng dậy, và chúng ta có thể bắt đầu công việc “rút máu”.
Nếu quí vị có sẵn một ống tiêm thuốc, thì tốt nhất, nếu không thì một cây kim may, hay một cây kim gúc, cũng có thể giúp chúng ta được.

1- Trước hết, chúng ta hảy hơ nóng kim bằng lửa (bật lửa, đèn nến) để sát trùng, rồi dùng kim để chích trên mười đầu ngón tay.
2- Chúng ta không cần tìm một huyệt đặc biệt nào cả, chỉ cần chích vào đầu ngón tay, cách móng tay độ một ly (milimetre).
3- Chích kim vào cho đến khi có máu rỉ ra.
4- Nếu máu không chảy, nên nặn đầu ngón tay cho đến khi thấy máu nhỏ giọt.
5- Khi máu đã chảy từ cả mười đầu ngón tay, thì chờ vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh dậy.
6- Nếu mồm bệnh nhân bị méo, thì chúng ta phải nắm hai (lổ) tai của bệnh nhân kéo mạnh, cho đến khi hai tai đều ửng màu đỏ.
7- Châm vào dái tai (ear lobe) hai mũi mỗi bên cho đến khi máu nhỏ giọt từ mỗi dái tai. Sau vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh lại. Chúng ta hãy kiên tâm chờ cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi tỉnh và không có một triệu chứng nào khác thường mới mang bệnh nhân đến bệnh viện.
Vì nếu nạn nhân được chuyên chở vào bệnh viện sớm hơn. Có thể những dằn sóc của xe cứu thương sẽ làm cho các mao quản (capillaries) trong não bộ bị vỡ ra. Nếu sau khi đó mà họ còn có thể đi đứng được, thì đúng là do phúc đức của Tổ Tiên họ.
Cô Liu nói tiếp: “Tôi học cách cứu chữa qua cách làm xuất huyết này từ một Đông y tên Hà Bảo Định (Ha Bu-Ting). Ngoài ra, tôi còn có cơ hội áp dụng phương pháp này nữa. Vì thế nên tôi khẳng định là phương pháp hữu hiệu 100%. Năm 1979, tôi đang dạy tại Đai học Fung-Gaap tại Đài Trung. Một buổi trưa nọ, tôi đang giảng bài trong lớp, thì một giáo sư khác chạy sổ vào lớp học của tôi, vừa thở vừa nói ‘Cô Liu, đến gấp dùm, ông Giám sự của chúng ta đang bị tai biến mạch máu não’.
Tôi chạy lên lầu 3 ngay tức thì và thấy ông Giám sự của chúng tôi là Trần Phúc Tiên, mặt mày nhợt nhạt, tiếng nói ngọng nghịu, và mồm thì méo xệch qua một bên, ông hội đủ tất cả những triệu chứng của một người đang bị tai biến mạch máu não. Tôi bảo một người sinh viên đang thực tập tại Đại học, đến Dược phòng bên ngoài mua cho tôi một ống tiêm, và dùng kim tiêm để châm đầu mười ngón tay của ông Trần, cho đến khi mỗi đầu ngón tay có một giọt máu cỡ hạt đậu. Sau vài phút, mặt ông Trần đã nhuận sắc trở lại, và mắt ông cũng đã bắt đầu có thần. Nhưng mồm ông thì vẫn méo, nên tôi kéo hai tai ông cho đến khi hai tai đều đỏ vì máu đọng, rồi châm vào mỗi bên dái tai hai mũi để hai giọt máu tươm ra.
Khi hai giọt máu hai bên dái tai được rỉ ra, một phép lạ đã xảy ra. Chỉ nội trong vòng từ 3 đến 5 phút, mồm ông ta đã từ từ trở lại hình dạng nguyên thủy, và tiếng nói của ông cũng trở lại bình thường. Chúng tôi để ông nghỉ ngơi một lúc, rồi rót cho ông một tách nước trà nóng rồi đưa ông đi đến bệnh viện Ngụy Hoa gần đó. Ông nghỉ ngơi tại bệnh viện một đêm, rồi hôm sau lại trở về nhiệm sở làm việc. Sau đó, mọi việc đều bình thường. Ông không có triệu chứng nào nguy hại sau đó. Trái lại, các nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não thường khó trở lại bình thường, vì các tia máu trong não bộ bị vỡ trong khi xe cứu thương di chuyển họ đến bệnh viện. Kết quả là không thể làm cho họ vãn hồi lại trạng thái cũ.”
Theo các thống kê, thì hiện nay, bệnh tai biến mạch máu não là nguyên nhân giết chết người ta hàng thứ nhì. Những người may mắn thì có thể sống còn, nhưng phải mang tật nguyền suốt đời. Đó là một tai họa khủng khiếp có thể xảy đến cho một cá nhân. Nếu chúng ta có thể ghi nhớ phương pháp cho xuất huyết trên đây, để có thể giúp đỡ những nạn nhân của căn bệnh quái ác này, để áp dụng tức thời trên nạn nhân, thì chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân sẽ tỉnh lại và được phục hồi 100%.
Chúng tôi hy vọng là quí vị có thể phổ biến tài liệu này để bệnh tai biến mạch máu não không còn là một căn bệnh giết người như hiện nay nữa.

( Xin phổ biến )


20/09/2014

Vẻ đẹp Việt Bắc - Tây Bắc

   Ảnh của nhiều tác giả: Tuấn Long, Nguyễn Văn Miền, Nguyễn Đăng Hào, Lê Thanh Tùng, Lê Đức Kim, , Đào Cảnh Tuân, Nguyễn Trung Quân, Nguyễn Anh Tuấn, Lê Nguyễn Luân Vũ, Nguyễn Đình Thành và Nguyễn Quang Tuấn.














15/09/2014

Kinh nghiệm đi Bắc Hà

Nên đi Bắc Hà vào thời gian nào

Hoa mận Bắc Hà
   Nếu chưa một lần đến Bắc Hà chắc nhiều bạn sẽ băn khoăn không biết nên đến với “Cao nguyên trắng” này vào thời điểm nào đúng không ? Xin chia sẻ với các bạn một số mốc thời gian đặc biệt để các bạn có thể tự sắp xếp cho mình một chuyến du lịch tới đây nhé
  • -  Vào mùa xuân, trước và sau Tết Âm lịch là mùa của hoa mận nở.
  • -   Lễ hội Đua ngựa Bắc Hà theo thông lệ được tổ chức vào đầu tháng 6 hàng năm sau khi mận đã chín.
-   Lễ hội rước Đất rước Nước vào ngày 15 tháng giêng hàng năm.
-   Chợ phiên Bắc Hà diễn ra vào chủ nhật hàng tuần.
-   Lễ hội đền Bắc Hà vào ngày 7/7 âm lịch hàng năm

Phương tiện đi và đến Bắc Hà

   Bắc Hà cách Lào Cai khoảng 70km ngược về hướng Yên Bái và cách Hà Nội khoảng 300km. Từ Hà Nội các bạn có thể bắt xe giường nằm đi Bắc Hà trực tiếp từ bến xe Mỹ Đình. Hiện tại có hãng Hải Vân đang khai thác vận tải hành khách trên tuyến đường này. Nếu bạn chỉ đến du lịch duy nhất địa điểm này, hãy lựa chọn phương án thuê xe máy tại Bắc Hà để thuận tiện và giảm chi phí, ngoài ra nếu muốn kết hợp đi du lịch một vài địa điểm khác như Y Tý, Lào Cai, Sapa hay gần nhất là Simacai thì các bạn nên mang theo xe máy từ Hà Nội để chủ động trong việc đi lại. Phương án mang theo xe máy có thể lựa chọn gửi thẳng xe ô tô lên Bắc Hà,  gửi theo ô tô lên Lào Cai (có nhiều lựa chọn nhà xe hơn) hoặc gửi xe theo tàu hỏa lên Lào Cai (chi phí thấp hơn so với gửi bằng ô tô)

Khách sạn nhà nghỉ tại Bắc Hà

Khách sạn Sao Mai khá lớn nằm ngay trung tâm thị trấn
   Toàn thị trấn Bắc Hà có khoảng 20 cơ sở lưu trú phục vụ cho các khách du lịch nên bạn hoàn toàn có thể yên tâm khi tới đây. Có nhiều sự lựa chọn cho bạn từ những nhà nghỉ bình dân cho đến những khách sạn cao cấp hơn chút (tất nhiên là không thể so sánh với các khu vực du lịch khác).

Các địa điểm du lịch ở Bắc Hà

Chợ phiên Bắc Hà

   Nét độc đáo riêng có của phiên chợ vùng cao Bắc Hà là đến đây bạn sẽ được thưởng thức thắng cố món ăn đặc trưng của vùng núi cao Tây Bắc. Thắng cố không lúc nào vơi trong chảo, cũng như rượu không lúc nào cạn trong bình. Rượu đặc sản của người Mông Bản Phố, được nhiều người biết đến với hương vị thơm ngon và rất đặc trưng. Mua bán xong ngựa, lợn, trâu, bò, đàn ông người dân tộc ở Bắc Hà cùng bạn hàng quây quần quanh những bàn thắng cố nghi ngút. Cạnh những bát rượu ngô thơm gắt, trong suốt là những cốc bia vàng sủi bọt. Mời các bạn xem tiếp một số hình ảnh về chợ phiên Bắc Hà.

