30/09/2015

Thở sâu đúng cách

Thiền là phương pháp tu dưỡng Thân thể và Tinh thần vô cùng bổ ích. Thiền không phải là riêng có của một tôn giáo nào; các vị Bà la môn (Brahman), Yoga (Du già), các tông phái Phật giáo, Lão giáo, Nhân điện (Thiền dưỡng sinh), một số phái võ ... đều dùng Thiền làm nền tảng tu tập, điều hòa Khí - Huyết. Mà Thiền thì lấy việc điều hòa thở đúng cánh làm căn bản dù rằng mỗi tông - môn phái có các phương pháp khác nhau.
- Nguồn cơ bản của khí là dưỡng khí, một thành phần quyết định của không khí, trong bầu khí quyển của quả đất ta đang sống,
- Thở, hít vào và thở ra là thu nạp chất sống, loại chất độc, nuôi dưỡng cơ thể, là việc làm từ khi ra đời cho đến khi chết, tắt thở;
- Thở sâu là tăng đáng kể dưỡng khí vào khắp lục phủ ngũ tạng của cơ thể, xoa bóp, bồi dưỡng, tẩy rửa các bộ phận làm cho tiêu hoá thuận lợi, huyết mạch lưu thông, phổi, dạ dày, ruột, gan, thận, tim mạch khoẻ khoắn, cho đến óc não, tinh thần đều sảng khóai, phòng ngừa và chữa trị tình trạng suy yếu và nhiều bệnh tật;
Hãy bỏ thói quen thở ngắn và nông như hằng ngày để làm quen với cách thở sâu và đều đặn. Hơi thở sẽ làm trong sạch cơ thể và bạn sẽ ngạc nhiên trước những điều kỳ lạ đến với mình.
 Hãy tập thở ngay cả khi đi bộ, vừa đỡ mệt, vừa có tâm trạng sảng khoái. Phương pháp rất đơn giản, bạn chỉ việc kết hợp giữa bước chân và nhịp thở, tức là khi bước một bước lên thì thở ra; bước tiếp sau đó thì hít vào. Cùng với nhịp bước chân, lặp đi lặp lại ''thở ra, hít vào - hít vào, thở ra''.
Nếu mỗi ngày bạn tập luyện từ 20 đến 30 phút thì sau 2 - 3 tháng, lượng serotonin- một chất được não sản xuất ra quyết định tâm trạng và khả năng tập trung của con người, sẽ tăng lên rất nhiều khiến bạn không cảm thấy mệt, khả năng tập trung cao, tính cách vững vàng và chịu áp lực tốt.
Con người không thể điều chỉnh được nhịp đập của tim cũng như nhịp co bóp của dạ dày nhưng lại rất dễ điều chỉnh nhịp thở của mình. Patanjali, người thầy vĩ đại của môn phái Yoga ở thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, đã kết luận: "Thở, suy nghĩ và tư tưởng có mối liên hệ sâu xa. Tư tưởng bình yên nhờ sự luân phiên vào ra của việc thở sâu, điều hoà''. Bởi vậy, duy trì nhịp nín thở khi hít vào và thở ra bằng nhau như cách "thở bụng bốn thì" của các nhà dưỡng sinh, khí công và Yoga được xem là phương pháp tốt nhất.
Khi con người thở đúng cách, hơi thở sẽ làm trong sạch cơ thể bạn. Khi thở ra, nín thở đồng nghĩa với việc đưa các độc tố ra ngoài cơ thể và trong cơ thể bạn có một khoảng trống. Độc tố N2, CO2 tích tụ ở tim, do đó khi bạn hít vào và nín thở, khí độc trong người hoà trộn vào hơi thở sau đó máu thải khí độc và đẩy chúng ta ngoài qua hơi thở.
Tư tưởng và hơi thở liên quan chặt chẽ với nhau (chẳng hạn khi bạn giận, nhịp thở sâu và dài; khi gặp người yêu thì nhịp thở ngắn, dồn dập; cảm xúc của bạn bình tĩnh thì hơi thở trở nên điều hoà, sâu và chậm hơn), nên hãy tập thở đồng thời với việc kiểm soát tư tưởng. Khi đó, bạn cũng có thể đưa luôn cả những suy nghĩ không tốt, tư tưởng đau khổ... ra ngoài theo hơi thở. Như vậy, nếu bạn thay đổi được nhịp điệu hơi thở, bạn sẽ thay đổi được trạng thái tư tưởng, suy nghĩ và cả lối sống của mình.
Hơi thở làm trí óc của bạn hoạt động, nó được duy trì sâu, đều, thường xuyên thì cơ thể bạn phát triển tốt, vui vẻ, khoẻ mạnh. Nó có thể đẩy lùi những ảnh hưởng không tốt đã ăn sâu vào tiềm thức, hơi thở sẽ giúp cho bạn nảy sinh những tư tưởng chân, thiện, mỹ tiềm ẩn trong bản chất con người.
 - Cần tự luyện để biết cách thở có hiệu quả nhất, không phải thở chỉ bằng phổi mà thở chủ yếu bằng nâng cơ hoành, từ từ phình bụng cho không khí tràn sâu vào khắp khoang ngực và bụng, rồi thở ra bằng thót nhẹ bụng và ngực cho gần như hết kiệt...
- Dưỡng sinh toàn diện là kết hợp âm và dương, tĩnh và động, thể xác và tinh thần, lý trí và cảm xúc, hoạt động thì hoạt bát, hăng say sôi động, nghỉ ngơi thì tĩnh lặng, trống không, thư giãn, ham mê việc tốt cho đời, cho nhân quần xã hội, dửng dưng trước những ham muốn thấp kém vô bổ có hại.

Những người có kinh nghiệm rèn luyện thở sâu lúc đầu theo nhịp 1 phút 6 nhịp hít vào - thở ra (mỗi nhịp 10 giây, hít vào 5 giây, thở ra 5 giây) cho quen, sau vài tháng nâng lên dần 1 phút 3 nhịp (hít vào 10 giây, thở ra 10 giây), sau vài tháng có thể nâng lên một phút 2 nhịp là đạt được mức khả quan rồi.

Người bình thường thở 1 phút 18 - 22 nhịp, có người thở gấp, nhịp rất ngắn, 1 phút đến 28 - 30 nhịp.
Ở đây, tôi không khuyên mọi người khi thở cứ chăm chăm nhìn vào đồng hồ để theo dõi nhịp thở - Như ta đều biết nhịp tim của người bình thường vào khoản từ 60 đến 90 lần 1 phút, vậy ta cứ lấy 60 là 1 phút làm mặc định. Khi Thiền, ta chắc sẽ thấy nhịp đập của mạch ở gần cổ tay - hãy lấy đó làm cơ sở theo dõi; thứ nữa, không nên cố gắng đốt cháy giai đoạn bằng cách cố nhịn thở lâu mong đạt được đến kết quả đến nỗi hoa mày chóng mặt chỉ tổ rước họa vào thân mà thôi.

Khi luyện cho cơ thể quen, không cần nghĩ đến nhịp thở, vẫn thở sâu như thường. Khi đi bộ, đi xe đạp, ngồi trong ô tô, khi đọc sách, ngồi họp, bấm máy computơ, khi nằm, thậm chí khi ngủ cơ thể vẫn giữ nhịp thở sâu, thế là đã đắc đạo dưỡng sinh, sẽ sống lâu hơn được hàng chục năm, thậm chí vài chục năm!

Thở bụng: đơn giản mà diệu kỳ.

Thử quan sát một đứa bé sơ sinh đang nằm ngủ: phần cơ thể lên xuống đều đều theo nhịp thở không phải là phần ngực như đa phần người lớn mà là bụng! Không may, khi lớn lên rồi thì ngoại trừ số ít người có luyện tập như vận động viên, đạo gia hoặc các nhà khí công… những căng thẳng và ưu tư trong cuộc sống dẫn đến hiện tượng căng cơ, thở nhanh, thở ngắn dần dần tập nhiễm thành thói quen thở cạn, chỉ thở ở phần ngực.
Thở bụng giúp chống stress, cải thiện sức khoẻ và gia tăng khả năng phòng chống bệnh tật, nhất là các bệnh lý về tim mạch, cao huyết áp.
 Khi quan sát hơi thở, cần chú tâm đến chuyển động phồng lên xẹp xuống ở bụng.
thosausnglau

Quả tim thứ hai

Trong khi phép thở bình thường chỉ sử dụng một phần cơ hoành và cơ ở lồng ngực thì ở cách thở bụng, thường gọi là cách thở triệt để, có thể vận dụng cả cơ bụng và các cơ đáy chậu. Hệ thống cơ hoành, cơ ngực, cơ hông và các cơ vùng đáy chậu hình thành nên một cơ chế giống như một “quả tim thứ hai” để thúc đẩy lưu thông khí huyết. Bụng dưới phình lên sẽ kéo theo hoành cách mô hạ xuống để nở rộng dung tích phổi.
Ngoài ra, ở thì thở ra, thở chậm và từ từ ép sát bụng dưới vừa có tác dụng xoa bóp nội tạng, thúc đẩy khí huyết đến các nơi hiểm hóc hoặc xa nhất của cơ thể mà trong điều kiện thở bình thường việc trao đổi khí huyết khó xảy ra. Thở bụng, thở sâu, thì thở ra chậm và dài hơn thì hít vào còn có tác dụng tăng cường ức chế hệ giao cảm để điều hoà thần kinh. Về mặt khí công, thở bụng có tác dụng kích hoạt khí đan điền, tăng cường nội khí và đối trị với các chứng hư hoả.

Hỗ trợ điều trị nhiều bệnh

Ngày nay, nhịp sống nhanh và mức độ cạnh tranh cao dễ gây căng thẳng tâm lý, làm rối loạn hoạt động nội tiết, suy giảm hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ nhiều loại bệnh từ cảm cúm, các chứng đau nhức đến những bệnh tim mạch, tiểu đường. Thỉnh thoảng hướng sự chú ý vào những hơi thở sâu là cách đối trị đơn giản và hữu hiệu. Có một số người bị bệnh khó ngủ, mất ngủ lâu ngày có thể hồi phục giấc ngủ dễ dàng ngay đêm đầu tiên được hướng dẫn quan sát hơi thở ở bụng dưới. và thần kinh cũng cho thấy lối thở bụng đã làm giảm đáng kể những triệu chứng sau mãn kinh và các chứng trầm cảm. Thở bụng giúp tăng dung tích phổi, điều hoà thần kinh và hoạt động nội tiết  có thể cải thiện hoạt động chức năng của tất cả các cơ quan.
Tác động dễ thấy nhất là đối với các bệnh lý về tim mạch. Thở bụng và thở dài hơi ở thì thở ra làm nở mạch ngoại biên, tăng cường lưu thông khí huyết và điều hoà thần kinh giao cảm nên cải thiện được các chứng suy tim, rối loạn nhịp tim, huyết áp thấp cũng như huyết áp cao.
Luôn có sự tương tác giữa hơi thở, cảm xúc và huyết áp. Lúc lo âu, căng thẳng sẽ thở nhanh, thở gấp và huyết áp tăng. Lúc bình tĩnh, tinh thần thoải mái, nhịp thở chậm, đều và huyết áp hạ. Do đó, thực hành tốt cách quan sát thở bụng sẽ nhanh chóng tạo ra những đáp ứng thư giãn không chỉ làm vắng bặt những nỗi khủng hoảng, lo sợ mà còn có thể giúp cắt cơn cao huyết áp.

