29/04/2022

Các bạn ăn chay chú ý

 st từ nhiều nguồn trên net.



"Ăn chay" là cụm từ được dùng để chỉ những người không bao giờ dùng bất cứ thực phẩm nào chế biến từ động vật.Thực đơn của họ bao gồm rau quả, dầu thực vật, ngũ cốc, trái cây, đậu, đỗ, các loại hạt như vừng, lạc. Những người ăn chay thường thì nhiều lý do khác nhau, có người vì lý do tôn giáo, có người vì lý do sức khoẻ, có người muốn giảm cân.

Thực đơn của những người ăn chay thường có lợi cho sức khoẻ. Các nghiên cứu cho thấy nhưng người ăn chay thường ít khi mắc phải những bệnh tim mạch, một số bệnh ung thư, tiểu đường, cao huyết áp, béo phì, sỏi mật. Điều đó không chỉ hoàn toàn do chế độ ăn, mà có thể còn do lối sống, vì những người ăn chay thường không hút thuốc lá.

Hiện trên thế giới có rất nhiều hình thức ăn chay khác nhau và có ba nhóm chính như sau:

Nhóm 1: Không ăn thịt nhưng vẫn ăn cá và các loại động vật.

Nhóm 2: Không ăn thịt, cá, gia cầm nhưng vẫn ăn trứng và các chế phẩm từ sữa bò.

Nhóm 3: Không ăn thịt, cá, gia cầm, trứng nhưng vẫn ăn các chế phẩm từ sữa bò.

Tuy nhiên, việc không ăn các loại động vật không có nghĩa là cơ thể bạn sẽ hoàn toàn khoẻ mạnh. Vì vậy, những người ăn chay dù thuộc bất kỳ nhóm nào, cũng cần phải trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức về dinh dưỡng để bảo bảo rằng những thực phẩm mà mình lựa chọn cung cấp cho cơ thể đầy đủ carbohyrate, các loại vitamin và khoáng chất.

Những điều cần biết

- Những người ăn chay cần biết kết hợp các loại thực phẩm giàu protein trong các bữa ăn. Mỗi loại đồ ăn thực vật bản thân chúng không thể cung cấp đủ acid amin mà cơ thể đòi hỏi. Vì vậy, cần phải kết hợp chúng với nhau để đảm bảo cơ thể được bổ sung đầy đủ lượng acid amin cần thiết. Bánh mì với đậu lăng, sanwich với bơ và hạt dẻ, cơm nếp với đỗ, cháo đậu xanh đều là những món ăn đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng protein cần thiết cho cơ thể.

- Nên sử dụng những thực phẩm có chất béo bão hoà đơn khi chế biến đồ ăn như dầu hạt cải, dầu lạc, dầu olive hoặc bơ. Những thực phẩm  này có thể phòng bệnh tim mạch.

Không nên sử dụng quá nhiều dầu thực vật khi nấu ăn vì chúng có thể  làm tăng cân.

- Nên ăn nhiều những thực phẩm giàu tinh bột như bánh mì, cơm, khoai tây, các loại ngũ cốc và các loại đậu, đỗ, rau củ, đậu nành là những thực phẩm cung cấp carbohydrate. Nên ăn nhiều loại rau và trái cây mỗi ngày. Hãy chọn đa dạng nhiều rau trái với nhiều màu sắc. Chúng là nguồn cung cấp các vitamin A, C, E, selenium và lycopene.

- Nguy cơ bị thiếu hụt vitamin B12 ở những người ăn chay là rất cao, vì những vitamin này chủ yếu chỉ có trong các thực phẩm từ động vật. Vitamin B12 cũng có ở một số chế phẩm từ thực vật như men bia, một số loại rau giàu protein, sữa đậu nành, đậu hũ, bột ngũ cốc. Trong một số trường hợp, nên bổ sung thêm vitamin B12 dưới dạng tế bào.

- Những người ăn chay có thể bị thiếu canxi do không ăn những thực phẩm làm từ sữa bò. Nguồn cung cấp canxi khác ngoài sữa bò là sữa đậu nành và các thực phẩm chế biến từ đậu nành, các loại rau có lá xanh, bánh mì, cam và quả mơ.

- Những người ăn chay cũng có nguy cơ bị thiếu sắt, vì nguồn cung cấp sắt là những loại động vật có thịt màu đỏ. Có thể bổ sung sắt từ đậu nành, bột ngũ cốc, rau xanh, các loại hạt. Nếu dùng kết hợp những thực phẩm này với các đồ uống giàu vitamin C thì sẽ làm tăng lượng chất sắt hấp thụ được.

- Hàm lượng kẽm trong cơ thể những người ăn chay rất thấp. Vì vậy hãy bổ sung kẽm từ ngũ cốc các loại rau như đậu, đỗ và các loại hạt như vừng, lạc.

Khẩu phần lý tưởng cho ngừơi ăn chay

Ngũ cốc: 50%

Rau và trái cây: 33%

Các loại thực phẩm khác: 17%

Ăn chay giảm cân

Có một thực tế là chúng ta  hoàn toàn có thể khoẻ mạnh mà không cần phải ăn thịt. Nhưng một chế độ ăn kiêng thịt chưa chắc đã mang lại cho chúng ta một thân hình mảnh mai và cơ thể khoẻ mạnh. Để có thể thành công trong việc giảm cân, bạn cần phải tuân thủ những điều sau.

- Không ăn vặt. Các thức ăn vặt như bánh ngọt, khoai tây chiên có thể khiến bạn tăng cân vì chúng thường có hàm lượng chất béo cao.

 - Không sử dụng quá nhiều chất béo khi chiên, xào đồ ăn.

- Hãy có nhiều món ăn cho mỗi bữa, bởi vì không có loại thực phẩm thực vật nào giàu protein và dưỡng chất như thịt. Nếu bạn không ăn thịt, hãy kết hợp các loại rau củ khác nhau trong một bữa ăn để cơ thể được cung cấp đầy đủ dưỡng chất. Các chất dinh dưỡng có trong thịt mà ít có trong các loại thực phẩm khác bao gồm: sắt, canxi, vitamin D, vitamin B12, kẽm và protein.

- Bổ sung vitamin và các khoáng chất. Một chế độ ăn chay khoẻ mạnh phải cung cấp cho bạn đầy đủ các dưỡng chất mà cơ thể đòi hỏi. Nếu vì một lý do nào đấy mà chế độ ăn của bạn không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho bạn, hoặc bạn cảm thấy mệt mỏi, có thể hỏi ý kiến tư vấn của các chuyên gia dinh dưỡng để dùng thêm một số vitamin hỗn hợp. Nhưng tuyệt đối không dùng chúng thay thế cho các bữa ăn.