Dinh thự Hoàng A Tưởng

Dinh vua Mèo trước khi trùng tu
   Khởi công năm 1914, song đến năm 1921, dinh Vua Mèo mới được hoàn thành. Chủ nhân của dinh là cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng. Hoàng A Tưởng cũng là một thổ ti ở Bắc Hà cho đến ngày Lào Cai được giải phóng. Vì thế, ngoài cái tên dinh vua Mèo, người ta còn gọi đây là dinh Hoàng A Tưởng.
   Tương truyền, dinh thự vua Mèo Hoàng A Tưởng đươc thầy Tàu về xem thế đất theo phong thủy. Dinh tọa lạc trên một quả đồi rộng ở châu Bắc Hà, nay là trung tâm thị trấn huyện Bắc Hà, phía sau và hai bên đều có núi, phía trước có một dòng suối uốn lượn và có núi thế mẹ bồng con.
   Thế đất “tựa sơn đạp thủy” vững chãi, với mong muốn dòng họ được quyền quý, con cháu đời sau vinh hiển. Khu dịnh thự vua Mèo đã đạt đến trình độ thiết kế tinh xảo và nổi lên với quy mô đồ sộ tại vùng núi cao xa xôi, hùng vĩ như Bắc Hà.
   Khu dinh thự vua Mèo là một kết cấu kiến trúc khá đặc biệt so với kiến trúc các dinh thự khác tại Việt Nam thời bấy giờ. Dinh vừa là nơi để ở của cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng, song cũng là nơi làm việc và còn có chức năng pháo đài bảo vệ. Toàn bộ dinh có kiến trúc hình chữ nhật liên hoàn khép kín, với tổng diện tích 4.000m2, có tường rào bảo vệ, bốn phía tường đều có lỗ châu mai như pháo đài và có lính canh giữ.
   Dinh được hai kiến trúc sư người Pháp và người Trung Quốc thiết kế. Vì vậy, kiến trúc của dinh có sự hòa quyện giữa kiến trúc Pháp hồi thế kỉ 17-18 và kiến trúc phương Đông. Trong đó nổi lên là các nét kiến trúc phương Tây được thể hiện trong những chi tiết như họa tiết cành nguyệt quế đắp nổi trên các cửa vào, biểu tượng cho hạnh phúc và thịnh vượng; cửa lan can trổ ra hình vòm, cột nhà thanh thoát, lan can, cầu thang vòng, hành lang lát gạch. Kết cấu bên trong của dinh khá đẹp. Qua cửa chính, bên trong là một khu sân rộng, xưa là nơi diễn ra các hoạt động chính của nhà thổ ti. Khu nhà chính phía cuối sân, có hai tầng với diện tích 420m2, thường là nơi hội họp của gia đình.
và Dinh vua Mèo hiện nay
   Ngoài ra, khu dinh còn có các hạng mục khác như hai dãy nhà phụ ở hai bên, mỗi dãy nhà có hai tầng thấp hơn dãy nhà chính, gồm ba gian với diện tích 300m2. Đây là nơi sinh hoạt của các bà vợ Hoàng Yến Chao và Hoàng A Tưởng. Ngoài ra còn có thêm hai dãy nhà phụ hai tầng có kiến trúc đơn giản hơn dùng làm nơi ở cho quân lính, phu phen và người hầu. Dinh thự nhà họ Hoàng được xây dựng bằng đá vôi, cát, mật mía ở địa phương và ximăng, sắt thép chở từ Hà Nội và Lào Cai lên.
   Dinh vua Mèo, một công trình pha trộn giữa kiến trúc của nhà cổ của người Pháp với kiến trúc phương Đông, song nổi trội hơn cả là kiến trúc phương Tây đã tạo cho dinh có vẻ đẹp riêng và nay trở thành địa chỉ du lịch không thể thiếu đối với du khách mỗi khi ghé thăm vùng cao nguyên Bắc Hà

Bản Phố

Là nơi sản sinh ra loại rượu Ngô mang lại danh tiếng cho Bắc Hà, bản Phố là một bản của người Mông nằm cách Bắc Hà khoảng 4km.
Ở bản Phố có hơn 500 hộ, nhà nào cũng có thể nấu được rượu, nhà nào nấu cũng ngon, chẳng có bí quyết gì đặc biệt. Ngô vàng, ngô trắng đều được, cứ luộc lên để nguội rồi rắc men, ủ 3 ngày rồi bỏ vào chõ gỗ, đưa lên chảo cất cách thủy. Rượu ngô bản Phố thường khoảng 42-45 độ, châm lửa đốt cháy được, uống lúc đầu thấy hăng nhưng lát sau thì ngọt giọng, mềm môi.
Chắc có lẽ bí quyết duy nhất của người dân bản Phố là nguồn nước lấy từ suối Háng Dế cùng với đặc trưng khí hậu riêng của mỗi vùng đất này. Rượu ngô ngon nhắm với thịt trâu gác bếp trong các dịp lễ của người Mông cũng là cơ hội để người dân bản Phố dâng thứ rượu của mình lên trời đất.