Phương pháp tập thở bụng

Nằm hoặc ngồi ở nơi yên tĩnh. Buông lỏng cơ thể, đặt một bàn tay trên bụng dưới. Hít vào đến bụng dưới, cảm nhận rõ bụng dưới hơi nhô lên dưới bàn tay. Không cố hít vào quá nhiều để tránh ngộp hơi hoặc làm mệt tim.
Thở ra chậm cho đến cuối hơi trong khi ép dần bụng dưới xuống.
Có thể thở ra bằng miệng. Miệng chỉ vừa mở đủ để hơi thở thoát ra. Cảm nhận rõ lúc đang thở ra khi bụng dưới hạ xuống dần dưới bàn tay. Hít vào, thở ra từ hơi thở này đến hơi thở khác. Thì thở ra dài hơn thì hít vào. Khi thuần thục, có thể để hai tay buông lỏng bên thân hoặc trên đùi.
Có thể thở mỗi lần một vài hơi thở ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào hoặc sử dụng như một hình thức thiền trong một buổi tập dài hay ngắn tuỳ điều kiện thời gian và sở thích mỗi người. Lâu dần, thở bụng sẽ được tập nhiễm thành thói quen. Lúc này chuyển động lên xuống ở bụng dưới đã thành một phản xạ tự nhiên, không còn lệ thuộc ý thức của người tập nên được gọi là phản xạ thở bụng.
Tập lúc bụng trống, mỗi lần từ 10 phút trở lên vào những giờ nhất định, sau khi tắm rửa sạch sẽ và đã hoàn tất mọi việc trong ngày.
 Có bài vè hướng dẫn sau:

Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm, chậm, sâu, đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được.


   12 câu, 48 chữ, vậy mà hiểu cho thấu đáo, luyện thành nếp, đạt hiểu quả cao, phải khổ luyện từ 3 tháng, 6 tháng đến 2 năm mới thật là nhuần nhuyễn.

Trân trọng

24/09/2015

Hình ảnh miền Bắc Việt Nam 1967 của phóng viên Mỹ

   Hố tránh bom cạnh đường tàu điện ở Hà Nội, dân quân Hải Phòng sẵn sàng chiến đấu, nông dân Thái Bình hăng hái lao động sản xuất... là những hình ảnh khó quên về miền Bắc Việt Nam năm 1967.

   Hình ảnh do nhà báo Mỹ Lee Lockwood thực hiện trong chuyến thăm miền Bắc Việt Nam năm 1967.
Các nữ dân quân Hà Nội nghỉ giữa giờ trong một buổi luyện tập.
 Một hố tránh bom cá nhân nằm cạnh đường tàu điện tại một con đường ở Hà Nội.
Xe bọc thép chở quân BTR-152 của Liên Xô được cải biến thành xe phòng không ở Hà Nội.
Cảnh bán vé xe khách ở Hà Nội sau kỳ nghỉ Tết năm 1967. Nhiều trẻ em được đưa về ăn tết tại Hà Nội sẽ theo các chuyến xe trở về vùng sơ tán tại nông thôn.
 Một nữ công nhân trong Nhà máy dệt tại TP Nam Định. Đây là nhà máy dệt lớn thứ hai của miền Bắc Việt Nam. Phần lớn nhà máy đã được sơ tán về các vùng nông thôn, chỉ còn một vài bộ phận hoạt động tại thành phố. Các công nhân mặc quân phục vừa làm việc vừa đeo súng trường để sẵn sàng chiến đấu.
 Công nhân trong Nhà máy Dệt 8 Tháng 3 tại Hà Nội.
 Một dân quân trong buổi tập luyện tại Hà Nội.
 Dân quân túc trực trên tháp canh phòng không bên ngoài một nhà máy tại Hải Phòng.
 Lực lượng dân quân dùng đất đá lấp một hố bom khổng lồ do máy bay Mỹ vừa gây ra trên Quốc lộ 1 gần Ninh Bình. Chỉ sau 3 giờ hố bom đã được xử lý, xe cộ lưu thông bình thường trở lại.
 Trong một công viên tại Hải Phòng, các công nhân cảng tổ chức một buổi "tự phê", thảo luận cách đẩy nhanh công việc tại cảng.
Tàu vận tải Liên Xô neo đậu tại cảng Hải Phòng.
Dân quân trên trận địa pháo cao xạ phía bên ngoài một nhà máy tại Hải Phòng.
 Khẩu pháo này do Mỹ sản xuất, tịch thu được từ quân Pháp tại Điện Biên Phủ, theo tiết lộ của cán bộ nhà máy.
 Tù binh Mỹ cúi đầu trong buổi họp báo tại Hà Nội.
 Đại úy Murphy N. Jones thuộc Không quân Mỹ (theo báo cáo mất tích hôm 30/6/1966) được một bác sĩ tháo băng bột ra khỏi cánh tay tại một nhà tù ở miền Bắc Việt Nam.
 Bia tưởng niệm tại địa điểm ngôi trường bị trúng bom tại làng An Tiêm, tỉnh Thái Bình. Hai máy bay Mỹ đã thả mỗi chiếc hai quả bom vào làng này cuối năm 1966, khiến 30 trẻ em và một giáo viên tại ngôi trường trên thiệt mạng. Tên của nạn nhân được khắc trên tấm bia.
 Một bức ảnh tập thể của ban lãnh đạo hợp tác xã nông nghiệp xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Trên tường là một tranh cổ động vẽ các ngón tay giận dữ của thế giới chỉ vào mặt Tổng thống đương nhiệm Mỹ Johnson.
 Một xã viên tiên tiến hợp tác xã Nguyên Xá hút thuốc lào tại nhà.
 Nông dân Thái Bình ra đồng làm việc sau giờ nghỉ trưa. Tỉnh Thái Bình là một vựa lúa quan trọng của miền Bắc Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.

21/09/2015

Tản mạn về thú chơi dao...

Bài này mình copy trên mạng - không rõ tác giả.
Người ta thường có thú chơi riêng khác nhau. Người này sưu tập tem thư, kẻ khác sưu tập chó hoặc mèo. Người nhiều tiền đi sưu tầm đồ cổ. Ở Hoa kỳ người ta có quyền sưu tầm vũ khí, có người có cả một kho súng gồm cả thần công, đại liên… có thể trang bị cho một đại đội lính thủy đánh bộ. Ở nước ta tôi đã gặp những người sưu tầm cây cảnh, đồng hồ, huy hiệu… và những thứ ít tốn kém khác.
Riêng tôi là người làm việc lâu năm với sắt thép, tôi thích sưu tập dao hơn cả, một phần cũng vì con dao là công cụ kỹ thuật đầu tiên của con người và sẽ đi theo loài người cho đến lúc diệt vong bất chấp sự đơn giản của nó.
Với người VN, con dao từng là vật bất ly thân của người miền núi và đặc biệt của phụ nữ đồng bằng: Ai có thể quên danh từ "dao cau". Tuy vậy, lịch sử và truyền thuyết VN không nói đến nghệ thuật rèn dao kiếm cũng như những dao kiếm nổi tiếng, trừ những thanh kiếm Tàu (Long tuyền, Mạc Tà...).
Người chơi dao không thể sưu tập tất cả các loại dao mà chỉ chọn một loại dao nhất định, như dao gập, dao ngắn, dao chiến đấu… Chỉ chọn một loại thôi cũng đủ mệt rồi.
Người yêu dao chỉ cần cầm con dao lên tay nhìn ánh thép, vuốt lưỡi dao đã biết phẩm chất con dao, biết rằng phải tốn công bao nhiêu để chế tạo được nó.
Hiện nay trên thế giới chỉ có một số loại thép nhất định được dùng làm dao tự vệ. Người ta cho loại dao này cái tên hiền lành hơn là dao dã ngoại (outdoor knives). Loại dao này cũng thường được xếp lẫn vào hàng ngũ dao thợ săn (hunting knives).
Thép dùng làm các loại dao này chủ yếu là thép các bon có lượng các bon cao đến trên dưới 1% và giảm các tạp chất như Si càng nhiều càng tốt.
Bằng phương pháp luyên kim bột người ta tạo ra thép có hàm lượng các bon tới trên 2% đạt độ cứng trên 65 HRC. Tuy vậy thường dùng nhất là các loại thép cac bon từ 0,6 đến 1% các bon. Ở Mỹ, dao thép các bon thường dùng thép 1095 có thể đạt độ cứng HC đến 60 sau khi nhiệt luyện.
Với các dao phát hoặc rìu là những dụng cụ chịu va đập người ta giảm độ cứng về khoảng 56 HRC là độ cứng thường có của những dao nội trợ loại tốt. Hãng chế tạo dao TOP chuyên dùng loại thép này. Để chế tạo những dao đắt tiền hơn người ta dùng thép cac bon dụng cụ như A2, chuyên dùng làm dụng cụ cắt gọt đồ gỗ, hoặc D2 một loại thép austenit rất rắn trên 60 HRC nhưng mài sắc rất vất vả. Đó là những loại thép các bon có thêm một số thành phần hợp kim khác như Mn, V .. để chống mài mòn chẳng hạn. Dao thép các bon nếu được thép phẩm chất cao, nhiệt luyện thích hợp, có phân bố các tinh thể martensit tinh tế nên có thể mài cho dao có góc cắt dưới 20°, độ sắc rất cao, tuy không sắc bền nhưng dễ mài lại. Mặt khác dao thép các bon dẻo có thể bị cong khi chịu tác dụng ngang nhưng uốn lại được, khó bị bẻ gẫy. Nếu không ngại dao rỉ, nên dùng dao thép các bon rẻ tiền hơn và sắc hơn dao thép không rỉ.
Nói là rẻ nhưng trên thị trường các hãng danh tiếng như SOG, TOP, Cold Steel vẫn chào bán những con dao có giá vài trăm USD. Nói đến loại thép các bon cao cấp phải kể đến thép Ao Gami và Shiro Gami của Nhật. Với các loại thép này dao có thể đạt độ cứng đến 62 HRC. Người Finnland, Sweden, Norway có kỹ thuật ghép một lớp thép có hàm lượng các bon cao giữa hai lớp thép không rỉ để có lưỡi cắt sắc mà lưỡi dao vẫn dẻo, như hãng Faellkniven. Nếu muốn có con dao sắc đến mức chẻ được sợi tóc, bạn nhất thiết phải dùng dao cacbon và có kỹ thuật mài thích hợp.
Trong những thập niên gần đây dao thép không rỉ đã thống lĩnh thị trường. Dao thép không rỉ gọi là dao inox quen thuộc với người VN từ rất lâu (có lẽ từ những năm 1950) là dao của hãng Victorinox Thụy sĩ. Đến nay hình như Victorinox không có cải thiện gì về loại thép, nhưng phẩm chất thép của hãng này thuộc loại tầm thường, không sắc bền.
Những loại thép được gọi là không rỉ khi có trên 14% Cr. Tuy khiến thép khó rỉ Cr tạo nên những tinh thể các bit khổng lồ so với martensit. Ta có thể xem lưỡi dao thép các bon như một thanh sô cô la trộn hạn dẻ đã xay mịn, còn dao thép không rỉ như một thanh sô cô la với nhửng hạt dẻ to tướng còn nguyên vẹn. Vì thế không thể mài lưỡi dao thép không rỉ có góc cắt thật nhỏ để cắt cho ngọt. Để ít phải mài lại người ta dùng góc cắt lớn tới 45°.
Quan sát kỹ các dao thép không rỉ bạn sẽ thấy cách mài lưỡi cắt như vậy. Nếu muốn dao thép không rỉ có góc cắt nhỏ hơn để cắt cho "ngọt" ta phải chấp nhận mài lại dao thường xuyên vì khi sử dụng các tinh thể cacbit lớn vỡ rơi ra để lại một lưỡi dao như răng khủa. Tuy vậy người vẫn ưa chuộng dao thép không rỉ vì có một vài loại thép có cấu trúc tinh thể tinh tế hơn và vì không cần bảo quản chống rỉ trong sử dụng, bảo quản. Khi cắt thực phẩm, dao thép không rỉ không để lại mùi tanh sắt mà người làm bếp tinh tế không muốn có.
Các loại thép không rỉ làm dao thường dùng nhất hiện nay là S30V, PM154 là thép luyện kim bột của Mỹ, ATS 34 của Nhật. Độ cứng thường dùng đạt 60 HRC. Sau đó là các loại thép 440A, B, C của Mỹ, AUS 6, 8, 10 của Nhật, các loại thép của Sandvik Thụy điển. Các nước Bắc Âu thường dùng loại thép 12C27 của Sandvik làm lưỡi dao, vì thép này tuy không đạt được độ cứng cao và chịu mài mòn kém nhưng có thể mài rất sắc và người sử dụng dễ mài lại không cần phương tiện đặc biệt như khi mài S30V hay D2.
Hãng Buck cũng như hãng Leathermann ở Mỹ lại chuyên dùng thép 420 có hàm lượng cacbon cao để chế tạo dao và dụng cụ. Những hãng này có công nghệ nhiệt luyện hoàn hảo bảo đảm phẩm chất thành phẩm của họ.
 Với những loại thép đòi hỏi kinh nghiệm nhiệt luyện đặc biệt như PM154, ATS34… trên các thành phẩm ngoài ký hiệu hãng sản xuất còn có ký hiệu của cơ sở nhiệt luyện, như Paul Bos với biểu tượng ngọn lửa trên các con dao ATS34 của Buck. Gần đây các hãng sản xuất dao quen thuộc chuyển hẳn cho TQ chế tạo dao cho họ. Những ai muốn mua dao thực sự chính phẩm sẽ gặp nhiều khó khăn. Thí dụ những con dao chiến đấu của Ethan Becker như BK7, BK9 trước vẫn do Camillus chế tạo. Vì Camillus ngừng sản xuất nên dao BK trở thành của hiếm với người sưu tầm. Hãng Ka-Bar đã khôn ngoan sản xuất lại các loại dao này nhưng để TQ chế tạo cho rẻ. Tất nhiên TQ có thể chế tạo bất cứ phẩm chất nào nếu nhận đủ tiền, nhưng nhiều cơ sở chế tạo của TQ chưa đủ khả năng bảo đảm phẩm chất hàng loạt. Ngày nay một cơ sở tại Quảng Đông chế tạo đủ loại dao cao cấp cho phương Tây cho đến những con dao gập strider folding knive dùng S30V hoặc D2 được bán với giá vài trăm USD. Người sưu tầm mua những con dao strider ATS34 sản xuất trước đây chục năm với giá tới dăm trăm USD.
Mốt mới hiện nay trong nghề làm dao chơi là dùng thép damast. Người dùng các loại thép khác nhau, ghép chúng lại theo các cách thức định trước rồi đem rèn để tạo hoa văn. Kỹ thuật rèn thép damast nay tạo được những hoa văn tuyệt đẹp trên dao khiến có những con dao nhỏ có giá hàng ngàn USD. Những dao này chỉ để bày trong tủ nhà sưu tầm. Cái tên damast có xuất sứ từ thời thập tự quân viễn chinh tới Jerusalem. Những thanh đao cổ lỗ nặng nế của thập tự quân đã bị những thanh gươm sắc và dẻo dai tuyệt vời của đối phương đánh bại thảm hại. Đó là những thanh gươm được rèn ghép nhiều loại thép tại thành phố Damascus. Người châu Âu sau này đã tìm cách chế tạo lại loại thép như vậy. Nhu cầu chế tạo dao làm cảnh khiến cho nghệ thuật chế tạo thép damast tiến lên một bước xa. Gần như hãng làm dao lớn nhỏ nào từ Dagestan, Nga đến Hungary, Đức , Pháp đều chào hàng dao thép damast. Một con dao thái thịt bằng thép damast hiện nay giá chỉ còn khoảng vài chục Euro, trước vài năm là hàng trăm.
Nếu bạn muốn có một con dao mang theo hàng ngày để sử dụng nên dùng cỡ dao nào? Trước hết phải xem cảnh sát có làm phiền bạn khi mang dao trên người hay không. Ở một số nước Bắc Âu, bạn ở thành phố sẽ gặp khó khăn khi bắt gặp có dao trong người. Ở nhiều nước châu Âu khác dao mang theo không được vượt quá một chiều dài nhất định. Nói chung, không nên mang theo người một con dao có lưỡi dài hơn chiều rộng bàn tay (không kể ngón cái), tức là trong khoảng từ 8 đến 10 cm. Đó là chiều dài thích hợp để tận dụng lực cắt của tay và điều khiễn lưỡi dao cắt theo ý muốn. Dao dài hơn nữa chỉ có tác dụng đâm (chiến đấu) hoặc thái (làm bếp). Dùng dao lưỡi dài dưới 10 cm nên dùng dao thép không rỉ vì không phải bảo quản dầu mỡ, hơn nữa lưỡi dao ngắn nên tuy thép ròn cũng khó gãy. Độ cứng nên trên 58 HRC. Dao dã ngoại dài lưỡi hơn nên dùng thép cacbon, độ cứng không nên cao quá 56 - 58 HRC.
Người thường dùng xe hơi, xe khách nên chú ý đến loại dao an toàn, có lưỡi dao dày đến trên 5 mm mũi nhọn để nậy cửa khi xe bị lật, hóc khóa. Chuôi dao thường có chi tiết thép cứng nhọn để phá kính cửa sổ xe khi cần thoát hiểm. Đôi khi lưỡi dao được trang bị một móc sắc để dật đứt các dây an toàn khi cần kéo người ra khỏi xe bị tai nạn.

