04/05/2022

Phương pháp dưỡng Thận đơn giản

 

Đông y cho rằng thận là gốc rễ của tiên thiên, trong hết thảy các phương pháp dưỡng sinh, dưỡng thận là một khâu rất trọng yếu.

Chức năng sinh lý chủ yếu của thận là: chủ tàng tinh, chủ thủy, chủ nạp khí. Bởi vì thận tàng tinh tiên thiên, chủ sinh sản, là gốc rễ sinh mệnh thân thể con người, cho nên gọi thận là “gốc rễ của tiên thiên”. Thận tinh hóa thận khí, thận khí phân ra âm dương, thận âm và thận dương có thể hỗ trợ, thúc đẩy, cân bằng âm dương đối với các tạng phủ trong toàn cơ thể, cho nên thận còn được gọi là “gốc âm dương của ngũ tạng”. Thận tàng tinh, chủ giấu kín, còn được gọi là gốc phong tàng.

Thận trong cơ thể hợp cốt, sinh tủy, thông não, biểu hiện ra ở tóc, khai khiếu ra ở tai, nhị âm (tiền âm: nơi bài tiết nước tiểu, hậu âm: nơi đại tiện), và dịch nước bọt. Kinh Túc Thiếu Âm Thận với kinh Túc Thái Dương Bàng Quang thúc đẩy lẫn nhau thuộc về Thận và Bàng quang, có mối liên hệ biểu – lý. Thận thuộc hành Thủy trong Ngũ hành, thuộc âm trong âm dương, tương ứng với mùa đông trong tự nhiên.

Dưới đây mình xin giới thiệu 4 phương pháp dưỡng thận đơn giản mà hiệu quả để các bạn tham khảo.

1. Nuốt nước bọt

Từ xưa đến nay nước bọt được coi là “kim tân ngọc dịch”, thận sinh dịch thành nước bọt, nuốt nước bọt có thể bổ dưỡng thận tinh.

Trương Cảnh Nhạc thời nhà Minh cho rằng: “Nuốt khí và nước bọt, gọi là nước Thiên trì, tư tinh và khí huyết, làm sạch nội tạng, sinh tưới nguyên hải, một là nước Ly cung, một là Ngọc trì, một là nước Thần, không được nhổ đi, mà có thể mồi để bổ sung tinh khí, bổ huyết, có thể ích khí cho Nguyên Hải”.

Lý Thời Trân thời nhà Minh viết rằng: “Nước bọt chính là tinh khí của con người biến thành. Con người có thể mỗi buổi sáng súc miệng đánh răng, lấy nước bọt rửa mắt, và thường dùng lưỡi liếm móng ngón tay cái, lau mắt, lâu ngày làm cho mắt sáng không bị mờ, còn có thể làm tiêu vảy mắt”.

Vào sáng sớm dậy ngồi ngay ngắn trên giường, tiếp tục dùng “lưỡi đặt lên hàm trên” trong vài phút, đến khi trong miệng đầy nước bọt, làm động tác súc miệng, rồi chầm chậm nuốt nước bọt xuống.

Khi ăn bất cứ cái gì thì nhớ nhai kỹ nuốt chậm, một miếng thức ăn ở trong miệng phải nhai kỹ ít nhất 30 lần trở lên mới nuốt xuống, như vậy có thể trợ giúp tiêu hóa, bổ dưỡng thận tinh.


2. Phương pháp hít thở bằng bụng

Thận chủ nạp khí, là chỉ thận hấp thu thâu nạp không khí sạch tự nhiên do phổi hít vào, duy trì độ sâu của hơi thở và ngăn chặn quá trình thở hời hợt. Xét theo đường đi từ Kinh Túc Thiếu Âm Thận, đi thẳng một đường, từ thận ngược lên, xuyên qua gan và cơ hoành, đi vào phổi, xuôi theo cổ họng, đến hai bên lưỡi. Vậy nên, thông qua phương pháp hít thở bằng bụng, có thể làm cho khí phổi từ trên xuống dưới đến thận để bổ dưỡng thận khí. Điều này cũng phù hợp với khái niệm phổi kim sinh thận thủy trong ngũ hành.

Trình tự thao tác của phương pháp hít thở bằng bụng như sau:

Hít thở phải sâu dài mà từ từ.

Dùng mũi hít khí vào, dùng miệng thở khí ra.