Thắng cảnh Hang Tiên

   Ngược dòng sông Chảy khoảng 6 km, từ trung tâm xã Bảo Nhai (huyện Bắc Hà) thuyền sẽ đưa bạn qua thành cổ Trung Đô với nhiều huyền thoại. Dòng sông Chảy đến đây thắt lại tạo thành dòng sâu, hiền hoà, len lỏi giữa hai bờ vách thành dựng đứng. Hai bên là cánh rừng nguyên sinh, phủ lên cảnh quan một miền khí hậu trong lành mát mẻ. Những dòng suối nhỏ từ trên cao đổ xuống như dải lụa, mở ảo, lất phất như mưa bay. Dòng nước như người thợ điêu khắc, lành nghề đục vào vách đá tạo nên những đài sen nổi, những nhũ đá muôn hình vạn dạng. Kia là chú voi đang cúi đầu uống nước, đây là con đại bàng cất cánh bay lên… và hội tụ lại thành bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Nơi đây chính là suối Tiên.
   Qua suối Tiên 200 m là gặp hang lớn có sức chứa cả trăm người, cảm giác như một mê cung kỳ vỹ do thiên nhiên ban tặng, đã xếp thành tầng, thành lớp, tạo những rào luỹ tự nhiên. Ngược lên khoảng 500m là dòng nước nhỏ tí tách tạo thành nhũ đã như những tháp cổ to nhỏ với ánh sáng hiếm hoi hắt vào lấp lánh như ánh lân tinh. Nhiều khi phải đeo mình vào bờ đá, bám vào các rễ cây mới tới đường lên trời, du khách thấy mình thực sự được trải qua cuộc thăm viếng động Tiên. Sau thời gian du ngoạn, ta được tắm mình trong ánh nắng nơi đảo hoa, một hòn đảo nhỏ đầy hoa thơm cỏ lạ, sóng nước vỗ về dập dình bên bờ đá.
Hang Tiên gắn liền với huyền thoại ba nàng tiên; truyền khẩu rằng xưa kia có ba nàng tiên được vua cha cho đi thăm thú cõi trần gian, thây nơi đây sơn thuỷ hữu tình, các nàng không muốn trở về. Đã hết hạn, không thấy con về, ngọc hoàng nổi giận sai thiên lôi xuống trị tội. Ba nàng chốn trong hang cao hơn mặt nước khoảng 200m ngự trên vách thành do không chấp hành chiếu chỉ, thiên lôi nổi giận giẫm sạt một góc núi nơi ba nàng tiên trú ngụ. Biết không thoát khỏi trừng phạt, ba nàng đã gieo mình tự vẫn. Xác ngược dòng nước dìu xuống hạ lưu nơi trung tâm xã Bảo Nai hiện nay được dân làng vớt lên làm miếu thờ mang tên miếu Ba Cô. Tục truyền rất thiêng.
Truyện kể từ xa xưa có một nàng người Nùng tới hang Tiên, thấy nơi đây có ba chén tiên không biết ai đó đặt thờ. Nhiều du khách viếng thăm, vãn cảnh tắm suối Tiên đắm mình trong ánh ban mai bên đảo hoa và đều cầu mong các nàng ban phúc cho sắc đẹp, sức dai và phú quý. Nơi đây thực sự là một vịnh Hạ Long thu nhỏ, thắng cảnh hang tiên đang chờ đón du khách.

Đền Bắc Hà

Đền Bắc Hà thu hút được rất đông khách du lịch đến hàng năm
   Đền Bắc Hà được xây dựng từ cuối thế kỷ 19 thờ phụng hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật – người gốc Gia Lộc – Hải Dương. Xưa kia hai ông lên động Ngọc Uyển (vùng Bắc Hà ngày nay) xây dựng căn cứ quân sự và ổn định đời sống dân cư cả một vùng biên giới rộng lớn. Sách sử có ghi: “Đời vua Tự Đức năm thứ 7(1855) sắc phong các chúa Bầu (anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật) làm quốc công hùng cứ Bắc Hà, làm cho vùng đất này trở thành trù phú, dân cư đông đúc”. Sử nhà Nguyễn chép “Uy thế nhà Lê nổi là nhờ sức của anh em họ Vũ đã có công đánh giặc, bờ cõi được yên, nhân dân an lạc”.

   Nhà Nguyễn cũng sắc phong anh linh các chúa Bầu làm tổng binh trấn thủ Tuyên Quang. Năm Gia Long thứ nhất xét công bách thần cả nước, quốc công Vũ Văn Mật được liệt vào hàng công thần đời Lê Trung Hưng. Để tưởng nhớ người anh hùng đã có công với vùng đất này, nhân dân nơi đây đã cùng nhau xây dựng lên ngôi đền này để hàng năm tưởng nhớ về người anh hùng đã có công với nước, một thời bình ổn vùng biên giới phía Tây Bắc của Tổ Quốc ta. Đền Bắc Hà có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc và có tầm ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
   Lễ hội chính đền Bắc Hà được tổ chức hàng năm vào ngày 7/7 (âm lịch) tại đền ngay thị trấn Bắc Hà, để tưởng nhớ ngày mất Gia quốc công Vũ Văn Uyên, người đã có công dẹp loạn an dân, hùng cứ vùng Tây Bắc thế kỷ 16-17. Từ đó đến nay ngôi đền là nơi để nhân dân trong vùng và du khách thập phương ngưỡng vọng người có công với dân với nước.

