Bài này được mình lưu về máy lâu rồi, thi thoảng lại lôi ra nhấm nháp mà những ký ức xưa, lần nào cũng vậy đều lặng lẽ ra nước mắt. Cái hồi trẻ ấy mới hào tráng làm sao ?
Vì kém khả năng viết lách nên đành chia sẻ bài viết của một cựu chiến binh đến với bạn đọc vậy. Cũng vì lẽ chán do thấy bẩu môn LS là môn tự chọn - vậy lớp trẻ sau này xem phim Tàu để biết Sử Ta sao hả giời ??? nên mới đăng bài này ra công khai.
Nói thêm để mọi người hiểu: Quân nhân không có sở thích
riêng, chỉ có mệnh lệnh, chỉ có quân lệnh! Ra lệnh một tiếng, chỉ có tiến không
có lui! Bởi vì một khi rút lui, sẽ lập tức bị xử theo quân lệnh . Cái gọi
là quân lệnh như núi, chính là như vậy đó!" Chiến tranh tàn khốc cũng là sứ mệnh phải có
của người quân nhân.
TRÍCH HỒI KÝ CỦA CỰU CHIẾN BINH NAM THÁI TRẦN - TÁC GIẢ BÀI THƠ
VIẾT TẠI CHIẾN TRƯỜNG VỊ XUYÊN NĂM 1986 “NÀ CÁY MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN”
(VT trong bài viết là vận tải)
Chào các bác và anh em,
Đối với những người lính đã từng trải qua cái gian khổ khốc liệt
của chiến trường, hình như mỗi dòng ký ức, mỗi manh kỷ vật gợi nhớ tới chiến
trường xưa luôn làm cho họ xốn xang khắc khoải.
Em còn nhớ, khoảng tháng 1/1987, đang ở Nà Cáy, em được phép ra
TX Hà giang một hôm. Lúc ấy đã giữa buổi sáng, chẳng có xe cộ gì dám chạy giữa
ban ngày ban mặt, vậy là em cuốc bộ.
Cứ dọc QL2, men theo những trận địa pháo của bên mình và những
loạt pháo kích oanh tạc của địch, đến quá trưa thì em cũng mò được về đến km 6,
về chỗ cứ cũ của đơn vị. Em định về đó lấy bộ quần áo dài đã cũ dành dụm mãi từ
lâu để mặc, vì không thể diện cái quần đùi lính rộng thùng thình rách te tướp lại
bẩn thỉu để ra phố. Và cũng mong kiếm xem có còn cái gì bán được như bánh xà
phòng, tuýp thuốc đánh răng hay cái áo may ô thì lấy mang đi giải quyết.
Nhưng khi giở hòm ra thì quần áo đã bị mục hết, trong hòm cũng
chẳng có cái gì, mấy ông ốm yếu trông cứ thì còn "yếu" hơn mình, đành
phải chấp nhận đi tay không với bộ trang phuc "gợi cảm" như vậy ra
TX.
Không dám đi nghênh ngang giữa ban ngày qua chỗ mấy ông vệ binh
ở km 4 và dốc Mã Tim, em đành mò ra ven đường cái, chui vào bụi cây nằm chờ xem
có cái xe nào đi qua thì nhảy lên bám càng. Nằm mãi, chả thấy xe cộ gì, không
gian yên bình quá, em oánh luôn một giấc. Mãi gần tối nghe có tiếng xe ầm ì, em
mới tỉnh giấc. Thấy một chiếc xe tải chạy từ trong ra, em vội vọt theo, bám vào
đít, trèo lên thùng, nằm ẹp xuống. Hóa ra xe chở tử sỹ, trên xe có 5-6 cái xác
tử sỹ đã trương phềnh đặt nằm trên mấy manh chiếu rách.
Lúc xe đi qua cổng sư bộ F313 ở km4, sợ bị lính vệ binh F phát
hiện tóm lại rồi tống cổ quay trở ngược, em chọn chỗ chiếu khô khô rồi cũng nằm
bừa xuống bên cạnh mấy cái xác anh em đó.