Dao gập tiện lợi khi vận chuyển nhưng không đảm bảo khi cần làm việc nặng. Nếu không có những mục đích khác nên dùng dao lưỡi cố định, ngắn, khỏe (dày trên 3 mm) bản rộng (trên 3 cm) để làm được cả việc nội trợ khi cần và mũi không quá nhọn tròn để giảm khả năng gãy mũi dao khi phải bẩy nạy.

Ngâm chân chữa bệnh

Sở dĩ ngâm chân có thể chữa được bệnh là do ở 2 bàn chân có rất nhiều các đầu mút thần kinh và huyệt vị có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan tạng phủ trong cơ thể.
Khi ngâm chân, nhiệt độ ấm của nước cùng với áp suất nước và các loại thuốc sử dụng để ngâm chân sẽ tác động vào các đầu dây thần kinh và huyệt vị, nhờ đó mà công năng của các tạng phủ, đặc biệt là hệ thần kinh được điều hòa và cải thiện.
Đồng thời, khí huyết trong cơ thể cũng được lưu thông, trạng thái âm dương được cân bằng. Quan trọng hơn cả là quá trình hưng phấn và ức chế của đại não cũng được cân bằng.
Những chứng bệnh thích hợp với liệu pháp ngâm chân được kể đến thì nhiều nhưng rõ rệt nhất là chữa chứng di tinh, xuất tinh sớm và mất ngủ. Ngoài ra viêm tắc tĩnh mạch chân hoặc viêm khớp cổ chân cũng có thể yêu cầu bác sĩ kê đơn thuốc để về ngâm...
Những loại nước ngâm chân thông dụng
Việc ngâm chân có thể đơn thuần ngâm bằng nước nóng hoặc ngâm với một số dược liệu đơn giản như muối, gừng, nước chè hoặc một số loại thuốc Đông y.
Nếu ngâm chân bằng nước thuốc thì phải có sự chỉ định của bác sĩ để chọn các vị thuốc có tính năng điều trị bệnh phù hợp.
Dưới đây là một số loại nước ngâm chân thông dụng nhất mà ai cũng có thể áp dụng:
- Nước muối: Ngâm chân bằng nước muối có thể làm cơ thể ấm lên từ bên trong, giúp máu tuần hoàn tốt hơn và nâng cao sự trao đổi chất.
- Nước chè xanh: Chè xanh rất giàu chất phenol và nhiều hợp chất khác có tác dụng cho cơ thể như tiêu nóng, kháng khuẩn, tăng cường thể chất, chống lão hóa...
Lá chè cũng chứa một lượng lớn các loại vitamin, khoáng chất và các dầu thơm nên có khả năng thúc đẩy quá trình thay da cũng như các chất dịch trong cơ thể và tránh khô nứt da.
Dùng lá chè xanh ngâm chân sẽ phòng ngừa những bệnh nấm, nước ăn chân, da chân nứt nẻ và khử mùi hôi ở chân.
- Nước hoa cúc: Ngâm chân bằng hoa cúc giúp xua tan mệt mỏi, giải tỏa căng thẳng, tức giận, buồn bực. Ngoài ra, nó cũng có tác dụng tốt với các bệnh như đau lưng, đau thần kinh, phong thấp.


Vị trí trên bàn chân có liên quan đến các cơ quan khác trên cơ thể. 
Cách thức thực hiện
- Dùng nước sạch đun nóng đến 50 - 60 độ rồi cho vào chậu gỗ hay sứ để ngâm.
- Người bệnh ngồi thẳng, cởi bỏ giầy tất rồi ngâm chân vào nước đã chuẩn bị.
- Mỗi ngày thực hiện một lần vào khoảng thời gian tối trước khi đi ngủ.
- Thời gian ngâm từ 10 - 15 phút.
Lưu ý khi ngâm chân chữa bệnh
- Đối với người cao tuổi, trẻ em hay người bệnh không tự chủ được hành vi cần có người giúp đỡ, giám sát khi tiến hành ngâm chân để không gây tai nạn.
- Nếu nhiệt độ nước hơi cao thì có thể chế thêm nước lạnh để phù hợp với khả năng chịu đựng của người bệnh rồi hãy ngâm.

17/09/2015

Hình ảnh Hà Nội những sau năm hòa bình lập lại của nhiếp ảnh gia Hungary

   Hình ảnh trích từ cuốn sách ảnh về miền Bắc Việt Nam những năm đầu sau Hiệp định Geneve 1954, được xuất bản năm 1960 tại Budapest, thủ đô Hungary. 
   Tác giả của ấn phẩm này là ký giả lão thành, nhà ngoại giao và sưu tầm văn hóa Patkó Imre và nhiếp ảnh gia, phóng viên ảnh nổi tiếng Rév Miklós.
   Hình ảnh được scan và giới thiệu trên tài khoản Facebook của thành viên nick Binh Dang.
Cảnh tượng nhộn nhịp tại khu vực chợ Đồng Xuân.
Thiếu nữ cầm những cành đào ở Hà Nội ngày giáp Tết.
 Một góc phố cổ Hà Nội.
 Phương tiện giao thông trên đường phố Hà Nội thập niên 1950 chủ yếu là xe đạp và xích lô.
 Trên phố Hàng Ngang.
 Hai em bé bán lồng bàn gần bến tàu điện.
 Ngã tư Tràng Tiền - Hàng Bài bên bờ hồ Gươm.
 Phố Hàng Buồm, khu phố của người Hoa ở Hà Nội xưa.
 Trên ban công các tòa nhà mặt tiền phố Hàng Bạc.
 Những tấm áp-phích bên ngoài một rạp phim.
 Người Hoa ở khu phố cổ Hà Nội múa lân mừng năm mới.
 Áp-phích cổ động phát triển nông nghiệp ở bờ hồ Gươm.
 Phố Hàng Bạc.
 Chú bé bán rong trước cổng một ngôi chùa.
 Một góc nhìn tuyệt đẹp về khu phố cổ Hà Nội thập niên 1950.
 Các cậu bé xem phim thùng lưu động trên phố.
 Em bé chăn trâu ở miền quê Bắc Bộ.

15/09/2015

Đại cương về huyệt

 

  • Khai thông & bấm huyệt bên lành trước, bên bệnh sau
  • Bên nào mạch mạnh hơn thì khai thông & bấm huyệt trước – bên mạch yếu khai thông & bấm huyệt sau.
  • Nếu 2 mạch bằng nhau: khai thông & bấm huyệt bên phải trước – bên trái sau
  • Nguyên tắc xem mạch
    • Tập trung tư tưởng, đừng để tâm thần phân tán.
    • Thở đều để định tức.