Các món ăn ngon tại Bắc Hà

Rượu Bắc Hà

Rượu được thử ngay bằng nắp can
   Rượu ngô Bản Phố hay còn gọi là rượu ngô Bắc Hà là một thứ rượu ngon đặc sản của người Mông ở Bản Phố, cao nguyên Bắc Hà, Lào Cai. Cùng với rượu Táo Mèo và rượu San Lùng, rượu ngô Bản Phố là các danh tửu của Lào Cai. Rượu Bản Phố có màu trong như nước suối, lúc mới uống nghe hương vị thơm nồng, sau đó là cảm giác êm dịu. Rượu ngô nơi đây say lâu nhưng không làm người ta ngu muội mà cảm giác vẫn sảng khoái. Rượu ngô Bản Phố nấu từ nước lấy từ suối Hang Dế. Rượu ngô Bản Phố hương thơm thì nồng nàn, quyến rũ, uống vào không gắt, không chua. Ngô dùng nấu rượu Bản Phố không phải trồng ở nương rẫy hoặc thung lũng, mà ở trên núi đá cao heo hút, đặc biệt là giống ngô vàng trồng ở xã Lùng Phình (Bắc Hà) cho ra nhiều rượu có hương thơm nồng rất ngon. Loại ngô này cho bắp chắc, vàng, năng suất không cao, bù lại hạt mềm, bùi và rất giàu dinh dưỡng. Sau khi thu hoạch, ngô được giữ nguyên bắp, phơi khô và bảo quản để nấu rượu dần. Bí quyết tạo nên sự khác biệt của rượu ngô Bản Phố với các loại rượu khác là lên men bằng bột bông của cây “pa”, còn gọi là cây Hồng Mi. Người H’Mong dùng hạt này đem xay nhỏ như bột rồi trộn với nước rượu đầu và nước sôi, nhào thật nhuyễn, nắm thành quả đặt trên rơm và phơi ở nơi ít nắng, thoáng gió đến khi những quả men khô, chuyển thành màu trắng y như chiếc bánh bao thì mang bỏ vào thúng, rổ để lên gác bếp bảo quản để dùng dần.
Cây Hồng Mi dùng để lên men rượu Bản Phố
   Người Mông nơi đây cho rằng uống rượu Bản Phố vào buổi sáng sẽ có thêm sức mạnh, tựa như có một vị thần dũng mãnh hỗ trợ làm việc đồng áng suốt ngày không cảm thấy mệt mỏi. Nếu uống vào buổi tối, cùng với bằng hữu, rượu như có sợi dây vô hình ràng buộc tình yêu thương khăng khít, trong lòng mọi người trào dâng lời hay, ý đẹp, nói lên được những điều mới mẻ, ý nghĩa thấm sâu và hào hứng mà những lúc khác không có rượu chưa nói được.
 Thịt gừng của người Nùng Dín 
   Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, người Nùng Dín lại mổ lợn đón Xuân. Dù lợn to hay bé, mỗi nhà cũng phải chuẩn bị thịt để chế biến nhiều món ăn trong ngày tết. Ngoài món thịt làm nhân bánh thì người Nùng Dín còn làm món thịt gừng ‘tiếng Nùng Dín gọi là Nứt sinh’. 
   Món ăn này rất bình dị, chế biến đơn giản nhưng có hương vị riêng, từ lâu là thức ăn quen thuộc của dân tộc này. Để làm món thịt gừng, người Nùng Dín tận dụng tất cả các loại xương như xương sống, xương sườn và thủ tươi nguyên không được rửa qua nước đem băm nhỏ, rồi rửa một lượng khá nhiều gừng giã nhỏ vắt bớt nước. Sau đó, trộn tất cả xương băm, gừng, muối với nhau, bóp sao cho thật nhuyễn. Khi bóp người ta còn pha thêm một chút rượu vừa phải để bảo quản và giữ được sự tươi sống của thức ăn. Thịt được cho vào loại chum có men bóng rồi đổ nước (không để cạn nước ở vành chum), giữ nhiệt độ để tránh thức ăn chuyển màu. Sau đó, đậy kín miệng chum bằng tấm ni lông, buộc chặt, khi nào dùng mới lấy ra nấu chín tuỳ theo bữa. 
Người Nùng Dín thường ăn món thịt gừng theo hai cách là hấp hoặc nấu. Nếu hấp thì có thể cho thêm một chút nước, hạt tiêu, rau thơm thì món ăn sẽ toả mùi thơm hấp dẫn hơn nhiều. Nếu nấu thì đổ thêm một lượng nước tương xứng với lượng thức ăn đun chín tới, cho gia vị như mì chính, hạt tiêu hoặc rau cần tây. Kể cả người già hay trẻ nhỏ không ăn được xương thì trộn cơm với nước thịt này cũng xuýt xoa ngon miệng. Ai đã từng thưởng thức món ăn Nứt sinh của người Nùng Dín sẽ không quên được hương vị của nó bởi vị ngọt của thịt xương quyện với cái mặn đậm đà của muối, chất cay nóng của gừng già, phảng phất vị thơm của rượu ngô
Thịt lợn muối
T   hịt lợn từ lâu là một món ăn quen thuộc dân dã đối với người dân Việt Nam và đây cũng là loại thực phẩm có nhiều cách chế biến món ăn nhất. Trong các món ngon được chế biến từ thịt lợn thì thịt lợn muối là một trong những món ngon trong danh mục ẩm thực của đồng bào vùng cao Lào Cai. Cách chế biến món thịt lợn muối hết sức đơn giản với những gia vị có sẵn trong vườn nhà. 
   Gia vị của thịt lợn muối bao gồm các loại lá như lá quế, lá mít, lá trầu không, kèm theo ớt tươi, giềng và rượu cái nếp. Tất cả các loại lá đều được phơi khô và giã nhỏ, thịt lợn được thái vừa miếng rồi đổ rượu cái ướp cùng muối thật mặn và trộn lẫn các loại lá gia vị khô đã được giã nhỏ sau đó cho thịt vào hũ hoặc lọ để từ một đến hai tuần là có thể sử dụng được. 
   Khi sử dụng thịt lợn muối có thể rang hay nướng tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình. Khi ăn, chúng ta có những cảm giác khác nhau. Có vị cay của giềng và ớt, vị thơm của quế, vị hơi chát của lá mít và lá trầu không. Đồng thời, một vị đặc trưng của thịt lợn muối là vị chua hoà lẫn vị mặn của muối, miếng thịt giòn và rắn chắc. Thịt lợn muối làm giảm đi độ béo và ngấy của mỡ. Khi ăn, chúng ta có thể lấy lại cảm giác về vị giác khi đã ăn quá nhiều đồ ăn khác mà không có cảm giác ngon. 
   Thịt lợn muối là món ăn dân dã của người dân vùng cao đặc biệt là người Tày ở Bảo Yên. Mặc dù là món ăn bình dị nhưng cũng được người dân vùng cao tiếp đãi khách quý như một món ăn truyền thống và bộc lộ tình cảm chân thành của đồng bào đối với khách.

