nguyentrongtao
Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội (Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP)
NGỌC THU, dịch từ: Wilson Center
Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám
đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và
dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc
hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ
tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn
công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).
Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ]
Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh
này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng
đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất
phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì
sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế
giới còn lại đều sợ Mỹ …
Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của
họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai
khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải
tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng
chiến đấu.
Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi
nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép
lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam
Việt Nam.
Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn].
[Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.
Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau
khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta
rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng
cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một
tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm
việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng
cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.
Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những
tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm
1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn
sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc
đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh
du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi
nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng
cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép
tiến hành chiến tranh du kích“.
Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký
[Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các
đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó
của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.
Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí, nếu các
đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ
việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam
Việt Nam.
Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như
thế?”
Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”
Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam
lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung
Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả
lời: “Việt Nam không thể
phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm
chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh
Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ,
đúng không?
Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục
phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực
lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ
Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].
Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung
Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng
Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra
rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp
đặt lên chúng ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi
sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.
Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta
có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì
Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây
dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để
sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có
lý do nào khác.
Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập
của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào.
Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn.
Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000
quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu
cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng
tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.
Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu
cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.
- Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam,
chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo
thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ
giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ
thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta
không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và
không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để
buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm
quân.
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một
bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa
Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta gây áp
lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải
là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát
sinh [với Trung Quốc].
Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên
của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm
cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã
thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các
ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“.
Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.
Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta
phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng
họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút
quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và
Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.
- Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta
là] giải quyết vấn đề Việt Nam
bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như
cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp
tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận
về vấn đề Việt Nam,
do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.
Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng
chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc,
tôi là người Việt. Việt Nam
là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng
chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền
thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với
các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí
đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:
- Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ,
tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói
chuyện với đồng bào miền Nam
[về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra
chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng!
Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người
dân] một cách khủng khiếp.
Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để
xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm
nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai
trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam
tại Geneva năm
1954), đồng chí có biết không“?
Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi
đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva).
Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến
cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên,
ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon
đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi
thậm chí còn mạnh hơn“.
Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương
lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu
Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi
thêm súng đạn cho các đồng chí“.
Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói
(về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai
bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công
bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.
– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa
Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường
quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối
xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả
Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải
dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ
500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện
trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều
đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.
Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ
(lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam
Việt Nam.
Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung
chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang
đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và
nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan
hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác
là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm
chúng ta không được đi với Liên Xô.
Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến
và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ]
mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.
Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn
kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.
Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc]
ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường
Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung
Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm
“không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi
chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi không chấp
nhận quan điểm này của các đồng chí“.
Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao
ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng
chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500
triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực
Đông Nam
Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo,
trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh
thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám
tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ
không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể
thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật
mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây
số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi
tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo
cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của
các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta
hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói:
“Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các
ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?“
Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông
ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa
người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.
Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của
Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là
chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất
nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.
Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp
tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc,
họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải
nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên
tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn
thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác.
Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.
Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên
Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng
Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ
nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.
Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế
[hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn
không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để
là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại
Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị
này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy
hiểu cho tôi“.
Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình
thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự
lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói
rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên
cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc
từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).
Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến
Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại
sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu
Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan
điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“. Bành
Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn
đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng
chí thấy nó phức tạp như thế nào.
Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao
cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều.
Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung
Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang
làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các
đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người
Việt Nam).
Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi
đang mắc nợ ông ta.
Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung
Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân
Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có
tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch
Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.
Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của
Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của
vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai
điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam
Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng
Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị
những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã
gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh
thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở
gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn
đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi
làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo
chủ nghĩa xét lại.
Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta
muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại,
cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam
mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các
đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ
lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ
hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe
dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn)
sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy
rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.
(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) –
Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc
Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước
lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam
là không sợ Mỹ.
Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ
[Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay
lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính
phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý
do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta
phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam
Việt Nam“.
Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm
đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ
bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ
Mỹ đến mức độ đó…
Nhưng Việt Nam
không sợ. Việt Nam
đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam
không đánh Mỹ thì miền Nam
Việt Nam
sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất
nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do.
Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc
lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …
Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung
Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác
về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu
người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói
đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì
chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được
chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị,
trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở
thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người
đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể
đánh bại họ.
Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi
cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ
rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta
đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].
Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần
điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung
Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng,
mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du
kích…
Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?
Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.
- Chú đã thấy gì?
Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc)
không dũng cảm chút nào.
Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn
khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó
chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người
dân chiến đấu.
Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm
chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội
trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước.
Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ
vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược
tấn công của chúng ta.
Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ
rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn
gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn công chúng ta mạnh
như thế này.
… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết
liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy
hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để
đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để
làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó,
Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay
lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.
Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu
Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là
chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ
hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.
… Chu Ân Lai là người đứng đầu
Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu
tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý
Trường chinh“.
Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000
quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết.
Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng
ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến
đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên,
sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung
Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa
Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau
để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã
đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung
Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào.
Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham
gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau,
Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà
không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu
Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì
tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.
… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một
nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc
xâm lược Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên,
chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã
thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành
trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền
độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực
hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một.
Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức
độ nào, Việt Nam
cũng sẽ thắng …
Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng.
Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến
vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta,
nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân
đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại
một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó,
nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất
cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu
chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không
sợ.
Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1
triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung
du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.
Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết
liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành
phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc
tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba
hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như
thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một
chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.
Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến.
Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc,
chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài
triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương
trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực
tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng
ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để
giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp
tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một
người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.
- Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ
quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai.
Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta
cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả
hai điều này.
- Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống
phía Nam.
Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng.
Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam
có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại
hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta
và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài
người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc
mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng
muốn độc lập, tự do.
Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa.
Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ:
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng
đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc
gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính
trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ
hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến
đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý
đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng
ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều
này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính
trị hồi đó.
Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế
và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà
tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba
một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ
Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?
Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình
với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ,
lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ
Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn
chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta
đánh…“
Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy
định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở
mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về
việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống,
không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.
- Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có
lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không
sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng
ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta
độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta
đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm
vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.
- Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm
nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm
lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho
điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung
Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta
mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không
nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng
sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức.
Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt
nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ
nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …
- Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một
nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo
vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ
phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế
giới. Việt Nam
có thể làm điều này. Việt Nam
có 50 triệu người rồi. Việt Nam
có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe
[XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều
này.
… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân
dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả.
Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không
muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm
thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.
Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này,
người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì
trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung
Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là
thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng
người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu
hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một
vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước
họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè
lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như
thế.
Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế
sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với
Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm,
chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này
nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị
và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây
năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể
đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải
là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung
Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta
không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét