01/04/2016

Kinh Phổ môn (Kinh Cầu An)

Bản kinh này mình đã đề cập ở bài đã đăng trong bài Kinh Nhật tụng
Ở đây, mình đã mạo muội biên tập lại một phần theo tiếng giọng Bắc (các bạn đồng đạo miền Trung, Nam và hải ngoại cũng mong xá cho), ví dụ như Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật – mình chuyển là Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật... Phần phiên âm chữ Phạn và Chú mình không dám sửa dù biết có nhiều dị bản.
Rất mong các bạn đồng đạo đều phát tâm Bồ đề để được An Lạc qua thực hành niệm bản Kinh này.
 
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH – PHẨM THỨ 25  
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
(kinh Phổ môn)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
  


NGHI THỨC CẦU AN
(Tụng Kinh Phổ Môn)

NIỆM HƯƠNG
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN
Án lam xóa ha. (3 lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương)

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhất thế Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát,
Vô biên Thanh Văn chúng,
Cập nhất thế Thánh Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tính tác Phật sự,
Phổ huân chư chúng sinh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
(Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

KỲ NGUYỆN
Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú  Tam Bảo,  Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðại bi hội thượng Phật Bồ tát, từ bi gia hộ Phật tử..... pháp danh..... phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo.

TÁN PHẬT
Pháp vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất
Thiên nhân chi Ðạo sư
Tứ sinh chi từ phụ
Ư nhất niệm quy y
Năng diệt tam kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán thán
Ức kiếp mạc năng tận.

(Ðứng dậy cấm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn)

 QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tính không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Ðế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú  Tam Bảo. (1 lạy)
 Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ  Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư tôn Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
 Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại từ Ðại bi A Di Ðà Phật, Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát , Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng):

TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương sạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát ma ha tát. (3 lần)

 CHÚ ÐẠI BI
Nam mô Ðại bi Hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam mô  Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

 KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thụ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.

PHẨM PHỔ MÔN
NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT. (3 lần)
 DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
 Nhĩ thời, Vô tận ý Bồ tát tức tùng tọa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:
Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?
Phật cáo Vô tận ý Bồ tát: Thiện nam tử, nhược hữu vô  lượng bách thiên vạn ức chúng sinh, thụ chư khổ não, văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát  nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát , tức thời quán kỳ âm thanh giai đắc giải thoát.
Nhược hữu trì thị Quán Thế Âm Bồ Tát  danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu; do thị Bồ tát, oai thần lực cố. Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu tức đắc thiển xứ.
Nhược hữu bá thiên vạn ức chúng sinh, vị cầu: kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, đẳng bảo, nhập ư đại hải; giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát La sát chi nạn. Dĩ thị nhân duyên, danh Quán Thế Âm.
Nhược phục hữu nhân, lâm đương bị hại, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải thoát.
Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, mãn trung Dạ xoa, La sát, dục lai não nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại.
Thiết phục hữu nhân, nhược hữu tội, nhược vô tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, giai tất đoạn hoại tức đắc giải thoát.
Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, mãn trung oán tặc, hữu nhất thương chủ, tương chư thương nhân, tê trì trọng bảo kinh quá hiểm lộ, kỳ trung nhất nhân, tác thị xướng ngôn: "Chư thiện nam tử, vật đắc khủng bố, nhữ đẳng ưng đương nhất tâm xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu; thị Bồ tát năng dĩ vô úy thí ư chúng sinh; nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc, đương đắc giải thoát". Chúng thương nhân văn, câu phát thanh ngôn: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát " xưng kỳ danh cố, tức đắc giải thoát.
Vô tận ý! Quán Thế Âm Bồ Tát ma ha tát, oai thần chi lực, nguy nguy như thị.
Nhược hữu chúng sinh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát tiện đắc ly dục; nhược đa sân nhuế, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát , tiện đắc ly sân; nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát tiện đắc ly si.
Vô tận ý! Quán Thế Âm Bồ Tát , hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố chúng sinh, thường ưng, tâm niệm.
Nhược hữu nữ nhân, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát , tiện sinh phúc đức trí huệ chi nam; thiết dục cầu nữ, tiện sinh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức  Bản, chúng nhân ái kính.
Vô tận ý! Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị lực, nhược hữu chúng sinh, cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát , phúc bất đường quyên, thị cố chúng sinh, giai ưng thụ trì Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu.
Vô tận ý! Nhược hữu nhân thụ trì lục thập nhị ức hằng hà sa Bồ tát danh tự, phục tận hình cúng dường ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược, ư nhữ ý vân hà? Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân công đức đa phủ?
Vô tận ý ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn". Phật ngôn: "Nhược phục hữu nhân, thụ trì Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, nãi chí nhất thời lễ bái, cúng dường, thị nhị nhân phúc, chánh đẳng vô dị! ư bá thiên vạn ức kiếp, bất khả cùng tận. Vô tận ý, thụ trì Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, đắc như thị vô lượng vô biên phúc đức chi lợi".
Vô tận ý Bồ tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát , vân hà du thử Ta bà thế giới? Vân hà nhi vị chúng sinh thuyết pháp ? Phương tiện chi lực, kỳ sự vân hà?
Phật cáo Vô tận ý Bồ tát: "Thiện nam tử, nhược hữu quốc độ chúng sinh, ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán Thế Âm Bồ Tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Bích Chi Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích Chi Phật thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Thanh văn thân đắc độ giả, tức hiện Thanh văn thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Phạm Vương thân đắc độ giả, tức hiện Phạm Vương thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Ðế Thích thân đắc độ giả, tức hiện Ðế Thích thân, nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tự tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Tự tại Thiên thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Ðại Tự tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Ðại Tự tại Thiên thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Thiên đại tướng quân thân đắc độ giả, tức hiện Thiên đại tướng quân thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ Sa Môn thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ Sa Môn thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tiểu Vương thân đắc độ giả, tức hiện Tiểu Vương thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Trưởng giả thân đắc độ giả, tức hiện Trưởng giả thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Cư sĩ thân đắc độ giả, tức hiện Cư sĩ thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả, tức hiện Tể quan thân, nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Bà la môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà la môn thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn, Phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện Phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Ðồng nam, Ðồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện Ðồng nam, Ðồng nữ thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân, Phi nhân đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Chấp kim cang thần đắc độ giả, tức hiện Chấp kim cang thần nhi vị thuyết pháp.
Vô tận ý! Thị Quán Thế Âm Bồ Tát thành tựu như thị công đức dĩ chủng chủng hình, du chư quốc độ, độ thoát chúng sinh, thị cố nhữ đẳng, ưng đương nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát . Thị Quán Thế Âm Bồ Tát ma ha tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô úy; thị cố thử Ta bà thế giới, giai hiệu chi vi thí vô úy giả.
Vô tận ý Bồ tát bạch Phật ngôn:
"Thế Tôn! Ngã kim đương cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát ". Tức giải cảnh chúng bảo châu anh lạc, giá trị bá thiên lượng kim, nhi dĩ dữ chi, tác thị ngôn: "Nhân giả thụ thử pháp thí, trân bảo anh lạc". Thời Quán Thế Âm Bồ Tát bất khẳng thụ chi. Vô tận ý phục bạch Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: "Nhân giả mẫn ngã đẳng cố, thụ thử anh lạc". Nhĩ thời Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát : "Ðương mẫn thử Vô tận ý Bồ tát cập tứ chúng: Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân, Phi nhân đẳng cố, thụ thử anh lạc". Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát , mẫn chư tứ chúng, cập ư Thiên, Long, Nhân, Phi Nhân đẳng, thụ kỳ anh lạc, phân tác nhị phần: Nhất phần phụng Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất phần phụng Ða bảo Phật tháp.
Vô tận ý, Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị tự tại thần lực du ư Ta bà thế giới.
Nhĩ thời Vô tận ý Bồ tát dĩ kệ vấn viết:
Thế Tôn diệu tướng cụ
Ngã kim trùng vấn bỉ
Phật tử hà nhân duyên
Danh vi Quán thế âm?
Cụ túc diệu tướng tôn
Kệ đáp Vô tận ý:
Nhữ thính Quán âm hạnh
Thiện ứng chư phương sở
Hoằng thệ thâm như hải
Lịch kiếp bất tư nghị
Thị đa thiên ức Phật
Phát đại thanh tịnh nguyện
Ngã vị nhữ lược thuyết
Văn danh cập kiến thân
Tâm niệm bất không quá
Năng diệt chư hữu khổ,
Giả sử hưng hại ý
Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm bỉ Quán âm lực
Hỏa khanh biến thành trì.
Hoặc phiêu lưu cự hải
Long ngư chư quỷ nạn
Niệm bỉ Quán âm lực
Ba lãng bất năng một.
Hoặc tại Tu di phong
Vi nhân sở thôi đọa
Niệm bỉ Quán âm lực
Như nhật hư không trụ
Hoặc bị ác nhân trục
Ðọa lạc Kim cang sơn
Niệm bỉ Quán âm lực
Bất năng tổn nhất mao.
Hoặc trị oán tặc nhiễu
Các chấp đao gia hại
Niệm bỉ Quán âm lực
Hàm tức khởi từ tâm
Hoặc tao vương nạn khổ
Lâm hình dục thụ chung
Niệm bỉ Quán âm lực
Ðao tầm đoạn đoạn hoại
Hoặc tù cấm già tỏa
Thủ túc bị nữu giới
Niệm bỉ Quán âm lực
Thích nhiên đắc giải thoát,
Chú trớ chư độc dược
Sở dục hại thân giả
Niệm bỉ Quán âm lực
Hoàn trước ư  Bản nhân.
Hoặc ngộ ác La sát
Ðộc long chư quỷ đẳng
Niệm bỉ Quán âm lực
Thời tất bất cảm hại.
Nhược ác thú vi nhiễu
Lợi nha trảo khả bố
Niệm bỉ Quán âm lực
Tật tẩu vô biên phương.
Ngoan xà cập phúc yết
Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm bỉ Quán âm lực
Tầm thanh tự hồi khứ.
Vân lôi cổ xiết điện
Giáng bạc chú đại võ
Niệm bỉ Quán âm lực
Ứng thời đắc tiêu tán.
Chúng sinh bỉ khổn ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán âm diệu trí lực
Năng cứu thế gian khổ.
Cụ túc thần thông lực
Quảng tu trí phương tiện
Thập phương chư quốc độ
Vô sát bất hiện thân.
Chủng chủng chư ác thú
Ðịa ngục quỷ, súc sinh
Sinh, lão, bệnh, tử, khổ
Dĩ tiệm tất linh diệt.
Chân quán thanh tịnh quán.
Quảng đại Trí huệ quán
Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Bi thể giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
 Chú cam lồ pháp võ
Diệt trừ phiền não diệm
Tránh tụng kinh quan xứ
Bố úy quân trận trung
Niệm bỉ Quán âm lực
Chúng oán tất thối tán.
Diệu âm Quán thế âm
Phạm âm hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm
Niệm niệm vật sinh nghi.
Quán thế âm tịnh thánh
Ư khổ não tử ách
Năng vị tác y hỗ.
Cụ nhất thế công đức
Từ nhãn thị chúng sinh
Phúc tụ hải vô lượng
Thị cố ưng đảnh lễ
Nhĩ thời Trì Ðịa Bồ tát, tức tùng tòa khởi, tiền bạch Phật ngôn: "Thế Tôn, nhược hữu chúng sinh văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát phẩm, tự tại chi nghiệp, phổ môn thị hiện, thần thông lực giả; đương tri thị nhân công đức bất thiểu".
Phật thuyết thị Phổ môn phẩm thời, chúng trung bát vạn tứ thiên chúng sinh, giai phát vô đẳng đẳng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm.

DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM CHÂN NGÔN VIẾT
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

LỤC TỰ ÐẠI MINH CHÂN NGÔN
Án, ma ni bát di hồng. (108 lần)

PHỔ MÔN TÁN
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ tầm thanh
Từ bi thuyết pháp độ mê tân
Phó cảm ứng tùy hình
Tứ hải thanh ninh
Bát nạn vĩnh vô xâm

THẬP NHỊ NGUYỆN
1. Nam mô hiệu Viên thông danh Tự tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)
 2. Nam mô nhất niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Nam hải nguyện. (1 lạy)
 3. Nam mô trụ Ta bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thanh cứu khổ nguyện. (1 lạy)
 4. Nam mô hàng tà ma trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy)
 5. Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)
 6. Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)
 7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (1 lạy)
 8. Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy)
 9. Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sinh nguyện. (1 lạy)
 10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy)
 11. Nam mô Vô lượng thụ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Ðà thụ ký nguyện. (1 lạy)
 12. Nam mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

TÁN PHẬT
A Di Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật. (Niệm nhiều ít tùy ý)
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát . (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát. (3 lần)
Nam mô Ðại Tạng Vương Bồ tát. (3 lần)
Nam mô Thanh tịnh Ðại Hải chúng Bồ tát. (3 lần)
  
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH
Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thật, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
 Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. (3 lần)

* * * * * *
 TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)

PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trú  Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế AÂm Bồ Tát tác đại chứng minh.

Phục nguyện:
Thượng lai hiện tiền đệ tử chúng đẳng chí thành trì tụng Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phổ Môn Phẩm, nguyện hồi hướng công đức kỳ an hiện tiền Phật tử... Chư tai tiêu diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch cát tường, viễn ly khổ ách.

Phổ nguyện:
Âm siêu dương thái, Pháp giới chúng sinh, tình dữ vô tình tề thành Phật Ðạo.

Ðồng niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật.
  
TAM QUY Y
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)

HỒI HƯỚNG
Cầu An công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phúc giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sinh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
 Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sinh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sinh,
Giai cộng thành Phật đạo.