Xôi 7 màu của người Nùng Dín

Du khách thường không mua được loại xôi có đủ 7 màu
   Xôi bảy màu là món ăn truyền thống chỉ có trong những ngày lễ, tết của dân tộc Nùng Dín ở Lào Cai. Người phụ nữ Nùng Dín với đôi bàn tay khéo léo đã lưu truyền cách chế biến món xôi bảy màu từ đời này sang đời khác. Bảy màu của xôi (hồng, đỏ tươi, đỏ thắm, xanh cửu long, xanh vàng, xanh lá chuối, vàng) thường được tạo ra từ các loại cây lá (cây cẩm hoa, cây hoa vàng, cây nghệ…). Gạo nấu xôi là loại gạo nếp hạt to, dài. Trước khi nấu, nếp nương được ngâm trong nước khoảng 12 giờ, sau đó cho màu vào ngâm khoảng 3 giờ nữa. Tiếp đó, gạo được đãi lại rồi để riêng mỗi màu một góc trong nồi nấu xôi và nấu trong khoảng 1,5- 2 giờ. Để giữ màu xôi được tươi, khi nấu không được cho muối vào gạo.
   Xôi bảy màu của dân tộc Nùng Dín ngoài giá trị ẩm thực còn có ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Tương truyền, ngày xưa, khi quân giặc xâm phạm bờ cõi nước ta, người Nùng Dín sống ở biên cương đã đứng lên chống lại quân giặc. Trong cuộc chiến diễn ra từ tháng 1 đến tháng 7 âm lịch năm đó, có nhiều người đã ngã xuống để giữ vững mảnh đất biên cương. Ngày nay, cứ đến ngày 1/7 âm lịch, người Nùng Dín làm lễ mừng chiến thắng. Trong lễ hội này, bao giờ cũng có xôi bảy màu. Mỗi màu của xôi thường ứng với một tháng và mỗi tháng lại ứng với tiến trình chống giặc. Chẳng hạn: màu xanh lá chuối là màu của mùa xuân, màu đỏ thẫm biểu tượng cho máu của những người đã anh dũng hy sinh, màu vàng biểu tượng cho sự đau thương ly tán, màu đỏ tươi biểu tượng cho chiến thắng hào hùng của người Núng Dín…

Mận hậu Bắc Hà

   Ở các tỉnh thuộc biên giới phía Bắc nước ta, đâu cũng thấy cây mận, mận Lào Cai, Lạng Sơn có màu hồng đỏ, mận Bắc Hà có vỏ màu xanh, mỗi loại mận đều có hương vị riêng và sắc màu khác nhau, song giống mận ngon nhất, đẹp mã nhất vẫn là giống mận trồng ở đất Bắc Hà. 
   Từ tháng giêng âm lịch, cả thung lũng Bắc Hà với diện tích rộng 30km2 nở trắng hoa mận, đất trời Bắc Hà như trong huyền thoại. Qua Cổng trời, người và ngựa cứ bồng bềnh như trôi trong mây trắng. Khác với mận Lạng Sơn khi chín quả mới đỏ, mận hậu Bắc Hà không biến đổi màu vỏ ngoài, quan sát kỹ mới nhận ra lúc thu hái quả mận hơi ngả sang màu vàng nhạt. Trông cứ tưởng quả xanh nhưng khi bổ đôi, ruột quả mận mới phô sắc vàng. 
   Điều khác biệt giữa mận Bắc Hà với các giống mận khác, có lẽ là độ róc hột. Ngoài ra, vị ngọt của mận hậu làm cho người ăn sau khi nuốt xong miếng cuối khá lâu mà như vẫn còn miếng mận trong miệng. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên nó là mậu hậu.