Khi xe xuống hết dốc Mã Tim, bắt đầu vào khúc cua gần chỗ Bưu
điện, em lom khom ngồi dậy, đưa mắt tạm biệt đám anh em đã hy sinh, chuẩn bị
vọt xuống. Thấy trên thùng xe có một đống bao cát nhỏ còn nguyên kiện, lại đang
buồn thiu vì cái ba lô lộn lép kẹp của mình, chẳng nghĩ ngợi gì sâu xa, em chôm
ngay một cuộn, chưa biết để làm gì nhưng cũng cứ lấy đại. Rồi em nhảy xuống
đường, chui vào một lùm cây ven đường, hé mắt quan sát xem có tổ vệ binh nào
đang ... đi dạo phố không để tránh.
Khi trời đã tối hẳn, vài ngọn đèn đường vàng ệch soi nhập nhòe
trên phố vắng, thấy đã an toàn, em mò vào Bưu điện TX, xin gọi điện nhờ về nhà.
Ở bưu điện Hà Giang ngày ấy em có quen một chị tên là Mai làm tổng đài. Biết em
đi lính từ Bưu điện Hà Sơn Bình nên các anh chị ấy cũng thông cảm cho gọi nhờ
mấy phút, vì mình không có tiền để ra quầy giao dịch gọi cho đàng hoàng, hơn
nữa cũng đã muộn rồi, quầy giao dịch đã đóng cửa.
Tối hôm ấy, sau khi nói chuyện với bố mẹ ở nhà, thương các cụ
nghèo quá, mình lại đã sắp 27 tuổi rồi mà chưa bao giờ có cái gì biếu bố mẹ và
cho em gái còn bé tí cả... thế là em đã gửi luôn cái cuộn bao cát to bằng cái
giò nạc kia về biếu bố mẹ nhân dịp Tết sắp đến, xuân sắp sang, để mọi người ở
nhà cảm nhận được chút hơi hướng và tình cảm của thằng con đang ở nơi chiến
trận dành cho quê nhà.
Chị nhân viên Bưu điện kia đã khóc nghẹn ngào khi thấy em lấy
giấy báo cẩn thận, nâng niu bọc lại để không bị phát hiện, bị thu mất,... và
cũng như để vun vén, gói ghém tất cả những gì mình có... để gửi về quê hương.
Em cũng thấy mặt mình cứ nhòe đi vì nước mắt cứ xộc xuống sống
mũi cay xè...
Cho đến nửa năm sau, khi em đã xuất ngũ về nhà, có một hôm em đã
tìm thấy bó bao cát ấy trong một cái hòm mà bố mẹ em dành để những thứ giấy tờ
quan trọng và một số kỷ vật của các cụ... Và em đã lặng người đi khi thấy những
lá thư của em và của em trai em (cũng là lính nhưng thuộc f 355 ở Lào Cai) gửi
về đều bị nhòe nhoẹt đi, hình như là do nước mắt của mẹ... (chắc là của mẹ
thôi, vì bố cứng rắn lắm)...
...Hơn 10 năm sau, năm 1998, khi Thai60 em đã trở về nhà sau bấy
nhiêu năm tha hương cầu thực nơi đất khách quê người, cuộn bao cát kia vẫn còn
nằm lặng lẽ trong cái hòm kỷ vật của cha mẹ từ ngày ấy...
Cho đến tận một ngày hè của năm 2018, vừa mới chiều qua thôi,
khi Thai60 em lục tủ tìm cái quần đùi mới để thay cho bố, cuộn bao cát nhỏ kia
vẫn nằm gọn ghẽ an nhiên trong ngăn tủ đựng huân huy chương và tài liệu giấy tờ
tùy thân của bố mẹ, dù cái hòm gỗ ngày xưa đã mục nát tự thuở nào, và bố thì đã
bán thân bất toại nhớ nhớ quên quên suốt mấy năm nay vì tuổi đã già và căn bệnh
teo não quái ác.
Thấy cuộn bao cát đã ải , lớp vỏ bọc ngoài của nó đã mủn ra, rơi
lả tả theo kẽ ngón tay, Thai60 em đã chuyển nó sang một ngăn tủ khác đựng đồ
linh tinh của bố.
Sáng nay, nghe mẹ bảo "Con đừng tự tiện dịch chuyển những
gì bố mẹ đã xếp riêng ra", lại vào phòng bố, mở tủ, ngó vào... Cuộn bao
cát đã trở về chỗ cũ lâu nay, lại nằm an nhiên tự tại ngay bên cạnh những dấu
tích cả một đời nhọc nhằn hy sinh phấn đấu của bố mẹ...
Chợt thấy đau nhói trong lòng khi nghĩ về những người mẹ, người
cha trên đất nước này đã vĩnh viễn mất đi những đứa con yêu dấu nơi chiến
trường xa...
Hình như, có nhiều lúc, do gánh nặng cơm áo mưu sinh, do dòng
đời phù du phiêu dạt, dù đã sống qua quá nửa đời người, mình vẫn còn chưa kịp
lớn khôn để thực sự biết trân trọng nâng niu những giá trị tinh thần lớn lao
của kỷ vật và ký ức ngay cả của chính mình.
Chợt thấy mình còn mắc nợ nhiều lắm với mẹ, với cha, với đồng
đội đã hy sinh, với cuộc đời này.
Lại đêm đêm trở trăn với những dòng ký ức, lại hỳ hục mổ cò gõ
chữ, gom góp thành phong lương khô cũ mèm, mang đến với anh em...
*
Đêm cuối tuần, ngoài trời mưa rả rích. Trằn trọc mãi mà chả sao
ngủ được, đành trở dậy mở máy thả mình lang thang trong thế giới thông tin,
hình ảnh, âm thanh, kiến thức, tình cảm, tâm trạng, v.v. tả pí lù của trang
mạng FB. Thấy chuyện vui thì ít mà chuyện buồn bực bức xúc thì nhiều, chán quá,
lại mò vào góc riêng của mấy lão cựu lính cùng mặt trận Vị Xuyên Hà Giang ngày
xưa. Cũng khối ông mất ngủ đang ủ dột âu sầu với bạt ngàn ký ức của một thời
quá vãng. Lại xin thồ lên chốt thùng lương khô cũ mốc để các lính cùng nhau
nhấm nháp cho đêm hè bớt vị đìu hiu...
Chào các bác và anh em,
Hồi trước ngày 12/7/1984, ở Nà Cáy, thỉnh thoảng lính
VT bọn em được ban chỉ huy C đưa cho những bó thư từ hậu phương chuyển
tới. Không phải thư nhà đâu, toàn là của các cô gái ở những trường
học nào đó từ rất nhiều tỉnh thành gửi đến, địa chỉ người nhận
toàn thấy ghi chung chung là "Bộ đội biên giới Vị Xuyên".
Nhận được những cánh thư ấy, lính tráng vui lắm, chuyền tay nhau đọc,
ngắm từng nét chữ, luận từng câu viết để suy tưởng ra dung nhan, tính
tình người gửi. Đọc đi đọc lại mãi không chán, rất nhiều chú đâm ra
phải lòng người viết, vậy là đua nhau tìm giấy viết thư về.
Ngày ấy, Thai60 có một quyển sổ tay dùng để ghi nhật
ký, mặc dù đã ghi suốt từ ngày nhập ngũ, nhưng cũng chưa được bao
nhiêu, giấy trắng còn nhiều lắm. Vậy là các ông lính trẻ, lính già
cứ xúm vào xin, không xin được thì vặt trộm, quyển sổ cứ mỏng dần,
mỏng dần...
Thư lính viết để gửi về những người con gái chưa quen
ấy tình cảm lắm, có nhiều khi ghé mắt đọc trộm hay được nhờ đọc
lại để tư vấn, Thai60 đã phải chảy nước mắt. Năm ấy, Thai60 em đã 24
tuổi rồi, cũng đã từng được nếm trải hương vị của tình yêu đôi lứa.
Nhưng những chú lính 18-20 kia, gần như họ chưa biết một tý gì cả.
Vì thế, những dòng thư của họ vô tư hồn nhiên, ngây thơ trong sáng đến
nao lòng. Thương lắm...
Nhiều lá thư đã được lính gửi đi, có những lá thư đã
được phản hồi. Những lúc ấy, nhìn thằng cha nhận lá thư ấy sao mà
phởn phơ hãnh diện thế, cứ như vừa được bố mẹ tậu cho một cô vợ
xinh, một cô vợ yêu nõn nà ấy... Cả đơn vị vừa ghen, vừa mừng cho
những ông lính trẻ tốt phúc ấy.
Cũng cần phải nói thêm để các bác và anh em hiểu và
thông cảm, mỗi khi lên Thanh Thủy làm nhiệm vụ, lính E 14 (em không
biết ở các đơn vị khác thì sao, nhưng có lẽ ở cả F313 đều thế)
không bao giờ được nhận thư từ gì hết, mọi lá thư ấy đều bị quân bưu
giữ lại ở dưới làng Pinh, chẳng biết khi nhiều quá thì họ sẽ làm
gì với đống thư từ ấy.
Việc không cho lính nhận thư từ nói chung trong thời gian
đi chiến đấu ấy được áp dụng cho tới tận tháng 2/1987 - khi Thai60 em
được rút xuống cứ trước vì thương tật, sau đó hình như vẫn vậy. Vì
thế, những cánh thư hiếm hoi của những cô gái chưa quen (hoặc mới quen
qua thư từ đi lại) kia đã trở thành báu vật với lính tráng chúng em.
Nhưng rồi... sau ngày 12/7/1984 với chiến dịch MB84 đẫm máu,
không còn cái cảnh cảm động ấy nữa, cho đến cuối cuộc chiến.
Nhớ hồi đó, và mãi cả đến những năm sau nữa, có những
khi gói ghém tư trang cho những anh em bị hy sinh hoặc thương vong, có
nhiều khi bọn em còn thấy những lá thư kia vẫn được cất cẩn thận
trong ba lô của họ. Có mấy lần, khi thay áo quần cho tử sỹ, Thai60 đã
tìm thấy những lá thư của những cô gái hậu phương ấy được bọc kỹ
trong nilon, ghim trong túi áo ngực của Tử sỹ. Đôi khi có cả những lá
thư do anh em viết, đựng trong những chiếc phong bì tự làm, đề địa
chỉ cẩn thận rồi mà chưa kịp gửi. Thai60 em đã gom lại được một
bọc, đựng trong balo của mình, cũng chưa biết sẽ xử lý thế nào, nhờ
cánh lái xe mang ra TX gửi đi, hay cứ tạm giữ lại đã, thì có một hôm
đã bị mấy anh sỹ quan Chính trị E thu mất.
Có một lần, khoảng giữa tháng 1/1987, sau hôm bị sức ép
cối ở Ngã ba Thanh Thủy tới ộc cả máu mũi, máu mồm, Thai60 em được
nghỉ ở nhà. Những ngày ấy, địch bắn pháo nhiều lắm do đang có giao
tranh BB, lính tráng đơn vị phải lên đường hết, kể cả ban ngày.
Hôm ấy, buồn tình quá, Thai60 em lần mò xuống cái hầm
gần chỗ bãi để tử sỹ, chui vào đó với mấy chú lính bị thương nhẹ
đang "an dưỡng tại đơn vị". Trời mùa Đông rét mướt, ngoài
trời mưa đổ dầm dề, nằm suông trong hầm, buồn chán quá, lại nổi cơn
thèm thuốc lào, Thai60 hô mấy chú em lật mấy tấm phản lên, quét gom
lại đám vụn bên dưới, hy vọng tóm được những vụn thuốc lào thuốc
lá lọt qua khe ván xuống, từ cái thuở còn sung túc nào đó. May
chăng...
May thật đấy. Không những chỉ có sợi thuốc lào, mà bọn
em còn tóm được mấy điếu thuốc lá ở dạng... di chỉ di vật. Khoái
quá, phát huy thành tích, khuếch trương chiến quả, các chú lính lật
lên cho bằng hết ván, và lại mừng hú lên khi moi ra thêm được khối...
của.
Thai60 em cũng sốt sắng tham gia vào trò soi đóm vạch khe
ấy, cũng khoái tỉnh người lên khi kiếm được... hàng. Và khoái nhất,
ấy là khi Thai60 em tìm thấy một món vô cùng quý giá nằm tít ở kẽ
ván cuối cùng. Đó là một bức thư của một em gái nào đó, mở đầu
thư ghi là: Thường Tín, ngày 15-6-1984... Dù lá thư đã được bọc trong một
mảnh nilon, nhưng chắc do không được hàn kín chống ẩm, nên giấy đã bị
mủn, chữ viết bằng mực xanh đã nhòe gần hết, chỉ còn đọc được
loáng thoáng.
Mấy anh em xúm vào đọc lá thư cũ với những dòng chữ mờ
nhòa còn sót lại ấy, hết vui sướng bàn tán nói cười ồn ĩ rồi lại
lặng đi. Anh em thằng nào mắt cũng đỏ hoe, nhòe nước, nhất là khi
nhìn vào mắt nhau...
Thai60 cũng vui buồn như anh em, nhưng trong lòng còn buồn
hơn nữa khi nhớ lại cội nguồn của bức thư cũ ấy. Ôi... mới thế mà đã gần
3 năm trời, từ những ngày đầu vào trận, với trận đánh ngày 12/7 năm
ấy... Mới chỉ gần 3 năm thôi, mà những đồng đội ngày ấy, với những
gương mặt ngây thơ hồn nhiên vô tư trong sáng, đã hao hụt đi đâu hết rồi.
Đơn vị chỉ còn lại gần hai chục anh em ngày ấy nữa thôi, và mặt mũi
anh nào cũng sắt đanh lại không còn phởn phơ như ngày xưa nữa.
Đến cái ngày hôm ấy, quyển nhật ký ngày nào của em
không còn nữa, nó đã bị thui cháy trong một ngày đầu xuân năm 1986,
khi căn hầm của A em bị pháo bắn trúng, may rằng đấy là một quả pháo
khoan, hầm bị vỡ tung, nhưng mấy anh em trong hầm chỉ bị thương nặng
(Thực ra chúng em cũng không biết sau này khi được đưa sang hang Phẫu,
chuyển về tuyến sau, họ có bị sao không).
Vâng, quyển nhật ký đã cháy, những chú lính trẻ ngày
xưa nay đã thành lính cũ, Thai60 em đã gần 27 tuổi, nhưng vẫn ôm mặt
khóc nghẹn ngào, khi ngắm nhìn những dòng chữ mềm mại ít ỏi còn sót
lại trong trang thư cũ của một người con gái hậu phương. Vâng, chúng em
đã khóc vì cảm động, vì nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ đồng đội đã xa
vắng đấy các bác ạ. Dạo ấy đã gần tới ngày Tết âm lịch, tiết
trời đã cuối đông, sắp sang mùa xuân, trời Vị Xuyên vẫn mưa dầm dề
và tiếng pháo, tiếng súng vẫn ầm ĩ rền vang trên những vách đá,
sườn đồi khắp mảnh đất nơi đầu nguồn sông Lô tả tơi áo lính...
Chiều nay, trời Hà Nội đổ mưa dầm dề, tiế́ng sấm vọng
ì ầm trên bầu trời mây xám, đọc câu thơ viết giở của những anh lính
ngày xưa, thấy lòng mình bâng khuâng trống trải, chợt nhớ quá, Vị
Xuyên ơi...
*
Đã lại cuối tháng Bảy rồi... Đêm đã khuya, khí trời
lành lạnh, hình như mùa Thu đã đến... Lại tải về đây phong lương khô
cũ mốc thếch để anh em xơi tạm cho đỡ đói lòng:
Chào các bác và anh em,
Những ngày đầu tháng 7/1984, ở Vị Xuyên thời tiết rất
xấu. Gần như ngày nào những cơn mưa dầm dề cũng giăng lên một bức
màn nước trên khắp núi đồi. Thỉnh thoảng, cũng có những lúc trời
hửng lên, mặt trời ló ra khỏi những đám mây xám đen trĩu nặng, soi
ánh vàng rạng rỡ hiếm hoi xuống mặt đất lầy lội ướt át. Những khi
ấy, chiến trường lộ ra sự ngổn ngang tơi tả ở những chỗ bị pháo
bắn. Thế nhưng, ngay bên cạnh đấy, cây cỏ vẫn lên xanh ngăn ngắt, mơn
mởn. Có những cành cây bị mảnh pháo chém, ngã xệ xuống, nhưng vẫn
bám vào thân. Ở những vết chém vỡ toác ấy, nhựa cây chảy đẫm đìa,
có chỗ thì còn nhỏ giọt, có chỗ thì đã se lại. Thật cảm động khi
trên những cành cây bị thương tích ấy, vẫn có những chồi búp non xanh
e ấp mọc ra. Trên cái cành chúi xuống mặt đất, những mầm lá, nụ hoa
vẫn vươn lên, hứng những giọt mưa và đón ánh mặt trời.