 ĐẠI CƯƠNG VỀ HUYỆT
I. ĐỊNH NGHĨA HUYỆT 
Theo sách Linh khu thiên Cửu châm thập nhị nguyên: “Huyệt là nơi thần khí hoạt động vào - ra; nó được phân bố khắp phần ngoài cơ thể”.
Có thể định nghĩa huyệt là nơi khí của tạng phủ, của kinh lạc, của cân cơ xương khớp tụ lại, tỏa ra ở phần ngoài cơ thể. Nói cách khác, huyệt là nơi tập trung cơ năng hoạt động của mỗi một tạng phủ, kinh lạc…., nằm ở một vị trí cố định nào đó trên cơ thể con người. Việc kích thích tại những huyệt vị này (bằng châm hay cứu) có thể làm những vị trí khác hay bộ phận của một nội tạng nào đó có sự phản ứng nhằm đạt được kết quả điều trị mong muốn.
Huyệt không những có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động sinh lý và các biểu hiện bệnh lý của cơ thể, mà còn giúp cho việc chẩn đoán và phòng chữa bệnh một cách tích cực.
Theo các sách xưa, huyệt được gọi dưới nhiều tên khác nhau: du huyệt, khổng huyệt, kinh huyệt, khí huyệt, cốt huyệt ..... Ngày nay huyệt là danh từ được sử dụng rộng rãi nhất.
Các nhà khoa học ngày nay chỉ công nhận sự hiện hữu của huyệt vị châm cứu về mặt hiệu quả trị liệu và về mặt điện sinh vật 

II. TÁC DỤNG CỦA HUYỆT VỊ CHÂM CỨU THEO ĐÔNG Y
A. TÁC DỤNG SINH LÝ 
Huyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà nó phụ thuộc. Ví dụ huyệt thái uyên thuộc kinh Phế có quan hệ mật thiết:
- Với kinh Phế. 
- Với các tổ chức có đường kinh Phế đi qua.
- Với các chức năng sinh lý của tạng Phế.

B. TÁC DỤNG TRONG BỆNH LÝ 
Theo YHCT, huyệt cũng là cửa ngõ xâm lấn của các nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài. Khi sức đề kháng của cơ thể (chính khí) bị suy giảm thì các nguyên nhân bên ngoài (YHCT gọi là tà khí) dễ xâm lấn vào cơ thể qua các cửa ngõ này để gây bệnh.
Mặt khác, bệnh của các tạng phủ kinh lạc cũng được phản ánh ra ở huyệt: hoặc đau nhức tự nhiên, hoặc ấn vào đau, hoặc màu sắc ở huyệt thay đổi (trắng nhợt, đỏ thẫm), hoặc hình thái thay đổi (bong biểu bì, mụn nhỏ hoặc sờ cứng bên dưới huyệt).

C. TÁC DỤNG CHẨN ĐOÁN 
Dựa vào những thay đổi ở huyệt đã nêu trên (đau nhức, đổi màu sắc, co cứng...) ta có thêm tư liệu giúp chẩn đoán nhất là chẩn đoán vị trí bệnh (ví dụ huyệt Tâm du đau hoặc ấn đau làm ta nghĩ đến bệnh ở Tâm). 
Những biểu hiện bất thường ở huyệt thường chỉ có giá trị gợi ý cho chẩn đoán. Để có được chẩn đoán xác định cần dựa vào toàn bộ phương pháp chẩn đoán của YHCT.

D. TÁC DỤNG PHÒNG VÀ CHỮA BỆNH 
Huyệt còn là nơi tiếp nhận các kích thích khác nhau. Tác động lên huyệt với một lượng kích thích thích hợp có thể làm điều hòa được những rối loạn bệnh lý, tái lập lại hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể.
Tác dụng điều trị này của huyệt tùy thuộc vào mối liên hệ giữa huyệt và kinh lạc tạng phủ, ví dụ: Phế du (bối du huyệt của Phế) có tác dụng đối với chứng khó thở, ho…; Túc tam lý (hợp huyệt của kinh Vị) có tác dụng đối với chứng đau bụng. 

III. PHÂN LOẠI HUYỆT
Căn cứ vào học thuyết Kinh lạc, có thể chia huyệt làm 3 loại chính:
1. Huyệt nằm trên đường kinh (huyệt của kinh - kinh huyệt): 
Huyệt của kinh là những huyệt trên 12 kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc. 
Một cách tổng quát, tất cả các huyệt vị châm cứu đều có những tác dụng chung trong sinh lý và bệnh lý như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, có những huyệt có vai trò quan trọng hơn những huyệt khác trong điều trị và chẩn đoán. Những huyệt này đã được người xưa tổng kết lại và đặt thêm tên cho chúng như nguyên, lạc, khích, ngũ du, bối du… Có thể tạm gọi đây là tên chức vụ của các huyệt vị châm cứu (ngoài tên gọi riêng của từng huyệt).
Những huyệt quan trọng này gồm: 
Huyệt nguyên
Thường được người thầy thuốc châm cứu xem là “huyệt đại diện” của đường kinh. Mỗi kinh chính có 1 huyệt nguyên. 
Vị trí các huyệt nguyên thường nằm ở cổ tay, cổ chân hoặc gần đó. 
Do tính đại diện của nguyên huyệt mà chúng thường được dùng để chẩn đoán và điều trị những bệnh hư, thực của tạng, phủ, kinh lạc tương ứng. 
Huyệt lạc:
Huyệt lạc là nơi khởi đầu của lạc ngang giúp nối liền giữa kinh dương và kinh âm tương ứng, thể hiện được quy luật âm dương, mối quan hệ trong ngoài, quan hệ biểu lý.
Mỗi kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc có 1 huyệt lạc. Ngoài ra do tính chất quan trọng của hệ thống Tỳ mà có thêm đại lạc của Tỳ. Tổng cộng có 15 huyệt lạc. 
Do đặc điểm giúp nối liền 2 kinh có quan hệ biểu lý mà huyệt lạc thường được dùng để điều trị bệnh của kinh có huyệt đó, đồng thời điều trị cả bệnh của kinh có quan hệ biểu lý với nó. 
Huyệt bối du (huyệt du ở lưng):
Những huyệt du ở lưng đều nằm dọc hai bên cột sống, cách đường giữa 1,5 thốn. Những huyệt này đều nằm trên kinh Bàng quang (đoạn ở lưng), nhưng đã được người thầy thuốc xưa đúc kết, ghi nhận có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh ở những tạng phủ khác nhau, ví dụ như Phế du là huyệt thuộc kinh Bàng quang nhưng lại có tác dụng chủ yếu trên tạng Phế nên được người xưa xếp vào huyệt du ở lưng của tạng Phế. 
Người xưa cho rằng khí của tạng phủ tụ lại ở lưng tại một huyệt du tương ứng.
Huyệt mộ
Huyệt mộ cũng được tổng kết theo cùng nguyên lý như huyệt bối du, nhưng có hai điểm khác: 
- Huyệt mộ có vị trí ở ngực và bụng.
- Huyệt mộ nằm trên nhiều đường kinh mạch khác nhau (ví dụ như huyệt Thiên xu - huyệt mộ của Đại trường, nằm trên kinh Vị; huyệt Trung quản - mộ huyệt của Vị, nằm trên mạch Nhâm). 
* Huyệt ngũ du
Huyệt ngũ du là nhóm 5 huyệt, có vị trí từ khuỷu tay và gối trở ra đến ngọn chi. Chúng được gọi tên theo thứ tự tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp. 
Đặc tính của huyệt ngũ du là có thể điều trị những chứng bệnh của bản kinh rất tốt. 
Những huyệt ngũ du thường được sử dụng trong điều trị theo hai cách: theo tác dụng chủ yếu của từng loại huyệt và theo luật ngũ hành sinh khắc  
Huyệt khích:
Khích có nghĩa là khe hở, ý muốn diễn đạt đây là những khe nơi mạch khí tụ tập sâu trong cơ thể. Về mặt vị trí, những khích huyệt thường tập trung phân bố ở giữa kẽ gân và xương. 
Huyệt khích cũng thuộc vào những yếu huyệt của kinh mạch. Mỗi kinh mạch trong 12 kinh chính đều có một huyệt khích. Ngoài ra mỗi mạch âm kiểu, dương kiểu, âm duy, dương duy cũng có 1 huyệt khích. Tổng cộng có 16 huyệt khích và tất cả đều nằm trên kinh chính. 
Huyệt hội (bát hội huyệt):
Huyệt hội là những huyệt có tác dụng chữa bệnh tốt cho những tổ chức (theo Đông y) của cơ thể. Có 8 loại tổ chức trong cơ thể: tạng, phủ, khí, huyết, xương, tủy, gân, mạch. Vì thế có tên chung là tám hội huyệt (bát hội huyệt). Tám huyệt hội đều nằm trên kinh chính và mạch Nhâm. 
Giao hội huyệt:
Là nơi những đường kinh và mạch (2 hoặc nhiều hơn) gặp nhau. Hiện tại, trong các sách châm cứu có tổng cộng 94 giao hội huyệt được liệt kê. Những giao hội huyệt đều nằm trên kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc.
Đặc tính của những huyệt giao hội là để chữa cùng lúc những bệnh của tất cả những kinh mạch có liên quan (châm một huyệt mà có tác dụng trên nhiều kinh mạch). 

2. Huyệt nằm ngoài đường kinh (huyệt ngoài kinh - ngoại kỳ huyệt):
Được những nhà châm cứu xếp vào nhóm huyệt ngoài kinh là những huyệt không thuộc vào 12 kinh chính. Một cách tổng quát, huyệt ngoài kinh thường nằm bên ngoài các đường kinh. Tuy nhiên cũng có một số huyệt, dù nằm trên đường tuần hoàn của kinh mạch chính, song không phải là huyệt của kinh mạch ấy, như huyệt Ấn đường nằm ngay trên mạch Đốc, nhưng không phải huyệt của mạch Đốc.
Có tất cả hơn 200 huyệt ngoài kinh. Đây là những huyệt không thấy đề cập trong sách Nội kinh, mà do các nhà châm cứu đời sau quan sát và phát hiện dần. 
Từ năm 1982, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học với sự tham gia của nhiều chuyên gia châm cứu của những quốc gia được xem là hàng đầu trong lĩnh vực châm cứu (những Hội nghị liên vùng) nhằm thống nhất nhiều nội dung quan trọng của châm cứu như số lượng huyệt kinh điển, danh xưng quốc tế của kinh lạc, huyệt ngoài kinh, đầu châm, hệ thống đơn vị đo lường… Năm 1984, Hội nghị Tokyo đã chấp nhận 31 huyệt ngoài kinh. 
Tất cả những huyệt trên đều là những huyệt ngoài kinh đã được ghi trong sách kinh điển và rất thông dụng. Hội nghị HongKong năm 1985 chấp nhận thêm 5 huyệt ngoại kỳ kinh điển và thêm 12 huyệt ngoại kỳ mới. Huyệt ngoại kỳ đã được thảo luận và chọn dựa theo những tiêu chí sau: 
- Phải là những huyệt thông dụng. 
- Phải có hiệu quả trị liệu lâm sàng. 
- Phải có vị trí giải phẫu rõ ràng. 
- Phải cách tối thiểu huyệt kinh điển (huyệt trên đường kinh) 0,5 thốn. 
Nếu huyệt ngoài kinh có tên trùng với huyệt kinh điển thì phải thêm phía trước tên huyệt ấy một tiếp đầu ngữ (prefix). Có tất cả 48 huyệt ngoài kinh đáp ứng đủ những tiêu chí trên, gồm 15 ở đầu mặt, 1 ở ngực bụng, 9 ở lưng, 11 ở tay và 12 ở chân. Ký hiệu quốc tế thống nhất cho huyệt ngoài kinh là Ex. 

3. Huyệt ở chỗ đau (a thị huyệt): 
Đây là những huyệt không có vị trí cố định, cũng không tồn tại mãi mãi.
Chúng chỉ xuất hiện tại những chỗ đau. Huyệt a thị còn được gọi là huyệt không cố định (Châm phương) hoặc huyệt thiên ứng (Y học cương mục). 
Cơ sở lý luận của việc hình thành huyệt a thị là nguyên lý “Lấy chỗ đau làm huyệt” của châm cứu học (được ghi trong Nội kinh). 
A thị huyệt thường được sử dụng trong điều trị các chứng đau nhức cấp hoặc mạn tính. 