Nấm chân chim ở chợ Bắc Hà

   Nấm còn gọi là nấm phiến chẻ – là một sản phẩm độc đáo chỉ có ở Bắc Hà (Lào Cai), không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một loại dược liệu quý. Vị ngọt của nấm khiến người ăn khó quên được hương vị của vùng cao này. Hình thái ngoài của nấm cũng dễ nhận biết, không có cuống, mũ dạng quạt – vỏ hến, đường kính từ 1 đến 3 cm, phủ lớp lông mịn mầu trắng xám, mép mũ hơi cuộn vào trong. Thịt nấm mầu trắng, mặt dưới là những phiến nấm, khi non mầu trắng, khi già mầu hồng thịt. 
   Những gùi nấm nặng trĩu được các thiếu nữ Mông mang đến chợ bán thành một dãy riêng. Nấm được để trong gùi hoặc bày trên các tấm vải, trải trên thảm cỏ. Chẳng cần cân đo chính xác, các cô gái cứ đong từng bát đầy, bán với giá bình dân: hai nghìn đồng một bát. So với các loại rau xanh khác ở chợ, nấm chân chim bao giờ cũng được bán hết nhanh nhất. 
   Nấm mua về đem xào hoặc nấu canh với thịt. Thưởng thức hương vị ngọt ngào của nấm, người ăn sẽ có kỷ niệm khó quên về Bắc Hà. Ngoài công dụng làm thực phẩm, nấm chân chim còn có nhiều lợi ích khác, được liệt vào loại dược liệu quý, là đối tượng nghiên cứu thực nghiệm về sinh học, như sinh lý học và di truyền học.

Các lễ hội tại huyện Bắc Hà

Đua ngựa Bắc Hà


   Đua ngựa là môn thể thao dân tộc độc đáo của huyện Bắc Hà từ xưa. Vào xuân, ở các thôn, bản vùng cao thanh niên trai tráng người Mông, Tày, Nùng thành từng đoàn đi hội xuân …họ thường rủ nhau đua ngựa, ai đến đích trước thì bữa tiệc hôm đó được ngồi mâm trên. 
   Trước năm 1945, giải đua ngựa ở Bắc Hà thường được tổ chức vào mùa xuân, đường đua lấy điểm xuất phát từ ngã ba chợ cũ và đích là bãi đất trống trước dinh thự Hoàng A Tưởng. Các kỵ sĩ khi đến đích phải nhảy xuống bắn 5 phát súng vào bia sau đó lên cướp quả cầu đỏ và lại nhảy lên ngựa phi quay lại điểm xuất phát. Đến mùa xuân năm 1980, Huyện đội (Ban chỉ huy quân sự) Bắc Hà tổ chức giải đua ngựa, bắn súng chọn kỵ sĩ, xạ thủ giỏi. Lúc đó, Bắc Hà không có nhiều ngựa nên hầu hết nhà nào có thanh niên, có ngựa đều tham gia.Giải đó có hơn 50 kỵ sỹ người Tày, Nùng, Dao, nhiều nhất là người Mông tham gia đua ngựa, bắn súng. Đại úy Lý Seo Thống – Đội trưởng đội quân lương – Ban chỉ huy quân sự huyện Bắc Hà lúc bấy giờ giành giải nhất. Vào năm 2007 lễ hội đua ngựa truyền thống được khôi phục lại nhằm hưởng ứng chương trình du lịch về cội nguồn của 3 tỉnh: Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ, là điểm nhấn thu hút khách du lịch đến Bắc Hà và Lào Cai.
    Năm 2008 giải đua ngựa truyền thống Bắc Hà được mở rộng với quy mô cấp tỉnh và đưa vào chương trình du lịch về cội nguồn hàng năm của 03 tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ. Hiện nay lễ hội đua ngựa Bắc Hà thường được tổ chức hàng năm vào khoảng tháng 5, 6.

Lễ hội rước Đất, rước Nước của người Tày ở Bắc Hà

   Lễ hội rước Đất, rước Nước của người Tày – Bắc Hà diễn ra vào ngày 15 tháng giêng hàng năm  để cầu xin Mẹ Đất, Mẹ Nước phù hộ cho đất luôn màu mỡ, cầu cho nguồn nước không bao giờ cạn, giúp dân bản có cuộc sống no đủ quanh năm.  
   Từ sáng sớm, dân làng đã cử một đoàn người gồm: thầy cúng, đội trống, chiêng,  khèn và các cô, các chị (là những người chăm chỉ làm ăn, có cuộc sống gia đình yên bình khoẻ mạnh)… đi lên ngọn núi Pản Phố – nơi có nguồn nước trong nhất bản – rước hồn Đất, hồn Nước về dự hội. Đi đầu đoàn rước là thầy cúng. Thầy là người giữ vai trò làm sứ giả để giao tiếp với các vị thần linh. Trong tay thầy cầm cây nêu – biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở – rước đến địa điểm diễn ra lễ hội.Tiếp theo là kiệu rước Nước và các mâm lễ. Nước được đựng trong hai ống bương to, tượng trưng cho ống bố, ống mẹ. Tiếp đến là kiệu rước Đất – hồn mẹ Đất được lấy từ trên đỉnh núi cao thiêng liêng. Sau đó là đến các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn, bên trong các quả còn đựng các loại hạt giống do các cô, các chị kỳ công làm ra, các mâm xôi ngũ sắc, gà luộc, hoa quả… đều là những sản vật tinh tuý của mùa màng – thành quả sản xuất của dân bản trong năm. Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy giao linh với các vị thần. 
   Địa điểm tổ chức lễ hội là cánh đồng rộng của bản. Khi các đoàn rước tới nơi, ba hồi kèn trống nổi lên vang động đất trời, thấu đến chín tầng cao xanh như báo cho Trời – Đất biết: Ngày hôm nay dân làng mở hội. Thầy cúng thực hiện nghi lễ cầu khấn. Tiếp đó, thầy cúng phun nước làm phép để xua các điều xấu, xua quỷ dữ không cho về quấy phá dân bản. Rồi thầy tung lộc (ngô, lúa) của thần linh cho dân bản, những người dự hội ai cũng cố gắng nhận cho được vài hạt thóc, hạt ngô đem về nhà làm khước may mắn để nhà mình vụ sau ngô  sai hạt, lúa sai bông. Sau phần lễ nghi trên, mọi người bước vào phần hội với những màn xoè điệu nghệ của các cô gái, chàng trai. Khi các màn xoè kết thúc là các trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, chọi gà, chọi trâu (bằng bắp bi chuối và măng), ném còn…bắt đầu Dù là ngày hội của người Tày nhưng các dân tộc khác trong vùng cũng đến dự rất đông vui.

Múa xoè Tả Chải – Bắc Hà


  Cũng như nhiều vùng khác, người Tày xã Tả Chải (huyện Bắc Hà) mở hội để cúng Thần Nông (vị thần cai quản ruộng nương), đồng thời cũng là dịp tổ chức vui chơi cho dân bản. Sáng sớm ngày rằm tháng Giêng hàng năm, khi ông mặt trời nhô lên, là lúc mọi người đang háo hức dự hội, thì ở ngoài đồng tiếng trống, tiếng chiêng vang rộn khắp núi rừng giữa tiết xuân ấm áp. 
  Trong ngày hội, phần lễ tương đối đơn giản. Giữa bãi rộng, người ta dựng lên một cây nêu bằng cây bương to, có gắn một vòng tròn dán giấy đỏ (biểu tượng mặt trời). Dưới châncây nêu là những mâm lễ của làng và của các gia đình thành kính dâng lên cúng thần, cầu mong cho mùa màng tốt tươi, thóc lú đầy sàn, trâu ngựa lợn gà đầy chuồng. Sau lễ cầu khấn, ông chủ lễ hội gióng lên hồi chiêng khai mạc. Tiếng trống, tiếng chiêng tức thì bừng bừng thúc giục, mời gọi. Một vòng xòe được hình thành do những bà, những chị kết lại, rồi một người, hai người rời đám đông nhập vào.
   Tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng làm tan biến cái rụt rè ngượng ngung, cuốn mọi người vào vòng xoè tình bạn. Tay trong tay, mắt trong mắt, vòng xoè rộng dần, rồi mở thành hai vòng, ba vòng, hết điệu này sang điệu khác và kéo dài trong suốt nhiều ngày lễ hội. Xoè Tà Chải có nhiều điệu phán ánh phong tục, tập quán sinh hoạt của đồng bào Tày vùng này.Bắt đàu từ xoè tập hợp, làm quen, gặp gỡ có tính cộng đồng, đến giao lưu tình cảm của đồng bào, tiếp theo là xoè đôi, xoè bốn (đồng cảm), chạm vai (tỏ tình) rồi điệu bắt cá gieo ngô, sàng đẩy (lao động sản xuất )và cuối cùng là xoè chào hẹn. 
   Cùng với những hoa thơm quả ngọt ở Bắc Hà, xoè Tả Chải đã có mặt ở nhiều sàn diễn trên đất nước, được hưởng ứng nhiệt tình của người hâm mộ và đã giành được nhiều huy chương. Nhịp xoè hồn nhiên, duyên dánh như những con người và thiên nhiên xứ xở này đang rủ mời bạn bè gần xa đến để nối rộng vòng tay.

Lễ hội Say sán Bắc Hà (Lễ hội Gầu tào)


   Mỗi khi tết đến, khắp núi rừng hoa mận, hoa đào khoe sắc cũng là lúc đồng bào vùng cao Bắc Hà tổ các lễ hội đầu xuân để cầu mong may mắn và cho những vụ mùa bộ thu. Say sán là một lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân gian của người dân vùng cao. Thường lễ hội Say sán được tổ chức từ ngày mồng 2 đến mồng 6 tết theo khu vực cụm xã nơi có nhiều đồng bào người Mông, Tày, Nùng … sinh sống. Địa điểm tổ chức lễ hội Say sán được đặt ở một vị trí linh thiêng và thuận lợi cho mọi người tham gia các trò chơi dân gian, như múa khèn, đánh quay, múa võ, kéo co, đẩy gậy… Người dân đến với lễ hội  Say sán vừa để vui xuân cầu mong may mắn, vừa để gặp gỡ bạn bè, chúc nhau những chén rượu ngô nồng thắm.
 Lấy từ Cungphuot.info