Chân thành cám ơn trang NIỆM PHẬT BALA MẬT



31/03/2016

Kinh Nhật tụng

PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông
PL. 2555


I - Dẫn: 
Kinh có nghĩa là lời của Phật, Bồ Tát hay chư Tổ dạy cho đệ tử được ghi chép lại, những lời này là Chân Lý không thể thay đổi, hợp với trình độ mọi người. Kinh Nhật Tụng là kinh dùng để tụng hàng ngày ở chùa cũng như ở tại gia của cư sĩ. Trước đây và ngày nay, kinh Nhật Tụng gồm có các kinh: Công Phu Khuya (Chú Lăng Nghiêm), Qúa Đường, Cúng Ngọ, An Vị Phật, Cúng Vong, Phóng Sanh, Mông Sơn Thí Thực, Kinh Di Đà, Kinh Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Hồng Danh Sám Hối, Kinh Vu Lan.
Cư sĩ thường chỉ tụng có Kinh Di Đà, Kinh Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Hồng Danh Sám Hối. Khi nào thọ Bát ở chùa mới tụng thời Công Phu Khuya. Ngoài ra tại gia, Cư sĩ tụng kinh nào cũng tốt cả bởi vì khi tụng kinh thì tam nghiệp thanh tịnh (hành động, lời nói, ý nghĩ), hiểu được lời Phật dạy để thi hành cho đúng pháp. Có người tụng Kinh Dược Sư, Kinh Địa Tạng nhưng có rất nhiều người tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Kinh Pháp Hoa).
II - Ý nghĩa Kinh: 
Trừ một số kinh dành riêng cho trong chùa tụng, những Kinh Cư Sĩ thường tụng có ý nghĩa sau:
1) Kinh A Di Đà: 
Kinh này Phật giảng cho Ông Xá Lợi Phất và những vị khác tại nước Xá Vệ, nơi vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Phật ca ngợi cảnh Tây Phương do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ, ai muốn sanh về cõi nước này thì nên phát nguyện, khi đã sanh về cõi này rồi thì không còn thối chuyển, người nào được sanh về cõi này, thấy mình ở trong hoa sen nở ra, mình ngồi ở trong hoa sen đó. Nếu có ai niệm danh hiệu Đức A Di Đà tu 1 đến 7 ngày, tâm không bị lọan động, khi chết sẽ có Phật A Di Đà, Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Thế Chí hiện ra cho thấy, nếu trong lúc chết mà tâm không tán loạn thì được sanh về cõi Phật A Di Đà, nơi đây hết sức sung sướng nên còn có tên là cõi Cực Lạc, vỉ khi chưa thành Phật, Đức A Di Đà có 48 lời nguyện, khi nào Ngài thành Phật, cõi đó phải được như ngài nguyện vậy.
Pháp môn Tịnh Độ chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi để cầu sau khi chết, được sanh về cõi cực lạc. Khi tụng Kinh cho người chết, để cầu cho người chết được sinh lên cõi cao hơn, gọi là cầu siêu, tức là cầu cho sanh về cõi Cực Lạc và cũng để nhắc nhở lời Phật dạy cho những người khác, muốn sanh về cõi cực lạc phải niệm sáu chữ: " Nam Mô A Di Đà Phật!".
2) Kinh Phổ Môn: 
Đây chỉ là phẩm thứ 25, một trong 28 phẩm của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Phẩm này do Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật về Bồ Tát Quán Thế Âm, Phật chỉ rõ Ngài là vị Bồ Tát hay quán sát thế gian, nghe ai kêu cầu, Ngài liền đến cứu giúp, ban cho sự không sợ hãi, Ngài hiện ra khắp nơi, biến hiện thành ra như mọi người để tùy trường hợp mà cứu giúp. Ai muốn nhờ đến sự cứu giúp của Ngài thì hãy niệm danh hiệu của Ngài như: "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát" hay "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh cảm cứu khổ, cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát."
Gặp những khi hoạn nạn, bệnh tật người ta thường hay tụng kinh Phổ Môn để cầu Đức Quán Thế Âm cứu giúp cho được an lành, tai qua nạn khỏi nên gọi là Cầu An.
3) Hồng Danh Sám Hối:
Kinh này có niệm đến 89 vị Phật, sám hối tất cả những tội lỗi trong nhiều đời nhiều kiếp, những tội do mình làm, bảo người khác làm, hay vui vẻ khi thấy người làm đều sám hối, những công đức lành đều hồi hướng về ngôi vị chánh đẳng chánh giác.
Kinh này người ta thường tụng vào những đêm 14 rạng Rằm hay đêm 30 rạng mồng một, cứ mỗi danh hiệu Phật là lạy một lạy, nhờ tụng kinh này thường xuyên, người ta sẽ bớt bao tội lỗi.
4) Kinh Kim Cang: 
Kinh này vốn từ Kinh Đại Bát Nhã, Phật giảng trong 22 năm, tại 4 chỗ, gồm 16 hội, chép thành 600 quyển. Tóm tắt kinh Đại Bát Nhã là Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật gọi tắt là Kinh Kim Cang, rút lại thành một bài là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh cũng gọi là Bổ Khuyết Chân Kinh, chỉ còn 260 chữ.
Trong Kinh Kim Cang Ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật, nếu có người muốn đạt quả chánh đẳng, chánh giác thì phải làm sao để: - Hàng phục vọng tâm và làm sao để an trụ chơn tâm? và lời Phật dạy có thể tóm tắt trong câu : Đừng khởi vọng tâm trụ chấp nơi nào cả. Phật dạy không nên chấp bất cứ thứ gì là thực có, ngay cả:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.
và cuối kinh Phật dạy, nên xem các thứ trên đời như thế này:
Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tắc như thị quán.
Chúng tôi tạm dịch:
Phải quán làm sao cho được thế này,
Bao gồm vạn vật ở trần ai,
Tuồng như mộng ảo nhu bọt ảnh,
Nhẹ tợ sương và tia chớp trong mây.
Kinh này có sức chấp phá cấp tốc các phiền não, phá chấp triệt để, nhanh chóng thành bậc chánh giác.
4) Các Kinh khác: Ngoài các kinh trên trong kinh Nhật Tụng, có nhiều người tụng kinh Pháp Hoa, đây là bộ kinh tối thượng thừa giáo hóa hàng Bồ Tát thành Phật, Phật giảng kinh này trong 8 năm nói rõ đạo Phật chỉ có một thừa đó là Phật thừa và chư Phật ra đời là để: Mở đường, chỉ lối cho chúng sanh giác ngộ để nhập vào sự hiểu biết của Phật. Trong kinh có 5000 vị đệ tử vì cống cao ngã mạn nên rời khỏi pháp hội, những vị còn lại đều được Phật thọ ký thành Phật sau này.
Phẩm Pháp Sư , Phật dạy rằng sau nầy ai là Pháp Sư, người truyền bá Giáo lý của Phật phải vào nhà Như Lai, Mặc áo Như Lai, Ngồi tòa Như Lai nghĩa là phải đầy lòng Từ Bi, hết sức nhẫn nhục, xem tất cả các pháp đều là KHÔNG.
Còn trong phẩm cuối cùng thứ 28, Phẩm Phổ Hiền Bổ Tát Khuyến Phát, Đức Phật có dạy, sau khi Ngài diệt độ, nếu ai muốn được kinh Pháp Hoa thỉ phải đắc 4 pháp:
- Được chư Phật ủng hộ.
- Nơi mình phải nảy sanh căn lành, cội đức.
- Phải có lòng Chánh định chắc quyết.
- Phải thấy mình có quả vị Phật vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh.
Còn kinh Công Phu Khuya hay Chú Lăng Nghiêm, rút từ trong Kinh Lăng Nghiêm ra, đây là Chú mà Phật đã sai Ngài Văn Thù đem đến cứu Ngài A Nan, khi Ngài bị nàng Ma Đăng Già dùng thần chú của Ca Tỳ Ca La Tiên Phạm Thiên làm hại. Kinh này có công năng Định Tâm, thường đọc Kinh này hay trì Chú thì tai qua nạn khỏi, ma quái không xâm phạm, chư thiên thường hộ trì, muốn điều chi tốt lành đều được thành tựu. Vì công năng như thế nên các Chùa thời công phu đều tụng kinh này.
III - Kết: 
Khi tụng kinh, chúng ta cần hiểu kinh nào có công năng ra sao ? Phật dạy những gì, để tùy trường hợp mà ta tụng kinh, hay nói khác hơn là hiểu cho được nghĩa của Kinh để tu tập, áp dụng vào đời sống của người con Phật.
Ngày xưa chùa thường tụng kinh bằng chữ Hán, gọi là Kinh Chữ, ai không biết chữ có thể nghe, đọc theo dần dần thuộc lòng nhưng không thể nào biết rõ được ý nghĩa của Kinh.
Ngày nay, kinh hầu hết đều có dịch ra chữ quốc ngữ.
Chúng ta tụng và phải để tâm vào chăm chú vào thì sẽ hiểu hết ý nghĩa lời Phật dạy, theo đó chúng ta tu, có như vậy mới thật là lợi ích cho chính bản thân ta, và phần nào lợi ích cho những người chung quanh khi nghe ta tụng Kinh Nghĩa nầy.