IV. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT HIỆN HUYỆT 
A. Giai đoạn huyệt chưa có vị trí cố định
Đó là giai đoạn sơ khai, con người chỉ biết rằng chỗ nào khó chịu, không được thoải mái thì đấm vỗ hoặc chích vào nơi ấy: đó là cách lấy huyệt tại chỗ đau hay cục bộ (đau ở đây gồm đau tự phát và ấn vào đau). Phương pháp này chọn huyệt không có vùng quy định và dĩ nhiên cũng không có tên huyệt.
B. Giai đoạn có tên huyệt:
Qua thực tế trị liệu, con người đã biết được: bệnh chứng “A” thì châm cứu ở một vài vị trí nào đó có thể trị được bệnh. Từ đó dần dần ghi nhận được huyệt vị không những có thể trị được bệnh tại chỗ, lại còn có thể trị được bệnh chứng ở vùng xa hơn. Khi ấy, người ta đã tích lũy được kinh nghiệm tương đối nhiều, sự hiểu biết tương đối có suy luận. Vì vậy, giai đoạn này huyệt được xác định vị trí rõ ràng và được đặt tên riêng rẽ.
C. Giai đoạn phân loại có hệ thống:
Với kinh nghiệm, thực tế điều trị được tích lũy lâu đời kết hợp với các quy luật triết học Đông phương (âm dương, ngũ hành) ứng dụng vào y học, các thầy thuốc lúc bấy giờ đã phân tích, tổng hợp để hình thành lý luận kinh lạc, có quan hệ chặt chẽ với hệ thống phân loại huyệt.
Các sách xưa đã mô tả 49 đơn huyệt, 300 huyệt kép, tất cả là 349 huyệt có tên. Về sau qua nhiều thời đại, các sách vở lại gia tăng thêm số huyệt. Từ năm 1982, tổ chức WHO đã thống nhất được 361 huyệt kinh điển. 

V. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐẶT TÊN HUYỆT VỊ CHÂM CỨU
Huyệt trên cơ thể có hơn cả ngàn huyệt (chung cả hai bên phải và trái). Ngoài tên các kỳ huyệt (huyệt ngoài kinh) và tên các tân huyệt (huyệt được liệt kê sau này dưới nhãn quan Tây y học), có tất cả 361 tên huyệt. 
Như đã trình bày ở trên, ban đầu huyệt không có tên riêng. Qua nhiều thời gian, vị trí và tác dụng điều trị của từng huyệt đã dần được xác lập. Để dễ ghi nhớ và sử dụng, người xưa đã đặt tên cho từng huyệt theo đặc điểm và hiệu quả trị liệu của nó, trong đó có nhiều huyệt cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên tên ban đầu. 
Có thể thấy việc đặt tên huyệt châm cứu của người xưa đã dựa trên những cơ sở như: hình thể sự vật, vị trí và tác dụng trị liệu của huyệt…
A. Dựa vào hình thể của sự vật
Những huyệt mà tên gọi có mang những từ sơn (núi) như Thừa sơn, Khưu (gò) như Khâu khưu,lăng (gò lớn) như Âm lăng tuyền, Dương lăng tuyền là những huyệt thường có vị trí gần nơi xương gồ lên dưới da (các ụ xương). 
Những huyệt mà tên gọi có mang những từ khê (khe) như Giải khê, Thái khê; cốc (hang) như Hợp cốc; cấu (rãnh, ngòi) như Thủy cấu; trì (ao) như Phong trì; tuyền (suối) như Dũng tuyền; uyên (vực sâu) như Thái uyên; tỉnh (giếng) như Thiên tỉnh là những huyệt thường có vị trí ở những vùng hõm của cơ thể. 
Những huyệt có tên rất tượng hình như Độc tỵ (mũi nghé) ở dưới xương bánh chè, huyệt Cưu vĩ(đuôi chim ưng) ở mũi kiếm xương ức, huyệt Phục thỏ (thỏ ẩn núp) ở mặt trước ngoài đùi cũng là những minh họa về cách đặt tên này. 
B. Dựa vào vị trí của huyệt trên cơ thể
Một số tên huyệt giúp gợi nhớ thông qua vị trí của chúng trên cơ thể.
Những tên huyệt có mang từ kiên (vai) như Kiên tỉnh, Kiên ngung giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở vai. Những tên huyệt có mang từ dương như Dương lăng tuyền, Dương trì, Dương quan; ngoại như Ngoại quan giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở mặt ngoài và sau của cơ thể. Những tên huyệt có mang từ âm như Âm lăng tuyền, Âm giao; nội như Nội quan giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở mặt trong và trước của cơ thể (tay chân). 
Cũng với cơ sở trên mà những huyệt như Tiền đính (ở trên đầu phía trước), Hậu đính (ở trên đầu phía sau), Giáp xa (ở hàm dưới), Nhũ trung (giữa hai vú), Thái dương (ở màng tang, vùng thái dương), Yêu du (ở eo lưng). 
C. Dựa vào tác dụng trị liệu của huyệt:
Những tên huyệt mang từ phong (gió) như huyệt Phong trì, Phong môn dùng để trị và phòng chống cảm cúm. 
Huyệt Tình minh (con ngươi sáng) dùng để trị thị lực kém. 
Huyệt Nghinh hương (đón mùi thơm) dùng để trị những bệnh ở mũi. 
Huyệt Thính cung, Thính hội dùng để trị những trường hợp thính lực rối loạn. 
Huyệt Thủy phân, Phục lưu (dòng chảy ngược lại) dùng để trị phù thũng. 
Huyệt Á môn trị những trường hợp câm.
Huyệt Huyết hải trị những trường kinh nguyệt không đều. 
4. Những tên gọi khác nhau của huyệt
Hiện nay, có thể thấy cùng một huyệt được gọi với nhiều tên khác nhau. 
Để tiện tham khảo chúng tôi cố gắng ghi lại những tên khác nhau của huyệt (nếu có). Theo Lê Quý Ngưu, sở dĩ có tình trạng nêu trên là do:
- Do có sự khác nhau ngay trong các sách kinh điển cổ xưa của Đông y. Huyệt Đốc du trong Châm cứu đại thành là huyệt đốc mạch du trong y tâm phương.
- Các sách xưa gọi tên một huyệt dưới nhiều tên gọi khác nhau. Huyệt Bách hội còn được gọi dưới những tên: Tam dương ngũ hội, nê hoàn cung, duy hội, quỷ môn, thiên sơn, điên thượng, thiên mãn … 
- Do “Tam sao thất bổn”: một số huyệt khi phiên âm qua tiếng Việt, với nhiều khác biệt về địa phương, thổ ngữ khác nhau, nhiều tư liệu khác nhau dẫn đến nhiều tên gọi khác. Ví dụ như Bách lao còn được gọi Bá lao, Chi chánh và Chi chính, Châu vinh và Chu vinh, Đại trữ và Đại chữ, Hòa liêu và Hòa giao.

HUYỆT VỊ CHÂM CỨU
- Huyệt là nơi thần khí hoạt động vào ra; nó được phân bố khắp phần ngoài cơ thể”. Trong Đông y học, huyệt vị châm cứu giúp cho việc chẩn đoán và phòng chũa bệnh. 
- Các tên gọi khác nhau của huyệt: du huyệt, khổng huyệt, kinh huyệt, khí huyệt, cốt huyệt... Ngày nay huyệt là danh từ được sử dụng rộng rãi nhất. 
- Huyệt là nơi mà điện trở da (résistance cutanée) và trở kháng (incompédance) luôn thấp hơn vùng da xung quanh. 
- Huyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà nó phụ thuộc. Do tính chất này mà huyệt được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh của đường kinh tương ứng mà nó thuộc vào. 
- Có 3 loại huyệt châm cứu: 
+ Huyệt nằm trên đường kinh (huyệt của kinh - kinh huyệt). 
+ Huyệt nằm ngoài đường kinh (huyệt ngoài kinh - ngoại kỳ huyệt). 
+ Huyệt ở chỗ đau (a thị huyệt). A thị huyệt thường được sử dụng trong các chứng đau nhức cấp hoặc mạn tính. 
- Những loại huyệt quan trọng trên đường kinh: huyệt nguyên, huyệt lạc, bối du huyệt, huyệt mộ, huyệt ngũ du, huyệt khích, huyệt bát hội, giao hội huyệt. 
- Huyệt vị trên đường kinh châm cứu phát triển dần theo thời gian: từ huyệt không có tên đến huyệt có tên; từ 349 huyệt đến 361 huyệt hiện nay. 
- Việc đặt tên huyệt châm cứu của người xưa đã dựa trên những cơ sở sau:
+ Dựa vào hình thể sự vật. 
+ Dựa vào vị trí của huyệt trên cơ thể. 
+ Dựa vào tác dụng trị liệu của huyệt.
Trên lâm sàng, việc châm đạt hiệu quả hay không, phụ thuộc khá nhiều vào việc xác định đúng vị trí huyệt, vì có nhiều khi, chẩn đoán đúng bệnh nhưng châm không đúng huyệt thì hiệu quả cũng không thể đạt được.. Vì vậy, cần phải nắm vững phương pháp lấy huyệt cho chính xác.
 Bằng những kinh nghiệm tỉ mỉ và lâu dài, các nhà châm cứu xưa và nay đã tìm ra 1 số phương pháp giúp lấy huyệt như sau:
a) Chia Đoạn Từng Phần Cơ Thể: phương pháp này gọi là 'Cốt Độ
Pháp' được ghi tỉ mỉ trong thiên 'Cốt Độ' (Linh Khu 14). theo đó:
+ Cơ thể con người được chia 38 phần ngang và dọc.
+ Chiều cao mọi người từ đầu đến chân là 75 thốn.
+ Thốn được phân bằng 1/75 chiều cao của mỗi người.
Cụ thể được phân chia như sau:

Mốc Vị Trí Của Cơ Thể
Đơn Vị Đo Theo Linh Khu
+ Từ chân tóc trán đến chân tóc gáy
12 thốn
+ Giữa 2 góc tóc trán ( 2 huyệt Đầu Duy)
09 thốn
+ Giữa chân tóc trán đến chân tóc gáy
12 thốn
+ Giữa 2 lông mày (Ấn Đường) đến chân tóc trán
03 thốn
+ Chân tóc gáy đến huyệt Đại Chùy
03 thốn
+ Giữa 2 huyệt Hoàn Cốt (giữa 2 mỏm trâm chũm)
09 thốn
+ Từ bờ trên xương ức (huyệt Thiên Đột) đến góc 2 cung sườn (huyệt Trung Đình)
09 thốn
+ Từ huyệt Trung Đình đến giữa rốn (huyệt Thần Khuyết)
08 thốn
+ Giữa rốn đến bờ trên xương mu (huyệt Khúc Cốt)
6, 5 thốn
+ Khoảng cách giữa 2 đầu vú
08 thốn
+ Khoảng cách của 2 góc trên -trong xương bả vai
06 thốn
+ Đỉnh của nách tới bờ xương cụt (huyệt Chương Môn)
12 thốn
+ Từ huyệt Chương Môn đến huyệt Hoàn Khiêu (ngang mấu chuyển lớn)
09 thốn
+ Từ huyệt Hoàn Khiêu đến đỉnh ngang bờ trên xương bánh chè (huyệt Hạc Đỉnh)
19 thốn
+ Từ huyệt Đại Chùy (dưới mỏm gai đốt sống cổ 7) đến bờ dưới xương cùng
30 thốn
+ Từ ngang đầu nếp nách trước đến ngang khớp khủy tay
09 thốn
+ Từ ngang đầu nếp nách sau đến ngang khớp khủy
09 thốn
+ Lằn chỉ cổ tay đến lằn chỉ khớp khủy trước
12, 5 thốn
+ Ngang khớp khủy sau đến ngang khớp cổ tay
12 thốn
+ Lằn chỉ cổ tay đến khớp bàn tay
04 thốn
+ Từ huyệt Khúc Cốt đến ngang bờ trên lồi cầu trong xương đùi
18 thốn
Từ huyệt Âm Lăng Tuyền (Ngang bờ dưới lồi củ trong xương chầy) đến đỉnh cao mắt cá chân trong
13 thốn
+ Từ nếp nhượng chân (huyệt Ủy Trung) đến đỉnh mắt cá chân ngoài
13 thốn
+ Từ bờ sau gót chân đến đầu ngón chân thứ 2
12 thốn
+ Từ ngang lồi cầu cao nhất của mắt cá chân trong đến mặt đất
03 thốn
b) Cách Dùng Các Phần Ngón Tay Người Bệnh Để Đo
Cách phân chia theo tiết đoạn này tương đối dễ lấy và định huyệt 1 cách nhanh chóng, ngoài ra, còn tránh được sai lệch do sự cấu tao của thân thể người bệnh và thầy thuốc. Thí dụ người bệnh có tay chân quá dài, lấy theo thốn tay dễ bị sai lạc.
Cách đo này, người xưa gọi là 'Đồng Thân Thốn'.
+ Đồng Thân Thốn là gì? Bảo người bệnh co đầu ngón tay giữa vào cho chạm đầu ngón tay cái thành hình vòng tròn, chỗ tận cùng bề ngang của 2 lằn chỉ lóng giữa ngón tay trỏ được gọi là 1 đồng thân thốn, và thường được gọi tắt là 1 thốn.
+ Chiều ngang 4 ngón tay: bảo người bệnh duỗi bàn tay, ép sát 4 ngón tay (trừ ngón cái ra), bề ngang tính từ ngóng út đến ngón trỏ được tính là 3 thốn. Cách đo này thường dùng để lấy những huyệt có bề dài khoảng cách 3 thốn, thí dụ: huyệt Tam Âm Giao (cách đỉnh mắt cá chân trong 3 thốn - Để 4 ngang ngón tay lên đỉnh mắt cá chân trong, cuối của 4 ngang ngón tay này là huyệt), Huyền Chung (Đ.39)...
+ Chiều ngang của 3 ngang ngón tay (trừ ngón cái và ngón út) được coi là 2 thốn. Cách này dùng để lấy các huyệt có khoảng cách 2 thốn như huyệt Thủ Tam Lý (Đtr.10), Phục Lưu (Th.7), Nội Quan (Tb.6)...
+ Chiều ngang của 2 ngón tay giữa và trỏ tương đương 1, 5 thốn.
+ Chiều ngang qua gốc ngón tay cái (chỗ cao nhất khi gập ngón tay lại), tương đương 1 thốn, cũng gọi là 1 khoát.
Theo tạp chí ‘Thông Tin YHCTDT’ số 45/1984 về các loại thốn để đo đối với người Việt Nam cao trung bình 1m58 thì:
. Chiều dài trung bình thốn của đốt ngón tay giữa (thốn): 2, 11cm.
. Chiều dài trung bình thốn ngang 4 ngón tay: 2, 2cm.
. Chiều dài trung bình thốn ngang ngón cái (khoát): 2, 0cm.
Tỉ số chênh lệch giữa các loại thốn trên là vào khoảng 0, 1cm (0, 5%), và đối với thống kê học, thì tỉ số chênh lệch này không đáng kể và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong khoảng cách ngắn thì còn ít sai số và chênh lệch nhưng càng nhiều thì tỉ số càng lớn và sai sót càng nhiều. Vì vậy, nên dùng cách đo này khi cần đo khoảng cách ngắn mà thôi.
c) Phương Pháp Dùng Các Mốc Giải Phẫu Hoặc Hình Thể Tự Nhiên
Có rất nhiều vị trí gắn liền với 1 mốc điểm của giải phẫu cơ thể, vì vậy, có thể dùng ngay những vị trí xác định đó làm chuẩn để định huyệt cho chính xác.
c.1) Dựa Vào Các Cấu Tạo Cố Định: Tai, mắt, mũi, miệng...
Thí dụ: Huyệt Tình Minh (Bq.1), ở sát khoé mắt trong.
Huyệt Thừa Tương (Nh.24) ở đáy chỗ lõm giữa môi dưới.
c.2) Dựa Vào Các Nếp Nhăn Của Da Làm Mốc
Thí dụ: Huyệt Đại Lăng (Tb.7) ở giữa nếp gấp cổ tay trong.
Huyệt Ủy Trung (Bq.40) ở giữa nếp gấp nhượng chân.
c.3) Dựa Vào Đặc Điểm Xương Làm Mốc
Thí dụ: Huyệt Dương Khê (Đtr.5) ở đầu mỏm trâm quay.
Huyệt Đại Chuỳ (Đc.14) ở dưới đầu mỏm gai đốt sống cổ thứ 7 ...
c.4) Dựa Vào Gân, Cơ Làm Chuẩn
Thí dụ: Huyệt Thừa Sơn (Bq.57) ở đỉnh góc tạo nên bởi 2 thân cơ tiếp giáp nhau và cùng bám vào gân gót chân.
Huyệt Tý Nhu (Đtr.14) ở ngang chỗ bám của cơ Delta vào xương cánh tay.
c.5) Lấy Huyệt Dựa Vào Tư Thế Hoạt Động Của 1 Bộ Phận
Phương pháp này đòi hỏi người bệnh phải thực hiện 1 số động tác nhất định như co tay lại, cúi đầu xuống...
Thí dụ: Co tay vào ngực để lấy huyệt Khúc Trì (Đtr.11).
Đứng thẳng người, tay áp vào đùi để lấy huyệt Phong Thị (Đ.31).
Cúi đầu xuống để lấy huyệt á Môn (Đc.15).
e) Lấy Huyệt Dựa Vào Cảm Giác Của Người Bệnh
e.1) Theo Cảm Giác Của Người Bệnh: vì huyệt là nơi dễ nhậy cảm và có phản ứng khi có bệnh, do đó, khi sờ ấn lên vùng huyệt, chỗ nào có biểu hiện đau nhiều nhất, đó thường là vị trí huyệt rõ nhất.
e.2) Theo Cảm Giác Của Thầy Thuốc: Khi cơ thể có bệnh, huyệt là nơi thông tin mạnh nhất, vì vậy, nó có thể thay đổi 1 số hình thái mà dùng mắt thường hoặc cảm giác ở tay có thể nhận biết được: chỗ huyệt đó mềm hơn, cứng hơn, nóng đỏ...
Phương pháp dựa trên cảm giác tương đối khá dễ nhưng còn nhiều hạn chế:
. Không thể áp dụng cho trẻ nhỏ vì chúng chưa đủ trình độ mô tả chính xác các cảm giác khi được hỏi.
. Thầy thuốc không có kinh nghiệm khó có thể nhận thấy những thay đổi đặc biệt nơi các huyệt trong cơ thể bệnh.
g) Dựa Vào Các Máy Móc Kỹ Thuật Hiện Đại
g.1) Dựa vào đặc tính thay đổi của từng huyệt, nhất là sự thay đổi điện trở của huyêt, các nhà nghiên cứu đã chế ra các máy đo điện trở để tìm ra vị trí của huyệt 1 cách tương đói nhanh chóng và chính xác.
Phương pháp này bảo đảm nhiều mặt thiếu sót của thầy thuốc nhưng không phải là mọi thầy thuốc đều có điều kiện sắm máy cũng như không phải máy nào cũng có độ chính xác cao.
g.2) Dựa vào đặc điểm thay đổi cảm giác của huyệt, nhất là các dấu hiệu đau khi ấn vào huyệt, người ta đã chế ra các loại que dò giúp dễ ấn tìm ra vị trí huyệt, nhất là khi tìm kiếm huyệt có vị trí đ\ừng kính nhỏ như huyệt ở vùng mặt (diện châm) hoặc ở loa tai (nhĩ châm)...
Trong thực tế lâm sàng, muốn chọn huyệt nhanh và chính xác, phải tuỳ theo vị trí huyệt mà chọn dùng 1 trong số những phương pháp nêu trên hoặc phối hợp cùng lúc 2 - 3 cách để hỗ trợ cho nhau.
Thí dụ: tìm huyệt Nội Quan (Tb.6):
. Có thể dùng 3 ngang ngón tay (2 thốn) đo từ giữa lằn chỉ cổ tay trong lên.
. Gấp bàn tay vào cẳng tay cho gân cơ gan tay lớn và cơ gan tay bé nổi rõ dưới mặt da để dễ lấy huyệt.
Như vậy, vừa phối hợp được cách lấy huyệt theo YHCT vừa theo cách lấy huyệt theo giải phẫu học của YHHĐ.
ĐƯỜNG VẬN HÀNH MẠCH ĐỐC
Từ huyệt Phong Phủ (Đc.16) có một nhánh chạy xuống vai và ba? vai để nối với kinh cân của Bàng quang, xuống mông, kết ở vùng sinh dục - tiết niệu.


- Khởi đầu từ chót xương cụt (tầng sinh môn).
- Nhô ra ở chỗ hội âm.
- Xuyên qua h. Trường Cường.
- Chạy dài lên theo chính giữa cột sống.
- Liên lạc với Thận ở vùng thắt lưng.
- Thẳng lên đến huyệt Phong Phủ (Đc.16).
- Đi vào trong não.
- Lại đi lên đỉnh đầu (huyệt Bá Hội - Đc.20).
- Theo trán đi xuống mũi, môi trên (huyệt Ngân Giao - Đc.28) và hợp với kinh Cân của kinh Vị và mạch Nhâm.
- Từ huyệt  Phong Phủ (Đc.16) có một nhánh chạy xuống vai và ba? vai để nối với kinh cân của Bàng quang, xuống mông, kết ở vùng sinh dục - tiết niệu.  - Nhánh phía trong, ở vùng sinh dục, tách ra ở giữa vùng lông của hội âm, ở huyệt  Trung Cực (Nh 3) (theo thiên ‘Cốt Không Luận’ TVấn.60), từ đây tách ra 2 nhánh:
+ Một nhánh thẳng (nhánh bụng) đi theo kinh cân của Tỳ và nhập vào rốn, đi dọc theo vách trong của bụng, qua tim, vòng ở ngực để nối với mạch trước của kinh cân Bàng quang, vào họng và mặt, nhập vào giữa mắt và kết thúc ở huyệt  Tinh Minh (Bq.1).
+ Nhánh lưng đi theo bộ phận sinh dục, qua trực trường, quay lại mông và nối với kinh cân của Bàng quang để lên đầu, tới góc trong mắt ở huyệt Tinh Minh (Bq.1), nhập vào não. Từ huyệt Tinh Minh, đi dọc theo kinh chính Bàng quang để xuống gáy, xuống vùng Thận ở huyệt Thận Du (Bq.23) nhập vào trong Thận.
1. Hội âm: Vị trí: Ở giữa tiền âm và hậu âm (đàn ông thì lấy điểm giữa đường nối bìu và hậu môn, đàn bà lấy điểm giữa đường nối giữa bờ sau môi lớn và hậu môn).