Mỗi lần hít thở trong khoảng 15 giây. Tức là hít vào một hơi thật dài (căng bụng lên) khoảng 3 – 5 giây, giữ nín thở 1 giây; sau đó thở ra chầm chậm (xẹp bụng xuống)  khoảng 3 – 5 giây, giữ nín thở 1 giây.

Mỗi lần làm 5 – 15 phút, có thể làm trong 30 phút là tốt nhất.

Người khỏe mạnh, có thể kéo dài thời gian nín thở, tiết tấu hít thở cố gắng hết sức càng chậm càng sâu. Người có sức khỏe kém, có thể không nín thở, nhưng phải hít khí vào đủ, khi thở ra phải hết triệt để. Mỗi ngày luyện tập 1 – 2 lần. Trong quá trình hít thở nếu trong miệng có nước bọt tràn ra (tức là kim tân ngọc dịch), có thể nuốt xuống từ từ, để bổ thận tinh (nước bọt là dịch thận).

3. Xoa huyệt Dũng Tuyền

Trong cuốn “Thọ Thân Dưỡng Lão Tân Thư” có ghi lại phương pháp xoa huyệt Dũng Tuyền và nghiệm chứng công hiệu của nó như sau:

Huyệt ở phía trên lòng bàn chân, thấp khí đều thâm nhập vào từ đây. Ngày đêm, thường để hai bàn chân trần, dùng một tay nắm ngón chân, một tay xoa, xoa một lúc lâu, cảm thấy lòng bàn chân nóng, thì cầm ngón chân hơi chuyển động, mệt mỏi thì tạm thời nghỉ ngơi. Hoặc nhờ người khác xoa cũng được, nhưng không tốt bằng tự bản thân xoa”.

Huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân, ở chỗ lõm sâu nhất khi co bàn chân, cuộn ngón chân lại. (Còn một cách khác để xác định huyệt Dũng Tuyền là, đưa bàn chân ra phía trước, chỗ lõm xuống ở lòng bàn chân, nơi 1/3 đường nối liền từ giữa kẻ chân ngón thứ hai và ngón thứ ba với điểm cuối gót chân).


4. Xoa huyệt Thận Du

Huyệt Thận Du nằm ở khu xương sống, dưới chỗ gồ lên của xương sống thắt lưng thứ hai, cách đường chính giữa phía sau lưng 1.5 tấc. (Còn một cách khác xác định vị trí huyệt: ở mặt sau thắt lưng, vị trí nằm hai bên cách huyệt Mệnh Môn sau rốn độ rộng hai ngón tay).

Huyệt Thận Du chủ trị bộ phận tai, các chứng bệnh tạng thận; thường dùng trị bệnh ù tai, điếc tai; lưng đau, chân lạnh, tiểu són, tiểu dắt, di tinh, liệt dương, tiết sớm; kinh nguyệt không đều, bệnh khí hư, hiếm muộn.

Cách xoa huyệt Thận Du: Lòng hai bàn tay đặt tại hai huyệt Thận Du ở phần eo lưng, xoa bóp trên dưới 36 lần, một ngày có thể thực hiện nhiều lần.



03/05/2022

Thơ Hồ Xuân Hương được họa sỹ Bùi Xuân Phái vẽ minh họa

(Trẻ chưa nhớn và các cụ chớ nhòm kẻo khổ nhé)    

   Những ý thơ gợi tình của nữ sỹ Hồ Xuân Hương được khắc họa sinh động qua nét bút phóng khoáng của cố danh hoạ Việt Nam Bùi Xuân Phái - bộ tranh được họa sỹ thực hiện từ năm 1982 đến 1986. 

Bộ tranh này hiện do người con trai của ông là họa sỹ Bùi Thanh Phương lưu giữ. 

Gầy đây, nhiều tác phẩm trong bộ tranh đã được giới thiệu trên mạng. Đây là một số trong những bức tranh đó.

Tục hay Thanh là do người cả - Vì đây là 2 nghệ sỹ lớn, có Danh của Việt Nam nên mới dám đem ra giới thiệu - chứ cũng chả dám có ý truyền bá nội dung xấu gì đó đâu ạ. 

Nếu thấy Tục thì cũng xin lượng thứ mà thôi.