Trong những ngày mưa gió ấy, mỗi khi đi tải hàng hay
cáng thương vào ban ngày, gặp lúc nắng hửng lên, dù rất lo những cơn
gió bất ngờ nổi lên xua bạt đám sương mù lên cao, phơi đội hình ra
trên sườn đồi trống trải, nhưng lính tráng bọn em vẫn cứ có cái cảm
giác như mình được bung ra khỏi sự tù túng chết chóc. Nhìn những
cành cây gãy gục vẫn đang kết hoa đâm nụ, cảm thấy cuộc đời này sao
mà đẹp thế, đáng yêu, đáng sống vô ngần.
Những ngày ấy, nếu ai đã từng đi trên con đường nối từ
đỉnh dốc 673 xuống ngã ba Thanh Thủy, lại vào lúc trời hửng nắng,
hẳn sẽ nhìn thấy ở đoạn đường gần ngay chỗ bắt đầu đi xuống, có
một cánh rừng nhỏ toàn loại cây lá to như chiếc mũ cối, chẳng biết
tên là gì. Khu rừng ấy bị pháo bắn rất nhiều, thân cây gãy đổ ngổn
ngang, từ những khúc cây gẫy gục tan nát ấy, vẫn có những cái
chồi non, cành con xanh mướt mọc ra vươn thẳng lên ngạo nghễ. Đi tiếp
xuống khoảng 2-300 m nữa, khi con đường bắt đầu có những đoạn dốc
ngược trơn tuồn tuột, nếu nhìn lên vách núi trên cao, cách khoảng mấy
chục mét thôi, sẽ thấy những thân cây dong dỏng, trên cây phủ đầy
những chùm hoa cánh nhỏ, màu vàng rực rỡ. Có những cây bị pháo
cháy xém, nhưng hoa vẫn rực lên từ những cành cây sứt sẹo. Rồi trên
cao nữa, hay phía dưới sườn núi, có lác đác cô đơn những cây gạo thân
sứt sẹo, vỡ toác vì những vết mảnh pháo, nhưng trên thân cây hay
những cành bị thương ấy vẫn có những nụ hoa cháy đỏ lung linh dưới
ánh mặt trời. Những khóm cành treo vất vưởng trên thân cây, có khi
chỉ một cơn gió to hay một trận mưa lớn cũng có thể bắt chúng đứt
lìa, rụng xuống, vậy mà vẫn vô tư đơm hoa thắp sáng cả một triền
rừng...
Có rất nhiều lần, khi đang hỳ hục cáng thương trèo
ngược dốc, lính VT gặp những đoàn quân đang lao từ trên cao xuống. Nếu
là ban ngày, lại gặp lúc hửng nắng, dù mệt đến đứt hơi, bao giờ
bọn em cũng cố nhắc anh em phải để ý đến sương mù và gió, vì ở
những cao điểm phía bên kia thung lũng, bọn địch vẫn thường xuyên dõi
sang, cần một thoáng quang quẻ, nhìn thấy lính mình nhấp nhô,
chúng sẽ bắn sang hàng chục, hàng trăm quả pháo bắn thẳng. Nhìn những
người lính trẻ đang vào trận, quần áo còn xanh lét, tóc cắt cao, mũ
mão đầy đủ, trên vành mũ còn gắn những tờ giấy cắt đuôi nheo ghi
những dòng khẩu hiệu khí thế, lòng bọn em lại thấy xốn xang vui lo
lẫn lộn. Vui vì thấy mặt trận có thêm anh em chi viện, mừng vì thấy
bên mình sắp mở chiến dịch lớn, sắp chấm dứt những ngày khốn khổ
khốn nạn đau thương... Nhưng lo lắm. Lo vì thấy anh em mình còn non trẻ
quá, hồn nhiên quá, mặt mũi còn sáng láng vô tư quá...