24 HUYỆT TRÊN NHÂM MẠCH:
1. Hội âm:
Vị trí: Ở giữa tiền âm và hậu âm (đàn ông thì lấy điểm giữa đường nối bìu và hậu môn, đàn bà lấy điểm giữa đường nối giữa bờ sau môi lớn và hậu môn).
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1-2 thốn, phụ nữ có thai cấm châm. Cứu 5 mồi. (Trước khi châm nhắc người bệnh đi tiểu tiện)
Chủ trị: Đái dầm, khó tiểu tiện, liệt dương, di tinh, nhiều khí hư, co dạ con không đều.
2. Khúc cốt
Vị trí: Ở bờ trên xương mu, nằm ngửa lấy huyệt từ giữa rốn xuống 5 thốn, ở đường chính giữa bụng.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1-2 thốn, phụ nữ có thai cấm châm. cứu 5 mồi (trước khi châm nhắc người bệnh đi tiểu tiện).
Chủ trị: Đái dầm, khó tiểu tiện, liệt dương, di tinh, nhiều khí hư, co dạ con không đều.
3. Trung cực
Vị trí: Phía trên huyệt Khúc cốt 1 thốn. Nắm ngửa lấy huyệt, từ giữa rốn thẳng xuống 4 thốn.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 0,8 đến 1 thốn, tê tức cục bộ, có khi lan xuống bộ phận sinh dục, phụ nữ có thai không châm. Cứu 5 mồi, hơ 5-10 phút.
Chủ trị: Di tinh, đái dầm, liệt dương, đau cắn dưới rốn, ỉa ra máu, ly, kinh nguyệt không đều, khí hư, đau bụng hành kinh, tắc kinh, băng huyết, lậu huyết.
Tác dụng phối hợp: Với Tam âm giao, trị trẻ em đái dầm; Với Quan nguyên, Tam âm giao, trị di tinh; Với Tử cung trị băng, xuất huyết dạ con (huyệt Tử cung ở huyệt Trung cực, sang ngang mỗi bên 3 thốn).
4. Quan nguyên
Vị trí: Ở dưới rốn, nằm ngửa lấy huyệt, từ giữa rốn xuống 3 thốn, từ Khúc cốt lên 3 thốn.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 0,8 đến 1,5 thốn, phụ nữ có thai không châm. Cứu 7 mồi, hơ 5-15 phút.
Chủ trị: Đau lưng, đau bụng, đau quanh rốn, đái dầm, di tinh, liệt dương, ỉa chảy, kinh
nguyệt không đều, băng lậu huyết, choáng váng sau đẻ, trúng gió hư thoát, ung nhọt trong ruột.
Tác dụng phối hợp: Với Tam âm giao, trị di tinh; Túc tam lý, trị 5 chứng lậu (đái buốt); với Khí hải, Dũng tuyền, trị bí đái sau đẻ.
5. Thạch môn:
Vị trí: Ở dưới rốn, từ giữa rốn xuống 2 thốn
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1 đến 1,5 thốn, phụ nữ có thai cấm châm cứu 3 mồi, hơ 5-15 phút..
Chủ trị: Kinh nguyệt quá nhiều, bế kinh sán khí, đau bụng, bí đái, đái dầm phù thũng, cao huyết áp.
Tác dụng phối hợp: Với Trung cực, Dương lăng tuyền trị đái dầm.
6. Khí hải:
Vị trí: Ở dưới rốn, nằm ngửa lấy huyệt, từ giữa rốn xuống 1,5 thốn.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 0,8-1,5 thốn, phụ nữ có thai không châm. Cứu 7 mồi, hơ 5-15 phút.
Chủ trị: Đau bụng, tảng sáng ỉa chảy (ngũ canh tiết), đau lưng, đái dầm, di tinh, kinh nguyệt không đều, băng lậu huyết, đau bụng hành kinh, tắc kinh, choáng váng sau đẻ, trúng gió hư thoát.
Tác dụng phối hợp: Với Tam âm giao, trị di tinh; Với Hành gian, Trung cực, trị đau bụng hành kinh; Với Huyết hải, Tam âm giao, trị kinh nguyệt không đều.
7. Âm giao
Vị trí: Thẳng rốn xuống 1 thốn, nằm ngửa lấy huyệt
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1,5-2,5 thốn. Cứu 7 mồi.
Chủ trị: Viêm niệu đạo, viêm nội mạc tử cung, kinh nguyệt không đều, đau bụng sau đẻ, sản dịch không đứt, ngứa âm hộ, đau sán khí.
8. Thần khuyết
Vị trí: Chính giữa rốn, nằm ngửa lấy huyệt
Cách châm: Cấm châm. Cứu cách muối, từ 5-15 mồi hoặc hơn nữa.
Chủ trị: Sôi bụng, đau bụng, ỉa chảy, ly trúng gió hư thoát, choáng váng sau đẻ.
Tác dụng phối hợp: Với Khí hải, Quan nguyên, Tam âm giao, trị trúng gió hư thoát.
9. Thuỷ phân
Vị trí: Giữa rốn thẳng lên 1 thốn, nằm ngửa lấy huyệt, phụ nữ có thai trên 5 tháng không châm
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1-2,5 thốn. cứu 3- 15 mồi.
Chủ trị: Khó tiểu tiện, phù nước, sôi bụng, ỉa chảy.
10. Hạ quản
Vị trí: Giữa rốn thẳng lên 2 thốn, nằm ngửa lấy huyệt, phụ nữ có thai trên 5 tháng không châm
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1-2,5 thốn. cứu 3-15 mồi
Chủ trị: Đau dạ dày, tiêu hoá kém, sa dạ dày, viêm ruột.
11. Kiến lý
Vị trí: Giữa rốn thẳng lên 3 thốn, nằm ngửa lấy huyệt, phụ nữ có thai trên 5 tháng không châm.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1 đến 2,5 thốn. Cứu 3-15 mồi
Chủ trị: Đau dạ dày, nôn mửa, tiêu hoá kém, phù nề, viêm phúc mạc
12. Trung quản
Vị trí: Trên rốn 4 thốn, nằm ngửa lấy huyệt, phụ nữ có thai trên 5 tháng không châm.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 0,8-1 thốn. Cứu 7 mồi, hơ 5-15 phút
Chủ trị: Đau da dày, trướng bụng, nôn mửa, ợ chua, ỉa chảy, ly, táo bón, mất ngủ, cao huyết áp.
Tác dụng phối hợp: Với Thiên khu, Túc tam lý, trị lỵ; với Túc tam lý, trị đau bụng.
13. Thượng quan:
Vị trí: Trên rốn 5 thốn, nằm ngửa lấy huyệt
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 1 đến 2 thốn, cứu 3-15 mồi.
Chủ trị: Viêm dạ dày, loét hành tá tràng, nôn mửa, trướng bụng, nấc.
14. Cự khuyết
Vị trí: Trên rốn 6 thốn, nằm ngửa lấy huyệt
Cách châm: Châm chếch kim xuống dưới, sâu 0,5-1 thốn. Cứu 3-15 mồi, hơ 5-10 phút.
Chủ trị: Bệnh tim, đau dạ dày, nôn mửa.
Tác dụng phối hợp: Với Tâm du, Thông lý, Khích môn, trị đau nhói vùng trước tim.
15. Cưu vỹ
Vị trí: Trên rốn 7 thốn, dưới lõm ức 1 thốn, đầu mũi nhọn xương ức
Cách châm: Châm chếch mũi kim xuống dưới, sâu 0,5-1,5 thốn. Không cứu.
Chủ trị: Đau vùng tim, chứng nghẹn, điên cuồng, động kinh.
Tác dụng phối hợp: Với Thần khuyết, Hậu khê, trị điên cuồng, động kinh.
16. Trung đình
Vị trí: Ở giữa ngực, ngang khe sườn 5-6, từ huyệt Chiên trung xuống 1,6 thốn.
Cách châm: Châm chếch kim, sâu 3-5 phân. cứu 5 mồi
Chủ trị: Ho, suyễn, trẻ em trớ sữa, nôn mửa
17. Chiên trung
Vị trí: Giữa đường nối hai núm vú trên ngực.
Cách châm: Châm dưới da, mũi kim ngược lên trên, xuống dưới, hoặc sang ngang, sâu 0,5- 1 thốn. Cứu 5 mồi, hơ 5-10 phút.
Chủ trị: Sữa không xuống, có nhọt ở vú, ho, hắng, hen, suyễn, nấc, đau ngực.
Tác dụng phối hợp: Với Thiếu trạch, Nhũ căn, trị ít sữa; Với Nội quan, Tam âm giao, trị đau tim; Với Thiên đột trị ho.
18. Ngọc đường
Vị trí: Trên huyệt Chiên trung 1,6 thốn, ngang với khe sườn 3-4.
Cách châm: châm chếch kim, sâu 0,3-0,5 thốn, cứu 3 mồi.
Chủ trị: Viêm phế quản, lao phổi, viêm hung mạc
19. Tử cung
Vị trí: Trên huyệt Chiên trung 3,2 thốn, ngang khe sườn 2-3
Cách châm: Châm chếch kim, sâu 0,3-0,5 thốn. Cứu 3 mồi.
Chủ trị: Viêm phế quản, lao phổi, viêm hung mạc..
20. Hoa cái
Vị trí: Dưới huyệt toàn cơ 1,6 thốn, ngay chính giữa xương ức, chỗ tiếp gián đoạn cán và thân xương ức.
Cách châm: Châm chếch kim, sâu 0,3-0,5 thốn. Cứu 3 mồi.
Chủ trị: Viêm hầu họng, đau ngực, ho hen.
21. Toàn cơ
Vị trí: Huyệt Thiên đột xuống 1 thốn.
Cách châm: Châm chếch kim, sâu 0,3-0,5 thốn. Cứu 3 mồi.
Chủ trị: Đau ngực, ho hen, hầu họng sưng đau.
22. Thiên đột
Vị trí: Chỗ lõm trên xương ngực, sát bờ trên xương ức, ngang với bờ trên xương đòn ở hai bên (phía trong xương ức)
Cách châm: Châm chếch mũi kim xuống phía trong xương ức, sâu 0,5 – 1 thốn. Cứu 3 mồi hơ 5 phút.
Chủ trị: Ho hắng, hen xuyễn, sưng họng, nấc, bướu  cổ, nôn mửa
Tác dụng phối hợp: Với Chiếu hải trị mai hạch khí (loạn cảm họng); Với Chiên trung trị ho hắng.
23. Liêm tuyền
Vị trí: Chỗ lõm phía trên yết hầu, ngửa cổ, đưa cằm ra phía trước, thầy thuốc dùng ngón tay cái chỉ xuống đặt nếp gấp ngang của ngón cái vào giữa cạnh xương cằm, đầu ngón quặp vào dưới hàm, tới đâu thì đó là huyệt.
Cách châm: Châm mũi kim hướng về huyệt não bộ, sâu 0,3 –0,5 thốn.
Cứu 3 mồi, hơ 5m phút.
Chủ trị: Sưng lưỡi, đau dưới lưỡi, trúng gió cứng lưỡi không nói, nuốt khó.
Tác dụng phối hợp: Với Trung xung trị dưới lưỡi sưng đau.
24. Thừa tương
Vị trí: Ở chỗ lõm giữa môi dưới, dựa ngửa đầu, há mồm, huyệt ở chỗ lõm.
Cách châm: Châm đứng kim, sâu 0,2–0,3 thốn. Cứu 1 mồi, hơ 5 phút.
Chủ trị: Cổ cứng, động kinh, đau răng, méo miệng, chảy dãi.
Tác dụng phối hợp: Với Phong phủ trị cổ gáy cứng đau; với Địa thương trị môi lở.

BIỂU HIỆN BỆNH LÝ NHÂM MẠCH
Biểu Hiện Bệnh Lý: Đái hạ, thiên trụy (Thoái vị bẹn), bụng có khối u, không sinh đẻ được, bệnh ở hệ tiết niệu, sinh dục, bao tử, họng, thanh quản, băng huyết.
Một trong Kỳ Kinh Bát Mạch.

Đường Vận Hành
Biểu Hiện Bệnh Lý
Công Năng
Điều Trị
Khởi đầu từ hố chậu,  nhô ra tại Hội âm, đi lên qua lông mu, theo đường giữa bụng lên ngực, họng, đến cằm (ở huyệt Thừa tương - Nh.24).
Từ huyệt Thừa tương,  mạch chạy quanh vùng miệng môi, hợp với mạch Đốc ở huyệt Ngân giao (Đc 28).
Chia làm 2 nhánh (phải và trái), lên mặt ở h.Thừa khấp (Vi 1) và nhập vào mắt.
Đường mạch xuất phát ở h. Cưu vĩ (Nh 15), và đi vào trong bụng.
Đái hạ, thiên trụy (Thoái vị bẹn), bụng có khối u, không sinh đẻ được, bệnh ở hệ tiết niệu, sinh dục, bao tử, họng, thanh quản, băng huyết.
Quản lý các kinh Âm,
Trợ dương khí.
.Châm Cưu vĩ  (Nh 15).
.Châm Liệt khuyết
(P 7), là huyệt giao hội với mạch Nhâm

 + Ghi Chú:
1 số điểm ghi nhớ về mạch Nhâm:
·  Hội âm: Huyệt Hội của 3 mạch Nhâm, Đốc và Xung,
·  Khúc cốt: Huyệt Hội của mạch Nhâm với kinh túc Quyết âm Can.
· Trung cực: Huyệt Mộ của Bàng quang.
     Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân (Can, Thận, Tỳ).
·  Quan nguyên: Huyệt Mộ của Tiểu trường,  Huyệt Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân (Can, Thận, Tỳ).
·  Thạch môn: Huyệt Mộ của Tam tiêu.
·   Khí hải: Bể của khí.
·   Âm giao: Huyệt Hội của mạch Nhâm, Xung và kinh Thận.
·   Trung quản: Huyệt Mộ của Vị, Huyệt Hội của Phủ. Huyệt Hội của mạch
·   Thượng quản: Huyệt Hội của mạch Nhâm với kinh Tam tiêu và Vị.
·   Cự khuyết: Huyệt Mộ của Tâm.
·   Cưu vĩ: Huyệt Lạc nối với mạch Đốc.
·   Chiên trung: Huyệt Mộ của Tâm bào. Huyệt Hội của Khí. Huyệt Hội củamạch Nhâm với kinh Tam tiêu, Tiểu trường, Tỳ và Thận.
·   Thiên đột: Huyệt Hội của mạch Nhâm với mạch Âm duy.
·  Liêm tuyền: Huyệt Hội của mạch Nhâm với mạch Âm duy.