Bảng phân loại dưỡng chất

Sắt: hạt điều, cà chua, cam, đậu hũ, đậu Hoà Lan, đậu xanh

Canxi: các thực phẩm chế biến từ sữa, sữa đậu nành, nước can, đậu hũ, bông cải xanh.

Vitamin D: sữa tươi, sữa đậu nành, bột ngũ cốc.

Vitamin B12: trứng, các thực phẩm là từ sữa bò, đậu tương, ngũ cốc.

Kẽm: gạo nguyên cám, lúa mì, lúa mạch, trứng, các thực phẩm chế biến từ sữa, đậu hũ, các loại rau có lá xanh, các loại rau củ.

Protein: đậu Hoà Lan, thực phẩm chế biến từ đậu tương, các loại hạt.

28/04/2022

Vỗ huyệt chữa bệnh

11 cách vỗ huyệt theo phương pháp của Đông Y này giúp bạn tác động đều đặn lên các huyệt vị, giúp phòng và chữa bệnh từ đầu đến chân. Hãy luyện tập thử và xem kết quả tích cực nhé! 



Một thời Hà Tuyên những năm 80 thế kỷ trước

Bài này được mình lưu về máy lâu rồi, thi thoảng lại lôi ra nhấm nháp mà những ký ức xưa, lần nào cũng vậy đều lặng lẽ ra nước mắt. Cái hồi trẻ ấy mới hào tráng làm sao ? 

Vì kém khả năng viết lách nên đành chia sẻ bài viết của một cựu chiến binh đến với bạn đọc vậy. Cũng vì lẽ chán do thấy bẩu môn LS là môn tự chọn - vậy lớp trẻ sau này xem phim Tàu để biết Sử Ta sao hả giời ??? nên mới đăng bài này ra công khai. 

Nói thêm để mọi người hiểu: Quân nhân không có sở thích riêng, chỉ có mệnh lệnh, chỉ có quân lệnh! Ra lệnh một tiếng, chỉ có tiến không có lui! Bởi vì một khi rút lui, sẽ lập tức bị xử theo quân lệnh . Cái gọi là quân lệnh như núi, chính là như vậy đó!"  Chiến tranh tàn khốc cũng là sứ mệnh phải có của người quân nhân.

TRÍCH HỒI KÝ CỦA CỰU CHIẾN BINH NAM THÁI TRẦN - TÁC GIẢ BÀI THƠ VIẾT TẠI CHIẾN TRƯỜNG VỊ XUYÊN NĂM 1986 “NÀ CÁY MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN”

(VT trong bài viết là vận tải)

Chào các bác và anh em,

Đối với những người lính đã từng trải qua cái gian khổ khốc liệt của chiến trường, hình như mỗi dòng ký ức, mỗi manh kỷ vật gợi nhớ tới chiến trường xưa luôn làm cho họ xốn xang khắc khoải.

Em còn nhớ, khoảng tháng 1/1987, đang ở Nà Cáy, em được phép ra TX Hà giang một hôm. Lúc ấy đã giữa buổi sáng, chẳng có xe cộ gì dám chạy giữa ban ngày ban mặt, vậy là em cuốc bộ.

Cứ dọc QL2, men theo những trận địa pháo của bên mình và những loạt pháo kích oanh tạc của địch, đến quá trưa thì em cũng mò được về đến km 6, về chỗ cứ cũ của đơn vị. Em định về đó lấy bộ quần áo dài đã cũ dành dụm mãi từ lâu để mặc, vì không thể diện cái quần đùi lính rộng thùng thình rách te tướp lại bẩn thỉu để ra phố. Và cũng mong kiếm xem có còn cái gì bán được như bánh xà phòng, tuýp thuốc đánh răng hay cái áo may ô thì lấy mang đi giải quyết.

Nhưng khi giở hòm ra thì quần áo đã bị mục hết, trong hòm cũng chẳng có cái gì, mấy ông ốm yếu trông cứ thì còn "yếu" hơn mình, đành phải chấp nhận đi tay không với bộ trang phuc "gợi cảm" như vậy ra TX.

Không dám đi nghênh ngang giữa ban ngày qua chỗ mấy ông vệ binh ở km 4 và dốc Mã Tim, em đành mò ra ven đường cái, chui vào bụi cây nằm chờ xem có cái xe nào đi qua thì nhảy lên bám càng. Nằm mãi, chả thấy xe cộ gì, không gian yên bình quá, em oánh luôn một giấc. Mãi gần tối nghe có tiếng xe ầm ì, em mới tỉnh giấc. Thấy một chiếc xe tải chạy từ trong ra, em vội vọt theo, bám vào đít, trèo lên thùng, nằm ẹp xuống. Hóa ra xe chở tử sỹ, trên xe có 5-6 cái xác tử sỹ đã trương phềnh đặt nằm trên mấy manh chiếu rách.

Lúc xe đi qua cổng sư bộ F313 ở km4, sợ bị lính vệ binh F phát hiện tóm lại rồi tống cổ quay trở ngược, em chọn chỗ chiếu khô khô rồi cũng nằm bừa xuống bên cạnh mấy cái xác anh em đó.

Khi xe xuống hết dốc Mã Tim, bắt đầu vào khúc cua gần chỗ Bưu điện, em lom khom ngồi dậy, đưa mắt tạm biệt đám anh em đã hy sinh, chuẩn bị vọt xuống. Thấy trên thùng xe có một đống bao cát nhỏ còn nguyên kiện, lại đang buồn thiu vì cái ba lô lộn lép kẹp của mình, chẳng nghĩ ngợi gì sâu xa, em chôm ngay một cuộn, chưa biết để làm gì nhưng cũng cứ lấy đại. Rồi em nhảy xuống đường, chui vào một lùm cây ven đường, hé mắt quan sát xem có tổ vệ binh nào đang ... đi dạo phố không để tránh.

Khi trời đã tối hẳn, vài ngọn đèn đường vàng ệch soi nhập nhòe trên phố vắng, thấy đã an toàn, em mò vào Bưu điện TX, xin gọi điện nhờ về nhà. Ở bưu điện Hà Giang ngày ấy em có quen một chị tên là Mai làm tổng đài. Biết em đi lính từ Bưu điện Hà Sơn Bình nên các anh chị ấy cũng thông cảm cho gọi nhờ mấy phút, vì mình không có tiền để ra quầy giao dịch gọi cho đàng hoàng, hơn nữa cũng đã muộn rồi, quầy giao dịch đã đóng cửa.