TuanLong

Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu...
(Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hương).
Lắt lẻo cành thông cơn gió thổi
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
(Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hương).
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay
(Quả mít - Hồ Xuân Hương).
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn...
(Tự tình - Hồ Xuân Hương).
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
(Tự tình - Hồ Xuân Hương).
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
(Tranh hai Tố nữ - Hồ Xuân Hương).
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm...
(Hang cắc cớ - Hồ Xuân Hương).
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Ṿây mà chút tẻo tèo teo
Thuyền cừ cương muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn leo
(Kiếp Tu Hành - Hồ Xuân Hương).
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông
Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng...
(Giếng nước - Hồ Xuân Hương).
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông...
(Giếng nước - Hồ Xuân Hương).
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá giếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Đố ai dám thả nạ rồng rồng
(Giếng nước - Hồ Xuân Hương).
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long...
(Thiếu nữ ngủ ngày - Hồ Xuân Hương).
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông..
.
(Thiếu nữ ngủ ngày - Hồ Xuân Hương).
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong
(Thiếu nữ ngủ ngày - Hồ Xuân Hương).
Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay...
(Vịnh cái quạt (1) - Hồ Xuân Hương).
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này
(Vịnh cái quạt (1) - Hồ Xuân Hương).
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa...
(Vịnh cái quạt (2) - Hồ Xuân Hương).
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa...
(Vịnh cái quạt (2) - Hồ Xuân Hương).
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
(Vịnh cái quạt (2) - Hồ Xuân Hương).
Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi...
(Trống thủng - Hồ Xuân Hương).
Chơi xuân có biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
(Đánh đu - Hồ Xuân Hương).
Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
(Mời ăn Trầu - Hồ Xuân Hương).
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau...
(Dệt vải - Hồ Xuân Hương).
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người
Hẹn rằng đấu trí mà chơi
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết...
(Đánh cờ - Hồ Xuân Hương).
ST

02/05/2022

Yêu

 


Xuân Diệu

Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.

 

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt.
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
 Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

 

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt,
Những người si theo dõi dấu chân yêu;
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

 

Công dụng bất ngờ từ bia

 

Diệt chuột, ướp thịt, hấp tôm, dưỡng da... là những tác dụng bất ngờ từ bia mà có thể các bạn chưa biết. Dưới đây là liệt kê về những công dụng của bia, các bạn tham khảo:

- Ướp thịt. Bạn có thể dùng bia để ướp thịt thay cho rượu. Cách này không chỉ giúp thịt có vị ngon hơn mà còn khiến món ăn mềm và thơm hơn.

- Giúp cỏ tươi tốt: Nếu bạn đang trồng một thảm cỏ xanh trước nhà nhưng có những bụi cỏ tàn lụi, hãy đổ chút bia lên đó. Cỏ hấp thụ các chất dinh dưỡng, đường và năng lượng cần thiết từ bia để phát triển.

- Giết sên và các loại ốc: Đổ vào hộp hay chai miệng rộng khoảng 1/4 đến một nửa bia. Sau đó chôn chúng ra vườn. Ốc sên hay các loại ốc khác sẽ bị hấp dẫn đến đó và chết đuối.

- Diệt chuột: Nghe có vẻ lạ nhưng cách này khá hữu hiệu. Đổ vào các vật chứa bằng loại bia rẻ tiền. Chuột bị hấp dẫn bởi mùi bia sẽ trèo tới, ngã vào trong và không thể trèo ra.

- Làm dịu cơn đau bụng. Khi bị đau bụng do rối loạn tiêu hóa, chỉ cần ngồi xuống và uống chút bia. Thức uống có ga này sẽ giúp dạ dày của bạn dịu lại. Chất cồn giúp giảm đau khá tốt. Đừng dùng nếu bạn có vết loét hoặc viêm dạ dày.

- Đánh bóng đồ bằng vàng. Thấm ướt một miếng vải với chút bia và chà xát lên đồ bằng vàng (không được lẫn đá) để giúp đồ vật sáng bóng trở lại. Sau đó, dùng một miếng vải mềm khác để lau khô.

- Tắm dưỡng da: Thêm vài lon bia vào trong nước tắm của bạn. Cách này sẽ giúp làm mềm và dịu cho da bạn.

- Đánh bóng đồ nội thất bằng gỗ: Bia là một chất đánh bóng đồ gỗ tốt đến ngạc nhiên. Hãy đổ một chút bia lên một tấm khăn lau mềm, sau đó dùng khăn lau đồ gỗ và cuối cùng lau lại với một miếng vải khô. Bạn chắc chắn sẽ ngạc nhiên với vẻ ngoài sáng bóng của đồ gỗ sau khi được lau bằng bia.