Dẫu thương và lo cho anh em lắm, nhưng mỗi khi được họ đưa
tay kéo đỡ lên, khi nắm chặt bàn tay đồng đội, cảm nhận thấy hơi nóng
hừng hực mạnh mẽ từ họ lan tỏa sang, lính VT chúng em như được tiếp
thêm luồng sinh khí mới vô cùng ấm áp. Rồi thì quên cả mệt, râm ran
chúc nhau: Các quê mạnh khỏe nhá, đánh giỏi vào nhá, cẩn thận nhá,
lúc nào thắng trận quay ra nhớ ghé qua Nà Cáy nhá...
Gặp nhiều nhất là vào ban đêm, nhất là những hôm trời
mưa tầm tã. Những đoàn quân trùm kín áo mưa lúp xúp chạy gằn xuống
dốc và những người lính VT không mũ áo che mưa, mái tóc dài xõa
xượi bết nước trên những bờ vai trần, cái quần đùi rách lướp tướp,
đôi giầy cao cổ sũng nước ọp ẹp gặp nhau, nhường đường cho nhau đi
trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Vẫn có những câu chào, câu chúc nhau
hào hển: Đi nhé, khỏe nhé, chiến thắng nhé... Rồi những bàn tay nắm
vội lấy nhau, những bàn tay vỗ vào vai nhau, những bàn tay dúi vội
cho nhau gói thuốc lào, bao thuốc lá... Rồi những câu tìm hỏi đồng
hương, hẹn ngày gặp lại ... râm ran, rạo rực suốt hàng quân.
Khi những đoàn quân ấy đã đi qua, khi người cuối cùng đã
khuất dần ở phía dưới, cánh VT bọn em lại hỳ hục vật vã leo lên...
leo lên. Lòng vẫn thấy cả vui buồn, lo lắng, tin tưởng, hy vọng lẫn
lộn.
Có những đêm, khi nghe thấy tiếng pháo nổ ầm ầm, mảnh
đạn réo eo éo, ánh chớp nhoáng nhoàng từ phía dưới vọng lên, lại
thương và lo đến quắt ruột chẳng biết đoàn quân khi nãy có bị dính
đạn không?
Có những đêm, khi đưa được thương binh về tới Nà Cáy,
bọn em lại nhận lệnh ngược 673 để đón thương binh vừa bị thương trên
đoạn đường dốc ấy, vừa mệt, vừa lo ngay ngáy cho cả chính mình khi
thấy ánh chớp lửa nhằng nhịt hắt lên bầu trời.
Dạo ấy đang là mùa trăng, càng đến giữa tháng trăng càng sáng. Vào
những đêm mưa, ánh trăng hình như khuếch tán vào những vầng mây trên
bầu trời, dưới thung lũng, không gian cũng như hơi sá̀ng ra. Có những
đêm hay khoảnh khắc trời tạnh, gió thổi bạt sương mù lên cao hay qua
triền núi bên kia, ánh trăng rọi xuống xanh ngăn ngắt, cảnh vật như
lại bừng lên. Núi đồi mướt mát lấp lánh dưới ánh trăng, những vách
đá xác xơ vì đạn pháo ngời lên dưới ánh trăng, ở dưới xa xa kia,
thấp thoáng những vầng sáng lấp lánh, lấp lánh...
Sông Lô đấy...
Dòng sông mùa mưa lũ đỏ ngầu màu đất đỏ, phù sa, nước
trôi ào ạt về xuôi, sóng vỗ ì oạp bãi bờ, dưới ánh trăng xanh như
lại trở nên huyền ảo, êm đềm. Từ mãi trên đỉnh núi, khi thì ở bên
Cóc Nghè, khi thì ở trên đỉnh 673, 812, có đôi chỗ nhìn thấy một
vùng lấp lánh như phủ bạc dưới ánh trăng khuya xanh ngăn ngắt...
Sông Lô đấy...
Sông đang chảy về phía quê mình, nơi đồng bãi, xóm làng,
phố thị thân yêu phía hạ du...
Gác đòn cáng lên bờ hào, ngóng nhìn xuống phía dòng
Lô, hướng mắt dõi về phương trời phía Nam, lũ lính chúng em thả hồn
về phía quê nhà...