Tối hôm ấy, sau khi nói chuyện với bố mẹ ở nhà, thương các cụ nghèo quá, mình lại đã sắp 27 tuổi rồi mà chưa bao giờ có cái gì biếu bố mẹ và cho em gái còn bé tí cả... thế là em đã gửi luôn cái cuộn bao cát to bằng cái giò nạc kia về biếu bố mẹ nhân dịp Tết sắp đến, xuân sắp sang, để mọi người ở nhà cảm nhận được chút hơi hướng và tình cảm của thằng con đang ở nơi chiến trận dành cho quê nhà.

Chị nhân viên Bưu điện kia đã khóc nghẹn ngào khi thấy em lấy giấy báo cẩn thận, nâng niu bọc lại để không bị phát hiện, bị thu mất,... và cũng như để vun vén, gói ghém tất cả những gì mình có... để gửi về quê hương.

Em cũng thấy mặt mình cứ nhòe đi vì nước mắt cứ xộc xuống sống mũi cay xè...

Cho đến nửa năm sau, khi em đã xuất ngũ về nhà, có một hôm em đã tìm thấy bó bao cát ấy trong một cái hòm mà bố mẹ em dành để những thứ giấy tờ quan trọng và một số kỷ vật của các cụ... Và em đã lặng người đi khi thấy những lá thư của em và của em trai em (cũng là lính nhưng thuộc f 355 ở Lào Cai) gửi về đều bị nhòe nhoẹt đi, hình như là do nước mắt của mẹ... (chắc là của mẹ thôi, vì bố cứng rắn lắm)...

...Hơn 10 năm sau, năm 1998, khi Thai60 em đã trở về nhà sau bấy nhiêu năm tha hương cầu thực nơi đất khách quê người, cuộn bao cát kia vẫn còn nằm lặng lẽ trong cái hòm kỷ vật của cha mẹ từ ngày ấy...

Cho đến tận một ngày hè của năm 2018, vừa mới chiều qua thôi, khi Thai60 em lục tủ tìm cái quần đùi mới để thay cho bố, cuộn bao cát nhỏ kia vẫn nằm gọn ghẽ an nhiên trong ngăn tủ đựng huân huy chương và tài liệu giấy tờ tùy thân của bố mẹ, dù cái hòm gỗ ngày xưa đã mục nát tự thuở nào, và bố thì đã bán thân bất toại nhớ nhớ quên quên suốt mấy năm nay vì tuổi đã già và căn bệnh teo não quái ác.

Thấy cuộn bao cát đã ải , lớp vỏ bọc ngoài của nó đã mủn ra, rơi lả tả theo kẽ ngón tay, Thai60 em đã chuyển nó sang một ngăn tủ khác đựng đồ linh tinh của bố.

Sáng nay, nghe mẹ bảo "Con đừng tự tiện dịch chuyển những gì bố mẹ đã xếp riêng ra", lại vào phòng bố, mở tủ, ngó vào... Cuộn bao cát đã trở về chỗ cũ lâu nay, lại nằm an nhiên tự tại ngay bên cạnh những dấu tích cả một đời nhọc nhằn hy sinh phấn đấu của bố mẹ...

Chợt thấy đau nhói trong lòng khi nghĩ về những người mẹ, người cha trên đất nước này đã vĩnh viễn mất đi những đứa con yêu dấu nơi chiến trường xa...

Hình như, có nhiều lúc, do gánh nặng cơm áo mưu sinh, do dòng đời phù du phiêu dạt, dù đã sống qua quá nửa đời người, mình vẫn còn chưa kịp lớn khôn để thực sự biết trân trọng nâng niu những giá trị tinh thần lớn lao của kỷ vật và ký ức ngay cả của chính mình.

Chợt thấy mình còn mắc nợ nhiều lắm với mẹ, với cha, với đồng đội đã hy sinh, với cuộc đời này.

Lại đêm đêm trở trăn với những dòng ký ức, lại hỳ hục mổ cò gõ chữ, gom góp thành phong lương khô cũ mèm, mang đến với anh em...

*

Đêm cuối tuần, ngoài trời mưa rả rích. Trằn trọc mãi mà chả sao ngủ được, đành trở dậy mở máy thả mình lang thang trong thế giới thông tin, hình ảnh, âm thanh, kiến thức, tình cảm, tâm trạng, v.v. tả pí lù của trang mạng FB. Thấy chuyện vui thì ít mà chuyện buồn bực bức xúc thì nhiều, chán quá, lại mò vào góc riêng của mấy lão cựu lính cùng mặt trận Vị Xuyên Hà Giang ngày xưa. Cũng khối ông mất ngủ đang ủ dột âu sầu với bạt ngàn ký ức của một thời quá vãng. Lại xin thồ lên chốt thùng lương khô cũ mốc để các lính cùng nhau nhấm nháp cho đêm hè bớt vị đìu hiu...

Chào các bác và anh em,

Hồi trước ngày 12/7/1984, ở Nà Cáy, thỉnh thoảng lính VT bọn em được ban chỉ huy C đưa cho những bó thư từ hậu phương chuyển tới. Không phải thư nhà đâu, toàn là của các cô gái ở những trường học nào đó từ rất nhiều tỉnh thành gửi đến, địa chỉ người nhận toàn thấy ghi chung chung là "Bộ đội biên giới Vị Xuyên".

Nhận được những cánh thư ấy, lính tráng vui lắm, chuyền tay nhau đọc, ngắm từng nét chữ, luận từng câu viết để suy tưởng ra dung nhan, tính tình người gửi. Đọc đi đọc lại mãi không chán, rất nhiều chú đâm ra phải lòng người viết, vậy là đua nhau tìm giấy viết thư về.

Ngày ấy, Thai60 có một quyển sổ tay dùng để ghi nhật ký, mặc dù đã ghi suốt từ ngày nhập ngũ, nhưng cũng chưa được bao nhiêu, giấy trắng còn nhiều lắm. Vậy là các ông lính trẻ, lính già cứ xúm vào xin, không xin được thì vặt trộm, quyển sổ cứ mỏng dần, mỏng dần...