- Dùng hấp thức ăn, như tôm, cá. Khi đun tôm sôi lên, thêm bia vào nấu. Bạn sẽ ngạc nhiên vì thực phẩm rất thơm ngon, đậm đà mà không hề còn mùi bia.

- Bảo dưỡng tóc: Các bạn dùng bia ủ tóc độ 30 phút, sau đó gội lại bằng nước ấm. Bia có tác dụng làm sáng tóc, mượt da đầu, sạch gầu… Dùng thường xuyên, các bạn sẽ có mái tóc sáng đẹp.

… Chắc còn nhiều hơn những tác dụng về bia mà tôi chưa biết, các bạn bổ sung.

 

01/05/2022

Tứ Đại đồng đường



 

Xét về mệnh thì, người già là sao Thiên Đức trong nhà, nên phải lấy đức làm gốc.

Cha mẹ là sao Thiên Phúc trong nhà, nên phải lấy chí làm gốc.

Vợ chồng là sao Thiên Cát trong nhà, nên phải lấy tình thương yêu làm gốc.

Con cái là sao Thiên Quý trong nhà, nên phải lấy hiếu làm gốc.

Cháu chắt là sao Thiên Hỷ trong nhà, nên phải lấy thuận làm gốc.

Anh chị em là sao Thiên Phụ trong nhà, nên phải lấy nghĩa làm gốc.

Người già mà vô đức thì một nhà gặp tai ương.

Đứa con bất hiếu thì cả nhà không có phúc báo.

Người đàn ông không có chí thì cảnh nhà không thịnh, người phụ nữ không nhu hòa thì đuổi sạch tài vận.

Người già phải phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, cha mẹ phải làm tấm gương về truyền thống gia đình, vợ chồng phải lèo lái truyền thống gia đình, con cái phải kế thừa truyền thống gia đình, cháu chắt phải thuận theo gia phong, truyền thống, anh chị em phải thi đua thực hiện truyền thống gia đình.

Đạo đức là quy luật của trời đất, bổn phận là đạo đức của cá nhân mỗi người.

Nên nếu trái Đạo đức sẽ không những rước Họa vào Thân mà còn rước Họa cho Gia đình.



30/04/2022

GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG TIỀN THUỞ XƯA (dành cho các bạn sưu tập tiền cổ tham khảo)

 

st trên net


Tương truyền rằng Hồ Xuân Hương túng tiền đến mượn Chiêu Hổ 5 quan tiêu tạm, đếm mãi không đủ nên trách: 

-Sao nói rằng năm lại có ba?

Trách người quân tử hẹn sai ra.

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.

Nhớ hái cho xin nắm lá đa!

Chiêu Hổ trả lời:

-Rằng gián thì năm, quý có ba!

Bởi người thục nữ tính không ra.

Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.

Cho cả cành đa lẫn củ đa.

Chiêu Hổ không đủ năm quan tiền quý, nên mưu mẹo cho mượn vẫn đúng năm quan như y hẹn, nhưng lại tính theo tiền gián, có giá trị thấp hơn, làm nữ sĩ cụt hứng.

Vậy tiền quý và tiền gián khác nhau ở như thế nào? ...

Từ thời Bắc thuộc , nước ta dùng các loại tiền của Trung Quốc. Đến năm 968, sau khi dẹp loạn Mười hai Sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hòang đế, tức Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình và năm 970 cho đúc tiền Thái Bình Hưng Bảo, mở đầu kỷ nguyên tiền tệ Đại Việt. Các thời đại sau tiếp tục đúc tiền theo hình thức như vậy.

Đơn vị để tính tiền gồm: quan, tiền và đồng (tức trự tiền, là đơn vị nhỏ nhấtü). Mỗi quan gồm mười tiền, mỗi tiền gồm bao nhiêu đồng thì tùy theo sự quy định của từng thời đại:

- Năm 1225, Trần Thái Tông định phép dùng tiền: dân gian dùng tiền với nhau là 69 đồng, gọi là tiền bớt; nộp lên thì 1 tiền là 70 đồng.

- Năm 1428, Lê Thái Tổ đúc tiền Thuận Thiên, tính 50 đồng là một tiền.