Nhưng cũng chả được lâu đâu, bọn em lại bị lôi trở về
với thực tại. Ở phía bên kia cái vùng sáng lấp lánh ấy, phía trên
cao, những vách đá của dãy núi đá răng cưa bên Phong Quang cũng phơi ra
cái màu trắng phếch xác xơ vì đạn pháo quân thù, khi chúng bắn hủy
diệt những trận địa pháo tầm xa của lữ 168 và những đơn vị gì gì
nữa bên ấy.
Rồi đến ngày chiến dịch mở ra, kết thúc…
Rồi những đêm dài cùng lính trinh sát mò lên trận địa
kiếm tìm khuân vác anh em...
Rồi những đêm dài vác gỗ, tải mìn cùng lính Công binh
mò lên các chốt điểm để xây hầm hào, lập phòng tuyến...
Những đêm dài khốn khổ gian nan ấy, chỉ mong cho vầng
trăng cuối tháng đừng sáng bừng lên, chỉ mong cho trời hãy mưa thật
to, nổi bão giông sấm sét cho thật nhiều... để cho bao nhiêu máu me mồ
hôi nước mắt theo những giọt nước mưa trời gom hết về suối Thanh
Thủy, hòa xuống dòng Lô trôi xuôi về bến bãi quê nhà...
Những ngày cuối cùng của tháng Bảy, những ngày đầu
tiên của Tháng Tám năm 1984, trên Vị Xuyên tiết trời đã sang thu với
những ngày nắng chói chang và những đêm mưa dầm dề, day dứt. Những
đồng đội ngày nào mới vào nay đã vắng bóng...
Người thì đã rút về phía sau để củng cố, chuẩn bị cho
những trận đánh mới...
Người thì thân xác vẫn còn nằm đâu đó với gió sương mưa
lạnh, dưới ánh sao trời xanh ngăn ngắt bên những triền đồi vách núi
khe đá trên kia...
Những người còn ở lại thì trần lưng ra với những trận
chiến đấu mới...
Lại có những ngày mưa gió xập xùi, những ngày nắng
bừng lên rạng rỡ. Cảnh vật chiến trường đã xơ xác lại càng thêm xác
xơ. Đi trên con đường từ đỉnh 673 xuống, nhìn sang bên đường, nhìn qua
bên kia thung lũng, tất cả như đã bị quăng quật vò xé tơi bời, đốt
cháy nham nhở...
Nhưng ở trên những sườn núi cao, những triền đồi thấp,
dưới những khe sâu, vẫn ngời xanh những chồi non mới nhú, vẫn thấp
thoáng rực vàng, chói đỏ muôn chùm hoa trên những thân cành thương
tích xác xơ...
Không phải là mùa trăng, sông Lô ở mãi dưới xa kia không
còn có ánh trăng ngắt xanh để ngời lên lấp lánh, nhưng hình như tiếng
sóng gầm thét của nó vẫn ào ạt vọng lên những đỉnh núi trên cao...
Ở dưới cái vùng tối thẫm sâu thăm thẳm kia, vẫn là
dòng Lô đấy...
Những con sóng trên sông vẫn đang ào ạt vỗ bờ, những con
nước đỏ bầm trên sông vẫn ì ầm bươn bải chở nặng phú sa đất núi
đẫm máu, mồ hôi và nước mắt về xuôi, đắp bồi cho bờ bãi quê nhà
phía hạ du.
Dưới bầu trời vàng ệch ánh hỏa châu, chẳng quản gió
mưa pháo đạn quăng quật dập vùi, những tấm lưng trần với đôi giầy
rách ì ọp, chiếc quần đùi xơ tướp phất phơ, manh áo rách nát bung
hết hai vai và mái tóc dài cợp bết xuống gáy vẫn lầm lũi lăn lộn
trên những sườn đồi, vách đá ngổn ngang xơ xác.
Rồi lại có những mùa trăng mới ngắt xanh. Rồi lại có
những ngày bừng sáng với những chùm hoa ngời sắc đỏ, vàng, những
chồi cây mướt mát vươn thẳng lên cao dưới ánh mặt trời rạng rỡ...
Và vẫn như vang vọng mãi khắp nơi trên mọi góc chiến
trường: Chiến thắng nhé... QUÊ ƠI..."