Thư lính viết để gửi về những người con gái chưa quen ấy tình cảm lắm, có nhiều khi ghé mắt đọc trộm hay được nhờ đọc lại để tư vấn, Thai60 đã phải chảy nước mắt. Năm ấy, Thai60 em đã 24 tuổi rồi, cũng đã từng được nếm trải hương vị của tình yêu đôi lứa. Nhưng những chú lính 18-20 kia, gần như họ chưa biết một tý gì cả. Vì thế, những dòng thư của họ vô tư hồn nhiên, ngây thơ trong sáng đến nao lòng. Thương lắm...

Nhiều lá thư đã được lính gửi đi, có những lá thư đã được phản hồi. Những lúc ấy, nhìn thằng cha nhận lá thư ấy sao mà phởn phơ hãnh diện thế, cứ như vừa được bố mẹ tậu cho một cô vợ xinh, một cô vợ yêu nõn nà ấy... Cả đơn vị vừa ghen, vừa mừng cho những ông lính trẻ tốt phúc ấy.

Cũng cần phải nói thêm để các bác và anh em hiểu và thông cảm, mỗi khi lên Thanh Thủy làm nhiệm vụ, lính E 14 (em không biết ở các đơn vị khác thì sao, nhưng có lẽ ở cả F313 đều thế) không bao giờ được nhận thư từ gì hết, mọi lá thư ấy đều bị quân bưu giữ lại ở dưới làng Pinh, chẳng biết khi nhiều quá thì họ sẽ làm gì với đống thư từ ấy.

Việc không cho lính nhận thư từ nói chung trong thời gian đi chiến đấu ấy được áp dụng cho tới tận tháng 2/1987 - khi Thai60 em được rút xuống cứ trước vì thương tật, sau đó hình như vẫn vậy. Vì thế, những cánh thư hiếm hoi của những cô gái chưa quen (hoặc mới quen qua thư từ đi lại) kia đã trở thành báu vật với lính tráng chúng em.

Nhưng rồi... sau ngày 12/7/1984 với chiến dịch MB84 đẫm máu, không còn cái cảnh cảm động ấy nữa, cho đến cuối cuộc chiến.

Nhớ hồi đó, và mãi cả đến những năm sau nữa, có những khi gói ghém tư trang cho những anh em bị hy sinh hoặc thương vong, có nhiều khi bọn em còn thấy những lá thư kia vẫn được cất cẩn thận trong ba lô của họ. Có mấy lần, khi thay áo quần cho tử sỹ, Thai60 đã tìm thấy những lá thư của những cô gái hậu phương ấy được bọc kỹ trong nilon, ghim trong túi áo ngực của Tử sỹ. Đôi khi có cả những lá thư do anh em viết, đựng trong những chiếc phong bì tự làm, đề địa chỉ cẩn thận rồi mà chưa kịp gửi. Thai60 em đã gom lại được một bọc, đựng trong balo của mình, cũng chưa biết sẽ xử lý thế nào, nhờ cánh lái xe mang ra TX gửi đi, hay cứ tạm giữ lại đã, thì có một hôm đã bị mấy anh sỹ quan Chính trị E thu mất.

Có một lần, khoảng giữa tháng 1/1987, sau hôm bị sức ép cối ở Ngã ba Thanh Thủy tới ộc cả máu mũi, máu mồm, Thai60 em được nghỉ ở nhà. Những ngày ấy, địch bắn pháo nhiều lắm do đang có giao tranh BB, lính tráng đơn vị phải lên đường hết, kể cả ban ngày.

Hôm ấy, buồn tình quá, Thai60 em lần mò xuống cái hầm gần chỗ bãi để tử sỹ, chui vào đó với mấy chú lính bị thương nhẹ đang "an dưỡng tại đơn vị". Trời mùa Đông rét mướt, ngoài trời mưa đổ dầm dề, nằm suông trong hầm, buồn chán quá, lại nổi cơn thèm thuốc lào, Thai60 hô mấy chú em lật mấy tấm phản lên, quét gom lại đám vụn bên dưới, hy vọng tóm được những vụn thuốc lào thuốc lá lọt qua khe ván xuống, từ cái thuở còn sung túc nào đó. May chăng...

May thật đấy. Không những chỉ có sợi thuốc lào, mà bọn em còn tóm được mấy điếu thuốc lá ở dạng... di chỉ di vật. Khoái quá, phát huy thành tích, khuếch trương chiến quả, các chú lính lật lên cho bằng hết ván, và lại mừng hú lên khi moi ra thêm được khối... của.

Thai60 em cũng sốt sắng tham gia vào trò soi đóm vạch khe ấy, cũng khoái tỉnh người lên khi kiếm được... hàng. Và khoái nhất, ấy là khi Thai60 em tìm thấy một món vô cùng quý giá nằm tít ở kẽ ván cuối cùng. Đó là một bức thư của một em gái nào đó, mở đầu thư ghi là: Thường Tín, ngày 15-6-1984... Dù lá thư đã được bọc trong một mảnh nilon, nhưng chắc do không được hàn kín chống ẩm, nên giấy đã bị mủn, chữ viết bằng mực xanh đã nhòe gần hết, chỉ còn đọc được loáng thoáng.

Mấy anh em xúm vào đọc lá thư cũ với những dòng chữ mờ nhòa còn sót lại ấy, hết vui sướng bàn tán nói cười ồn ĩ rồi lại lặng đi. Anh em thằng nào mắt cũng đỏ hoe, nhòe nước, nhất là khi nhìn vào mắt nhau...

Thai60 cũng vui buồn như anh em, nhưng trong lòng còn buồn hơn nữa khi nhớ lại cội nguồn của bức thư cũ ấy. Ôi... mới thế mà đã gần 3 năm trời, từ những ngày đầu vào trận, với trận đánh ngày 12/7 năm ấy... Mới chỉ gần 3 năm thôi, mà những đồng đội ngày ấy, với những gương mặt ngây thơ hồn nhiên vô tư trong sáng, đã hao hụt đi đâu hết rồi. Đơn vị chỉ còn lại gần hai chục anh em ngày ấy nữa thôi, và mặt mũi anh nào cũng sắt đanh lại không còn phởn phơ như ngày xưa nữa.

Đến cái ngày hôm ấy, quyển nhật ký ngày nào của em không còn nữa, nó đã bị thui cháy trong một ngày đầu xuân năm 1986, khi căn hầm của A em bị pháo bắn trúng, may rằng đấy là một quả pháo khoan, hầm bị vỡ tung, nhưng mấy anh em trong hầm chỉ bị thương nặng (Thực ra chúng em cũng không biết sau này khi được đưa sang hang Phẫu, chuyển về tuyến sau, họ có bị sao không).

Vâng, quyển nhật ký đã cháy, những chú lính trẻ ngày xưa nay đã thành lính cũ, Thai60 em đã gần 27 tuổi, nhưng vẫn ôm mặt khóc nghẹn ngào, khi ngắm nhìn những dòng chữ mềm mại ít ỏi còn sót lại trong trang thư cũ của một người con gái hậu phương. Vâng, chúng em đã khóc vì cảm động, vì nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ đồng đội đã xa vắng đấy các bác ạ. Dạo ấy đã gần tới ngày Tết âm lịch, tiết trời đã cuối đông, sắp sang mùa xuân, trời Vị Xuyên vẫn mưa dầm dề và tiếng pháo, tiếng súng vẫn ầm ĩ rền vang trên những vách đá, sườn đồi khắp mảnh đất nơi đầu nguồn sông Lô tả tơi áo lính...

Chiều nay, trời Hà Nội đổ mưa dầm dề, tiế́ng sấm vọng ì ầm trên bầu trời mây xám, đọc câu thơ viết giở của những anh lính ngày xưa, thấy lòng mình bâng khuâng trống trải, chợt nhớ quá, Vị Xuyên ơi...

 *

Đã lại cuối tháng Bảy rồi... Đêm đã khuya, khí trời lành lạnh, hình như mùa Thu đã đến... Lại tải về đây phong lương khô cũ mốc thếch để anh em xơi tạm cho đỡ đói lòng:

Chào các bác và anh em,

Những ngày đầu tháng 7/1984, ở Vị Xuyên thời tiết rất xấu. Gần như ngày nào những cơn mưa dầm dề cũng giăng lên một bức màn nước trên khắp núi đồi. Thỉnh thoảng, cũng có những lúc trời hửng lên, mặt trời ló ra khỏi những đám mây xám đen trĩu nặng, soi ánh vàng rạng rỡ hiếm hoi xuống mặt đất lầy lội ướt át. Những khi ấy, chiến trường lộ ra sự ngổn ngang tơi tả ở những chỗ bị pháo bắn. Thế nhưng, ngay bên cạnh đấy, cây cỏ vẫn lên xanh ngăn ngắt, mơn mởn. Có những cành cây bị mảnh pháo chém, ngã xệ xuống, nhưng vẫn bám vào thân. Ở những vết chém vỡ toác ấy, nhựa cây chảy đẫm đìa, có chỗ thì còn nhỏ giọt, có chỗ thì đã se lại. Thật cảm động khi trên những cành cây bị thương tích ấy, vẫn có những chồi búp non xanh e ấp mọc ra. Trên cái cành chúi xuống mặt đất, những mầm lá, nụ hoa vẫn vươn lên, hứng những giọt mưa và đón ánh mặt trời.

Trong những ngày mưa gió ấy, mỗi khi đi tải hàng hay cáng thương vào ban ngày, gặp lúc nắng hửng lên, dù rất lo những cơn gió bất ngờ nổi lên xua bạt đám sương mù lên cao, phơi đội hình ra trên sườn đồi trống trải, nhưng lính tráng bọn em vẫn cứ có cái cảm giác như mình được bung ra khỏi sự tù túng chết chóc. Nhìn những cành cây gãy gục vẫn đang kết hoa đâm nụ, cảm thấy cuộc đời này sao mà đẹp thế, đáng yêu, đáng sống vô ngần.

Những ngày ấy, nếu ai đã từng đi trên con đường nối từ đỉnh dốc 673 xuống ngã ba Thanh Thủy, lại vào lúc trời hửng nắng, hẳn sẽ nhìn thấy ở đoạn đường gần ngay chỗ bắt đầu đi xuống, có một cánh rừng nhỏ toàn loại cây lá to như chiếc mũ cối, chẳng biết tên là gì. Khu rừng ấy bị pháo bắn rất nhiều, thân cây gãy đổ ngổn ngang,  từ những khúc cây gẫy gục tan nát ấy, vẫn có những cái chồi non, cành con xanh mướt mọc ra vươn thẳng lên ngạo nghễ. Đi tiếp xuống khoảng 2-300 m nữa, khi con đường bắt đầu có những đoạn dốc ngược trơn tuồn tuột, nếu nhìn lên vách núi trên cao, cách khoảng mấy chục mét thôi, sẽ thấy những thân cây dong dỏng, trên cây phủ đầy những chùm hoa cánh nhỏ, màu vàng rực rỡ. Có những cây bị pháo cháy xém, nhưng hoa vẫn rực lên từ những cành cây sứt sẹo. Rồi trên cao nữa, hay phía dưới sườn núi, có lác đác cô đơn những cây gạo thân sứt sẹo, vỡ toác vì những vết mảnh pháo, nhưng trên thân cây hay những cành bị thương ấy vẫn có những nụ hoa cháy đỏ lung linh dưới ánh mặt trời. Những khóm cành treo vất vưởng trên thân cây, có khi chỉ một cơn gió to hay một trận mưa lớn cũng có thể bắt chúng đứt lìa, rụng xuống, vậy mà vẫn vô tư đơm hoa thắp sáng cả một triền rừng...

Có rất nhiều lần, khi đang hỳ hục cáng thương trèo ngược dốc, lính VT gặp những đoàn quân đang lao từ trên cao xuống. Nếu là ban ngày, lại gặp lúc hửng nắng, dù mệt đến đứt hơi, bao giờ bọn em cũng cố nhắc anh em phải để ý đến sương mù và gió, vì ở những cao điểm phía bên kia thung lũng, bọn địch vẫn thường xuyên dõi sang,  cần một thoáng quang quẻ, nhìn thấy lính mình nhấp nhô, chúng sẽ bắn sang hàng chục, hàng trăm quả pháo bắn thẳng. Nhìn những người lính trẻ đang vào trận, quần áo còn xanh lét, tóc cắt cao, mũ mão đầy đủ, trên vành mũ còn gắn những tờ giấy cắt đuôi nheo ghi những dòng khẩu hiệu khí thế, lòng bọn em lại thấy xốn xang vui lo lẫn lộn. Vui vì thấy mặt trận có thêm anh em chi viện, mừng vì thấy bên mình sắp mở chiến dịch lớn, sắp chấm dứt những ngày khốn khổ khốn nạn đau thương... Nhưng lo lắm. Lo vì thấy anh em mình còn non trẻ quá, hồn nhiên quá, mặt mũi còn sáng láng vô tư quá...