- Năm 1439, Lê Thái Tông định 60 đồng làm 1 tiền. Quy định này, 1 quan gồm 600 đồng tiền, ổn định mãi đến khi nhà Nguyễn chấm dứt năm 1945, như ta thấy:

Một quan là sáu trăm đồng,

Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi,

Chồng tôi cỡi ngựa vinh quy,

Hai bên có lính hầu đi dọn đàng,

Tôi ra đón tận gốc bàng,

Chồng tôi xuống ngựa, cả làng ra xem.

Các cô gái ngày xưa, tần tảo dệt vải quay tơ, dành dụm từng đồng tiền nhỏ bé để đức lang quân có phí trẩy kinh; đến khi hiển đạt, vị tân quan trở về đưa cô vợ hiền hậu số tiền được thưởng để làm lễ vinh quy bái tổ:

- Một quan tiền tốt mang đi Nàng mua những gì mà tính chẳng ra?

Cô vợ lễ phép thưa:

-Thoạt tiên mua ba tiền gà, 3 tiền x 60đ = 180đ

Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu. 1,5 x 60đ + 3đ = 93đ

Trở lại mua sáu đồng cau, = 6đ

Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng. 1,5 x 60đ+10đ = 100đ

Có gì mà tính chẳng thông,

Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi. 1,5 x 60đ + 6đ = 96đ

Ba mươi đồng rượu chàng ơi, = 30đ

Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng(*) 30đ + 20đ = 50đ

 Hai chén nước mắm rõ ràng,

Hai bảy mười bốn kẻo chàng hồ nghi. 2 x 7đ = 14đ

Hăm mốt đồng đậu nấu chè, = 21đ

Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan! = 10đ

1 quan = 600đ

Tuy vậy, khoảng thế kỷ XVIII, trong dân gian lại xuất hiện thêm hình thức tiền quý (cổ tiền) và tiền gián (sử tiền): mỗi quan tiền quý ăn 600 đồng tiền kẽm như cũ, nhưng mỗi quan tiền gián chỉ ăn 360 đồng tiền kẽm mà thôi. Do vậy, khi Chiêu Hổ đưa Hồ Xuân Hương mượn 1800 đồng tiền kẽm tức là 5 quan tiền gián, giá trị chỉ tương đương 3 quan tiền quý:

5 quan tiền gián = 5 quan x 360đ/quan = 1800đ

3 quan tiền quý = 3 quan x 600đ/ quan = 1800đ

Sự thật, Hồ Xuân Hương cần đến 5 quan tiền quý chứ không phải 5 quan tiền gián.

Sự xuất hiện của tiền quý, tiền gián đôi khi gây rắc rối trong việc tính toán chợ búa nên nó không được phổ biến lâu dài. Còn tỷ lệ một quan ăn 600 đồng tiền kẽm thì đã phổ biến từ lâu, lại dễ tính toán nên có tính ổn định trong dân gian đến nỗi sau này, tiền đúc do Ngân hàng Đông Dương của Pháp phát hành cũng có lọại bị ảnh hưởng bởi tỉ lệ này như ta thấy:

Năm 1905, Chính quyền Bảo hộ Bắc kỳ đã cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm, mặt trước ghi chữ Pháp ‘’Protectorat du Tonkin - 1905’’, nhưng mặt sau lại ghi bằng chữ Hán là ‘’lục bách phân chi nhất - thông bảo’’ có nghĩa là đồng tiền này ăn 1/600 của một quan, nên có giá trị tương đương với các đồng tiền kẽm do triều đình Huế phát hành từ trước nhu tiền kẽm Gia Long Thông Bảo, Minh Mạng Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo; hoặc ăn bằng 1/10 loại tiền Thành Thái Thông Bảo - Thập Văn là loại tiền đồng ăn 10 đồng tiền kẽm được triều đình Huế phát hành cùng thời.



Nhưng đến thời Bảo Đại (1926-1945) ngoài việc đúc và phát hành các loại tiền có tính chất truyền thống, do nhiều biến động về kinh tế xã hội, đã cho phát hành lọai tiền Bảo Đại Thông Bảo được sản xuất bằng máy dập của Pháp. Loại tiền mới này, nhỏ mỏng đến nỗi 2 hoặc 3 đồng tiền này mới ăn được 1 đồng Khải Định Thông Bảo của vua cha (cũng được sản xuất bằng máy dập), làm người dân chua xót:



Hai con đổi lấy một cha, Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền!

Chú thích: (*) “vàng” tức vàng bạc, đồ mã

Năm 1934, gia tộc nhà ông Lê Phát Đạt – ông Huyện Sỹ (ông ngoại Nam Phương Hoàng Hậu) gả Nguyễn Hữu Thị Lan về làm hoàng hậu nhà Nguyễn. Cậu hai Lê Phát An tặng cho cháu gái 1 triệu đồng tiền mặt làm của hồi môn ôm theo “dằn mặt”. Hoàng gia khi đó rất nghèo, một triệu đồng Đông Dương đương 22.000 cây vàng.

 

Tờ tiền Đông Dương giai đoạn 1921-1939

Một triệu đồng Đông Dương bằng 10 000 tờ giấy Xăng (tờ giấy bạc 100 đồng Đông Dương) – số tiền chi ra tổng 22.000 lượng vàng tính bằng tiền bây giờ cỡ khoảng hơn ba chục triệu Mỹ kim chứ bao nhiêu, chưa kể 100 năm về trước tiền còn có giá biết chừng nào.

Con gái đại gia lấy chồng làm Vua có khác !

Thì ra cái sự giàu có của đại gia Nam Kỳ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không những có thiệt mà còn kinh khủng hơn trong truyện.

Ông bà Nam Kỳ xưa có câu “Tiền muôn bạc vạn” chỉ sự giàu sang phú quý của những nhà “giàu nứt vách đổ tường”.

Bạc vạn là từ 10.000, bạc muôn là trên 100.000 đồng.

Đồng tiền xưa rất mắc, năm 1925, một mẫu ruộng tốt ở Nam Kỳ có giá 50 đồng – có khi 80 đồng. Được xếp loại “đại điền chủ” thì gia đình đó phải có 50 mẫu ruộng trở lên, vị chi 50 mẫu điền x 50 đồng = 2.500 đồng bạc, hoặc 80 x 50 = 4.000 đồng bạc là gia tài của một đại điền chủ thấp nhứt.

Năm 1930 Nam Kỳ có cả thảy 6.690 đại điền chủ có từ 50 mẫu đất trở lên.

Coi truyện Hồ Biểu Chánh ta thấy chưa có ông đại điền chủ nào có tiền mặt trong nhà quá 40.000 đồng. Trong tiểu thuyết “Con nhà giàu” ta thấy cha mẹ cậu Tư – một đại điền chủ có 500 mẫu điền chết để lại có 25.000 đồng trong tủ.

Hồi xưa tiền có giá, chưa có danh từ tỷ phú như bây giờ, chỉ triệu phú là hết mức. Vậy số tiền một triệu đồng của cậu hai Denis Lê Phát An cho bà Nam Phương lớn không thể tưởng tượng.

Chúng ta cũng không quên ông Nguyễn Hữu Hào bà Lê Thị Bính chỉ có 2 cô con gái, ngoài một triệu lận lưng khi lấy chồng, sau đó khi cha mẹ chết bà Nam Phương còn được chia một nửa gia tài của cha mẹ nữa.

 


 Bộ 4 tờ tiền Đông Dương năm 1942

Trong Con Nhà Nghèo cậu Ba Cam đi làm Sốp Phơ (Chauffeur). cho Thầy Kiện một tháng đã có 40 đồng Đông Dương coi như la phủ phê lắm rồi vì ở dưới Gò Công thằng Cu đi làm mướn chủ nuôi cả năm chỉ được có ba bốn chục đồng Bạc.

Thầy thông trong Cô Lý Cô Đào mỗi ngày làm có 1 đồng bạc tháng đi làm chạy 26 đồng mà đã nuôi được vợ con.  Ngặt sau này vợ con bệnh nên bán chiếc xe máy giá 20 đồng, thầy tiếc không bán vì chiếc xe máy kiểu Pháp thầy mua tới 40 đồng tức gần hai tháng lương của thầy.

Sau này người ta đem bỏ con thầy lụm về nuôi phát hiện ra 50 tờ giấy Bạc từ đó phất lên làm giàu.

Cho nên số tiền này thuở đó là khổng lồ, nếu so sánh với bạc hiện nay, thì số tỷ vẫn chưa vừa, vì tỷ phú ngày nay có hiếm, chớ như hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi ngoài, đầu thế kỷ hai mươi, tờ giấy xăng (100$) có người trọn đời chưa từng thấy, và giàu bạc muôn, tức trong nhà có được mười ngàn, đã là giàu bạc nứt đố đổ vách..”