Dẫu thương và lo cho anh em lắm, nhưng mỗi khi được họ đưa tay kéo đỡ lên, khi nắm chặt bàn tay đồng đội, cảm nhận thấy hơi nóng hừng hực mạnh mẽ từ họ lan tỏa sang, lính VT chúng em như được tiếp thêm luồng sinh khí mới vô cùng ấm áp. Rồi thì quên cả mệt, râm ran chúc nhau: Các quê mạnh khỏe nhá, đánh giỏi vào nhá, cẩn thận nhá, lúc nào thắng trận quay ra nhớ ghé qua Nà Cáy nhá...

Gặp nhiều nhất là vào ban đêm, nhất là những hôm trời mưa tầm tã. Những đoàn quân trùm kín áo mưa lúp xúp chạy gằn xuống dốc và những người lính VT không mũ áo che mưa, mái tóc dài xõa xượi bết nước trên những bờ vai trần, cái quần đùi rách lướp tướp, đôi giầy cao cổ sũng nước ọp ẹp gặp nhau, nhường đường cho nhau đi trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Vẫn có những câu chào, câu chúc nhau hào hển: Đi nhé, khỏe nhé, chiến thắng nhé... Rồi những bàn tay nắm vội lấy nhau, những bàn tay vỗ vào vai nhau, những bàn tay dúi vội cho nhau gói thuốc lào, bao thuốc lá... Rồi những câu tìm hỏi đồng hương, hẹn ngày gặp lại ... râm ran, rạo rực suốt hàng quân.

Khi những đoàn quân ấy đã đi qua, khi người cuối cùng đã khuất dần ở phía dưới, cánh VT bọn em lại hỳ hục vật vã leo lên... leo lên. Lòng vẫn thấy cả vui buồn, lo lắng, tin tưởng, hy vọng lẫn lộn.

Có những đêm, khi nghe thấy tiếng pháo nổ ầm ầm, mảnh đạn réo eo éo, ánh chớp nhoáng nhoàng từ phía dưới vọng lên, lại thương và lo đến quắt ruột chẳng biết đoàn quân khi nãy có bị dính đạn không?

Có những đêm, khi đưa được thương binh về tới Nà Cáy, bọn em lại nhận lệnh ngược 673 để đón thương binh vừa bị thương trên đoạn đường dốc ấy, vừa mệt, vừa lo ngay ngáy cho cả chính mình khi thấy ánh chớp lửa nhằng nhịt hắt lên bầu trời.

Dạo ấy đang là mùa trăng, càng đến giữa tháng trăng càng sáng. Vào những đêm mưa, ánh trăng hình như khuếch tán vào những vầng mây trên bầu trời, dưới thung lũng, không gian cũng như hơi sá̀ng ra. Có những đêm hay khoảnh khắc trời tạnh, gió thổi bạt sương mù lên cao hay qua triền núi bên kia, ánh trăng rọi xuống xanh ngăn ngắt, cảnh vật như lại bừng lên. Núi đồi mướt mát lấp lánh dưới ánh trăng, những vách đá xác xơ vì đạn pháo ngời lên dưới ánh trăng, ở dưới xa xa kia, thấp thoáng những vầng sáng lấp lánh, lấp lánh...

Sông Lô đấy...

Dòng sông mùa mưa lũ đỏ ngầu màu đất đỏ, phù sa, nước trôi ào ạt về xuôi, sóng vỗ ì oạp bãi bờ, dưới ánh trăng xanh như lại trở nên huyền ảo, êm đềm. Từ mãi trên đỉnh núi, khi thì ở bên Cóc Nghè, khi thì ở trên đỉnh 673, 812, có đôi chỗ nhìn thấy một vùng lấp lánh như phủ bạc dưới ánh trăng khuya xanh ngăn ngắt...

Sông Lô đấy...

Sông đang chảy về phía quê mình, nơi đồng bãi, xóm làng, phố thị thân yêu phía hạ du...

Gác đòn cáng lên bờ hào, ngóng nhìn xuống phía dòng Lô, hướng mắt dõi về phương trời phía Nam, lũ lính chúng em thả hồn về phía quê nhà...

Nhưng cũng chả được lâu đâu, bọn em lại bị lôi trở về với thực tại. Ở phía bên kia cái vùng sáng lấp lánh ấy, phía trên cao, những vách đá của dãy núi đá răng cưa bên Phong Quang cũng phơi ra cái màu trắng phếch xác xơ vì đạn pháo quân thù, khi chúng bắn hủy diệt những trận địa pháo tầm xa của lữ 168 và những đơn vị gì gì nữa bên ấy.

Rồi đến ngày chiến dịch mở ra, kết thúc…

Rồi những đêm dài cùng lính trinh sát mò lên trận địa kiếm tìm khuân vác anh em...

Rồi những đêm dài vác gỗ, tải mìn cùng lính Công binh mò lên các chốt điểm để xây hầm hào, lập phòng tuyến...

Những đêm dài khốn khổ gian nan ấy, chỉ mong cho vầng trăng cuối tháng đừng sáng bừng lên, chỉ mong cho trời hãy mưa thật to, nổi bão giông sấm sét cho thật nhiều... để cho bao nhiêu máu me mồ hôi nước mắt theo những giọt nước mưa trời gom hết về suối Thanh Thủy, hòa xuống dòng Lô trôi xuôi về bến bãi quê nhà...

Những ngày cuối cùng của tháng Bảy, những ngày đầu tiên của Tháng Tám năm 1984, trên Vị Xuyên tiết trời đã sang thu với những ngày nắng chói chang và những đêm mưa dầm dề, day dứt. Những đồng đội ngày nào mới vào nay đã vắng bóng...

Người thì đã rút về phía sau để củng cố, chuẩn bị cho những trận đánh mới...

Người thì thân xác vẫn còn nằm đâu đó với gió sương mưa lạnh, dưới ánh sao trời xanh ngăn ngắt bên những triền đồi vách núi khe đá trên kia...

Những người còn ở lại thì trần lưng ra với những trận chiến đấu mới...

Lại có những ngày mưa gió xập xùi, những ngày nắng bừng lên rạng rỡ. Cảnh vật chiến trường đã xơ xác lại càng thêm xác xơ. Đi trên con đường từ đỉnh 673 xuống, nhìn sang bên đường, nhìn qua bên kia thung lũng, tất cả như đã bị quăng quật vò xé tơi bời, đốt cháy nham nhở...

Nhưng ở trên những sườn núi cao, những triền đồi thấp, dưới những khe sâu, vẫn ngời xanh những chồi non mới nhú, vẫn thấp thoáng rực vàng, chói đỏ muôn chùm hoa trên những thân cành thương tích xác xơ...

Không phải là mùa trăng, sông Lô ở mãi dưới xa kia không còn có ánh trăng ngắt xanh để ngời lên lấp lánh, nhưng hình như tiếng sóng gầm thét của nó vẫn ào ạt vọng lên những đỉnh núi trên cao...

Ở dưới cái vùng tối thẫm sâu thăm thẳm kia, vẫn là dòng Lô đấy...

Những con sóng trên sông vẫn đang ào ạt vỗ bờ, những con nước đỏ bầm trên sông vẫn ì ầm bươn bải chở nặng phú sa đất núi đẫm máu, mồ hôi và nước mắt về xuôi, đắp bồi cho bờ bãi quê nhà phía hạ du.

Dưới bầu trời vàng ệch ánh hỏa châu, chẳng quản gió mưa pháo đạn quăng quật dập vùi, những tấm lưng trần với đôi giầy rách ì ọp, chiếc quần đùi xơ tướp phất phơ, manh áo rách nát bung hết hai vai và mái tóc dài cợp bết xuống gáy vẫn lầm lũi lăn lộn trên những sườn đồi, vách đá ngổn ngang xơ xác.

Rồi lại có những mùa trăng mới ngắt xanh. Rồi lại có những ngày bừng sáng với những chùm hoa ngời sắc đỏ, vàng, những chồi cây mướt mát vươn thẳng lên cao dưới ánh mặt trời rạng rỡ...

Và vẫn như vang vọng mãi khắp nơi trên mọi góc chiến trường: Chiến thắng nhé... QUÊ ƠI..."

Nguồn gốc, cách gọi một vài tên ngõ phố Hà Nội

 

Tôi đã đăng nhiều bài về Hà Nội nhưng về tên và nguồn gốc của các con phố hơi ít thông tin, nên rất áy náy. Thôi thì, tìm được chút nào hay chút ấy vậy, về sau có trùng lặp mong bạn đọc thông cảm.

Phố Hàng Ngang.


Một số độc giả đã suy luận phố này “chuyên bán rượu ngang” hoặc “bán ghế ngang”.

Thực ra, theo Từ điển Hà Nội địa danh của tác giả Bùi Thiết, do ở hai đầu phố trước đây có các bức tường chắn ngang, ở giữa là cổng gỗ, ban ngày mở ra, ban đêm đóng lại nên gọi là Hàng Ngang. Đây vốn là nơi buôn bán của người Hoa gốc Quảng Đông, họ làm cổng cho cả phố để đảm bảo an ninh. Thời Pháp thuộc, phố có tên là rue des Cantonnais (phố của người Quảng Đông).

Một bức tranh từ thời Pháp còn lưu lại hình ảnh bức tường và cánh cổng ngang phố này, với chú thích rõ ràng “Porte de la rue des Cantonnais” (Cổng phố của người Quảng Đông). Trước đây, phố này là nơi Hoa kiều bán các mặt hàng chè, thuốc, vải vóc.

Phố Đình Ngang

Cùng với tên phố Hàng Ngang, ở cửa Nam thành cổ Hà Nội còn có phố Đình Ngang, với lý giải: Vào thời Lê, phố này có cái đình chắn ngang giữa đường, dân gian gọi là “Hoành Đình”. Sau này đình bị phá dỡ, nhiều người cho rằng, dấu tích của đình chính là bãi đất rộng ở đầu phố, hiện dùng làm bãi đỗ xe.

 Phố Hàng Đào


Phố Hàng Đào, nối liền phố Hàng Ngang xuống Hồ Hoàn Kiếm, là nơi chuyên bán lụa là vóc nhiễu của các thương nhân người Việt. Phố có tên như vậy, vì từ thời Lê, đây là khu vực chuyên nghề nhuộm màu cho vải, trong đó chủ yếu là nhuộm điều (tức màu hồng đào).

Phố Hàng Gai

Có thể nhiều người chưa biết, Phố Hàng Gai trước đây bán loại gai gì? Đó là các loại dây tước từ vỏ cây gai, cây đay để đan võng, bện thừng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc, sau này, các cửa hàng bán gai đã chuyển về phố Bát Đàn.

Phố Tố Tịch

Từ phố Hàng Gai đi ra Hàng Quạt, có phố Tố Tịch. Nhiều người nhầm tưởng phố đặt theo tên người. Thực ra Tố Tịch, chữ Hán nghĩa là chiếu trắng. Có lẽ, tên phố chỉ mặt hàng người dân ở đây buôn bán từ thời xưa.

Ngõ Hài Tượng

Ở ngang phố Tạ Hiện, có ngõ Hài Tượng. Nghĩa chữ Hán thì hài là giày, tượng là thợ, Hài Tượng là phố của những người thợ làm giày. Đây là nơi tập trung của những người thợ làm nghề thuộc da, đóng giày, khâu hài gốc từ làng Chắm, xã Phong Lâm, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương di cư lên. Ngày xưa ngõ này thông sang phố Hàng Giầy, cũng là phố chung một nghề của những người thợ làng Chắm.

Phố Phủ Doãn

Một số tên phố cho biết về bộ máy hành chính của kinh thành Thăng Long xưa, như các phố Phủ Doãn, Ngõ Huyện, Thọ Xương.

Thời Lê, đứng đầu phủ Phụng Thiên là viên quan Phủ Doãn (tương đương UBND thành phố Hà Nội bây giờ) đặt trụ sở ở phố Phủ Doãn ngày nay.

Phủ Phụng Thiên gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương. Huyện Vĩnh Xương đến thời Nguyễn đổi tên thành huyện Thọ Xương, bao gồm phần đất của quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và một phần quận Đống Đa. Khu vực đặt sở lỵ của huyện Thọ Xương sau này có tên là ngõ Thọ Xương. Con ngõ cạnh đó có tên Ngõ Huyện cùng lý do. Trước đây, cả hai ngõ này đều có tên là Ngõ Huyện.

Phố Chân Cầm

Từ phố Phủ Doãn sang phố Nhà Chung có phố Chân Cầm. Tên phố này ghép từ tên hai thôn ngày xưa là Chân Tiên và Minh Cầm.

Phố Đường Thành

Dọc phố Phủ Doãn ngược lên phía Bắc là phố Đường Thành. Đây là con đường nằm bên tường thành Hà Nội xưa. Theo “Từ điển đường phố Hà Nội” của tác giả Giang Quân, do phố chạy qua cửa Chính Đông thành cổ nên trước đây có tên là phố Cửa Thành. Thời Pháp thuộc gọi phố này là Rue de la Citadelle (phố Thành). Sau Cách mạng Tháng Tám, phố chính thức được đặt tên là Phố Đường Thành.

Ngõ Tạm Thương

Trên phố Đường Thành có ngõ Tạm Thương. Tên ngõ này có khoảng đầu thế kỷ 19, dưới thời nhà Nguyễn. Ở đây có dựng một cái kho để chứa tạm thóc thuế do dân nộp trước khi chuyển vào kho chính, gọi là kho Trạm Thương, sau nhân dân thấy thóc chứa ở đây mới là tạm thời nên gọi luôn là kho Tạm Thương rồi trở thành tên ngõ từ lúc nào không rõ.

Ngõ Trạm

Từ phố Đường Thành (cạnh chợ Hàng Da) đến phố Phùng Hưng có Ngõ Trạm. Đây là nơi có một trạm dịch, chuyên chuyển phát công văn từ trong thành Hà Nội đi các tỉnh.

Phố Cổng Đục

Từ phố Hàng Mã thông sang Hàng Vải có phố Cổng Đục do đoạn tường thành ở đây bị đục ra làm cổng để đi lại.

Phố Lò Rèn.


 Khu vực này, đầu thế kỷ XIX, là đất thôn Tân Khai, tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương; xưa xa hơn, vào thế kỷ XVI, là phần đất mở rộng của khu phố cổ ở Thăng Long thời Lê. Đình Lò Rèn do dân làng làm nghề thợ rèn lập nên để thờ Tổ nghề rèn sắt.

Phố Hàng Rươi

Hà Nội còn có phố Hàng Rươi, nhiều người băn khoăn: Rươi mỗi năm chỉ có một mùa, là hai tháng 9, 10 cuối mùa thu, vậy thời gian còn lại trong năm, các cửa hàng ở phố này bán gì? Điều này được giải thích là: Những ngày còn lại trong năm, các nhà buôn trên phố hay bán mắm rươi.

27/04/2022

Bệnh Thổ tả

 


Ngày xửa, bệnh thổ tả rất nan giải, đi ăn chuối ngó là khó tránh. Từ khi anh Tây lông nghĩ ra món Trụ sinh thì đã cơ bản xóa bỏ. Chắc giờ chỉ còn lay lắt bên lục địa Đen mà thôi (mấy anh chị này rất giỏi và khỏe về khoản music, spot and sex nhưng lại kém về kinh tế), mà khu giải trí lại cạnh nơi vệ sinh.

Ở xứ Đông Lào này bệnh thổ tả chỉ còn ít ở nơi mạn bể (ven biển) nên dân ta nghèo, nhưng chớ đú theo mode, xơi tu hài, bào ngư xong, hứng quá lại đi dọn vệ sinh toa lét là dính, vì nó tồn tại trong phân nhé.

Khà khà.

Dao đa năng của quân đội Thụy Sỹ qua các thời kỳ

   Dao đa năng là ý tưởng đơn giản để giúp người dùng thực hiện được rất nhiều việc, các lưỡi được gấp gọn khít với nhau trong một hình khối nhỏ.
   Dao đa năng của quân đội Thụy Sỹ lần đầu tiên được phát triển bởi một công ty Đức vào năm 1891. Nó được trang bị kèm theo một vài công cụ như: dao, đồ khui đồ hộp, lưỡi cưa, thậm chí là một chiếc kính lúp... Nó là sự kết hợp của vẻ đẹp và các thiết kế, các chi tiết nhỏ nhưng nhiều, có thể mở và đóng một cách rất đơn giản.

   Tuy nhiên, quân đội Thụy Sỹ không phải là những người đầu tiên sử dụng thiết bị đa năng này mà là từ thời đế chế La Mã, thời đại của chiến tranh. Các chiến binh La Mã phải hành quân trên biển trong thời gian dài, họ đã kết hợp giữa dao găm và cán thành một chiếc thìa dùng trong bữa ăn, dao găm dùng để cắt thịt. Từ đó quân đội đã áp dụng phát kiến này cho các chiến binh, giúp họ không cần phải mang theo nhiều dụng cụ cồng kềnh trong quá trình hành quân.

   Ngày nay với khoa học công nghệ ngày càng phát triển, các dụng cụ trong dao đa năng cũng thay đổi để phù hợp với cuộc sống thực tại. Dưới đây là một hình ảnh qua các thời kỳ của dụng cụ đa năng nổi tiếng này:



Được làm từ bạc và sắt đây là con dao "díp" đầu tiên do đế chế La Mã sản xuất.


Một thiết kế khác, đơn giản của quân đội La Mã. Phần lưỡi dao đã bị thất lạc.


Một thiết kế vũ khí kết hợp đao và súng của Đức vào thế kỷ 16. Trên lưỡi dao có khắc lịch.


Dao đăng năng xuất hiện trong một triển lãm các vật dụng của cố tổng thống Mỹ Thomas Jefferson




Một trong những con dao Modell 1890 được quân đội Thụy Sỹ đặt một công ty ở Đức sản xuất năm 1890, bao gồm một lưỡi dao sắc, dao khoét, mở lon và tuốc nơ vít.


Năm 1926, tờ Boy's Life giới thiệu con dao nhiều công dụng nhất thời đó với 75 công cụ.


Thiết kế của mẫu cơ bản năm 1968 với 15 công cụ.


Tờ New Yorker giới thiệu các mẫu dao đa năng quân đội Thụy Sỹ qua các thời kì, với mốc năm khai sinh ra dụng cụ nổi tiếng này là 1856.


Bóc tách các thiết kế một sản phẩm của Victorinox năm 2008


Sản phẩm dao Giant Wenger, có lẽ thích hợp với các nhà sưu tập hơn là để sử dụng với 87 tính năng, được bán với giá 2.149,95 USD.


Thiết kế của năm 2004 với USB 64MB và đèn LED.
 



Tại Hội chợ hàng tiêu dùng điện tử (CES) mới đây, Victorinox đã giới thiệu mẫu dao đa năng mới với thẻ nhớ có dụng lượng lưu trữ lên đến 1TB.