80 huyệt thường dùng trong điều trị Bệnh

I. Mục tiêu
1. Mô tả được vị trí của 80 huyệt thường dùng.
2. Trình bày được tác dụng điều trị của 80 huyệt thường dùng.
II. Nội dung

1. Đại cương:
Châm cứu Xoa bóp Bấm huyệt là một phương pháp chữa bệnh tiện lợi, đơn giản, rẻ tiền và hiệu quả, phạm vi chữa bệnh tương đối rộng, có thể thực hiện tại các cơ sở y tế từ xã đến trung ương và tại gia đình.
Muốn Xoa bóp ,Bấm huyệt tốt cần nắm vững vị trí, tác dụng các huyệt, thực hiện kỹ thuật Xoa bóp thành thạo, chỉ định và chống chỉ định của phương pháp chữa bệnh bằng Xoa bóp bấm huyệt
2. Vị trí, tác dụng của 80 huyệt thường dùng điều trị 8 bệnh chứng thường gặp
2.1. Huyệt vùng tay: 13 huyệt


Tên huyệt

Vị trí - cách xác định

Tác dụng điều trị
1.Kiên  ngung
(Đại trường kinh)
- Chỗ lõm dưới mỏm cùng vai đòn, nơi bắt đầu của cơ Delta.
- Đau khớp vai, bả vai, đau đám rối thần kinh cánh tay, liệt dây mũ.
2. Khúc trì
(Đại trường kinh)
Gấp khuỷu tay 450, huyệt ở tận cùng phía ngoài nếp gấp khuỷu.
- Đau dây thần kinh quay, đau khớp khuỷu, liệt chi trên, sốt, viêm  họng.
3. Xích trạch
(Phế kinh)
- Trên rãnh nhị đầu ngoài, bên ngoài gân cơ nhị đầu, bên trong cơ ngửa dài, huyệt trên đường ngang nếp khuỷu
- Ho, sốt, viêm họng, cơn hen phế quản, sốt cao co giật ở trẻ em.
4. Khúc trạch
(Tâm bào lạc kinh)
- Trên rãnh nhị đầu trong, bên trong gân cơ nhị đầu, trên đường ngang nếp khuỷu.
- Sốt cao, đau dây thần kinh giữa, đau khớp khuỷu, say sóng, nôn mửa.
5. Nội quan
(Tâm bào lạc kinh)
- Từ lằn chỉ cổ tay đo lên 2 thốn, huyệt ở giữa gân cơ gan tay lớn và gân cơ gan tay bé.
- Đau khớp cổ tay, đau dây thần kinh giữa, rối loạn thần kinh tim, mất ngủ, đau dạ dày.
6. Thái uyên
(Phế kinh)
- Trên lằn chỉ cổ tay, bên ngoài gân cơ gan tay lớn, huyệt ở phía ngoài mạch quay.
- Ho, ho ra máu, hen, viêm phế quản, viêm họng, đau dây thần kinh liên sườn.
7. Thống lý
(Tâm  kinh)
- Từ lằn chỉ cổ tay đo lên 1 thốn, huyệt nằm trên đường nối từ huyệt Thiếu hải đến huyệt Thần môn.
- Rối loạn thần kinh tim, tăng huyết áp, mất ngủ, đau thần kinh trụ, đau khớp cổ tay, câm.
8. Thần môn
(Tâm kinh)
- Trên lằn chỉ cổ tay, huyệt ở chỗ lõm giữa xương đậu và đầu dưới xương trụ, phía ngoài chỗ bám gân cơ trụ trước.
- Đau khớp khuỷu, cổ tay, nhức nửa đầu, đau vai gáy, cảm mạo, sốt cao.

9.Ngoại quan
(Tam  tiêu kinh)
- Huyệt ở khu cẳng tay sau, từ Dương trì đo lên 2 thốn, gần đối xứng huyệt nội quan.
- Đau khớp khuỷu, cổ tay, nhức nửa đầu, đau vai gáy, cảm mạo, sốt cao.
10. Dương trì
(Tam tiêu kinh)
- Trên nếp lằn cổ tay, bên ngoài gân cơ duỗi chung.
- Đau khớp cổ tay, nhức nửa đầu, ù tai, điếc tai, cảm mạo.
11. Hợp cốc
(Đại trường kinh)
- Đặt đốt II ngón cái bên kia, lên hồ khẩu bàn tay bên này, nơi tận cùng đầu ngón tay là huyệt, hơi nghiêng về phía ngón tay trỏ.
- Nhức đầu, ù tai, mất ngủ, ra mồ hôi trộm, sốt cao, cảm mạo, đau răng (hàm trên), ho.
12. Bát tà
(Ngoài kinh)
- Chỗ tận cùng các nếp gấp của 2 ngón tay phía mu tay (mỗi bàn có 4 huyệt, 2 bên có 8 huyệt)
- Viêm khớp bàn tay, cước.
13.Thập  tuyên
(Ngoài kinh)
- Huyệt ở 10 đầu ngón tay, điểm giữa cách bờ tự do móng tay 2mm về phía gan bàn tay.
- Sốt cao, co giật.
2.2. Huyệt vùng chân: 20 huyệt

*Matxa huyệt thái xung có thể giảm thiểu chuột rút.



Tên huyệt

Vị trí - cách xác định
Tác dụng điều trị

1. Hoàn khiêu
(Đởm  kinh)
- Nằm nghiêng co chân trên, duỗi chân dưới, huyệt ở chỗ lõm  đằng sau ngoài mấu chuyển lớn xương đùi trên cơ mông to.
- Đau khớp háng, đau dây thần kinh toạ, liệt chi dưới.

2. Trật biên
(Bàng quang kinh)
- Từ huyệt Trường cường đo lên 2 thốn, đo ngang ra 3 thốn.
- Đau khớp háng, đau dây thần kinh toạ, liệt chi dưới.

3. Bễ quan
(Thận kinh)
- Là điểm gặp của đường ngang qua khớp mu và đường dọc qua gai chậu trước trên.
- Đau khớp háng, liệt chi dưới

4 Thừa  phù
(Bàng quang kinh)
- ở mặt sau đùi, giữa nếp lằn mông.
- Đau thần kinh toạ, đau lưng, liệt chi dưới.

5. Huyết  hải
(Kinh Tỳ)
- Từ điểm giữa bờ trên xương bánh chè đo lên một thốn, đo vào trong hai thốn.
- Đau khớp gối, đau dây thần kinh đùi, rối loạn kinh nguyệt, dị ứng, xung huyết.
6. Lương khâu
(Kinh vị)
- Từ điểm giữa bờ trên xương bánh chè đo lên 2 thốn, đo ra ngoài một thốn.
- Đau khớp gối, đau dây thần kinh đùi, đau dạ dày, viêm tuyến vú.
7. Độc ty
(Kinh vị)
- Chỗ lõm bờ dưới ngoài xương bánh chè.
- Đau khớp gối
8. Tất nhãn
(Ngoài kinh)
- Chỗ lõm bờ dưới trong xương bánh chè.
- Đau khớp gối
9. Uỷ trung
(Bàng quang kinh)
- Điểm giữa nếp lằn trám khoeo.
- Đau lưng (từ thắt lưng trở xuống) đau khớp gối, sốt cao, đau dây thần kinh toạ.
10.  Túc  tam  lý
(Vị kinh)
- Từ độc tỵ đo xuống 3 thốn, huyệt cách mào chày một khoát ngón tay.
- Đau khớp gối, đau thần kinh toạ, kích thích tiêu hoá, đau dạ dày, đầy bụng, chậm tiêu, là huyệt cường tráng cơ thể khi cứu, xoa bóp.
11. Dương lăng   tuyền
(Đởm  kinh)
- Chỗ lõm giữa đầu trên xương chày và xương mác
- Đau khớp gối, đau thần kinh toạ, nhức nửa bên đầu, đau vai gáy, đau thần kinh liên sườn, co giật.
12. Tam âm giao
(Kinh Tỳ)
- Từ lồi cao mắt cá trong xương chày đo lên 3 thốn, huyệt ở cách bờ sau trong xương chày 1 khoát ngón tay.

- Rong kinh, rong huyết, doạ xảy, bí đái, đái dầm, di tinh, mất ngủ.
13. Huyền chung
(Kinh đởm)
- Từ lồi cao mắt cá ngoài xương chày đo lên 3 thốn, huyệt nằm ở phía trước của xương mác.
- Điều trị đau dây thần kinh toạ, liệt chi dưới, đau khớp cổ chân, đau vai gáy.
14. Thừa sơn
(Bàng quang kinh)
ở giữa cẳng chân sau, trên cơ dép, nơi hợp lại của hai ngành cơ sinh đôi trong và sinh đôi ngoài.

- Đau thần kinh toạ, chuột rút, táo bón.
15. Thái khê
(Kinh Thận)
- Cách ngang sau mắt cá trong xương chày nửa thốn.
- Rối loạn kinh nguyệt, mất ngủ, ù tai, hen phế quản, đau khớp cổ chân, bí đái.
16. Côn lôn
(Bàng quang kinh)
- Cách ngang sau mắt cá ngoài xương chày nửa thốn.

- Đau lưng, đau khớp cổ chân, cảm mạo, nhức đầu sau gáy.
17. Thái xung
(Kinh Can)
- Từ kẽ ngón chân I - II đo lên 2 thốn về phía mu chân.
- Nhức đầu vùng đỉnh, tăng huyết áp, viêm màng tiếp hợp, thống kinh.
18. Giải khê
(Kinh Vị)
- Huyệt ở chính giữa nếp gấp cổ chân, chỗ lõm giữa gân cơ duỗi dài ngón cái và gân cơ duỗi chung ngón chân.

- Đau khớp cổ chân, đau dây thần kinh toạ, liệt chi dưới.
19. Nội đình
(Kinh vị)
- Từ kẽ ngón chân II - III đo lên 1/2 thốn về phía mu chân
- Đau răng hàm dưới, liệt VII ngoại biên, sốt cao, đầy bụng, chảy máu cam
20. Bát phong
(Ngoài kinh)
- 8 huyệt ngay kẽ các đốt ngón chân của 2 bàn chân.

- Viêm các đốt bàn ngón chân, cước.
2.3. Huyệt vùng đầu mặt cổ: 20 huyệt



huyet_duong_bach

Tên huyệt

Vị trí - cách xác định
Tác dụng điều trị
1. Dương bạch
(Kinh Đởm)
- Từ điểm giữa cung lông mày đo lên một thốn, huyệt nằm trên cơ trán.
- Liệt VII ngoại biên, nhức đầu, viêm màng tiếp hợp, chắp, lẹo, viêm tuyến lệ.
2. ấn đường
(Ngoài kinh)
- Điểm giữa đầu trong 2 cung lông mày.
- Nhức đầu, sốt cao, viêm xoang trán, chảy máu cam.
3. Tình minh
(Bàng quang kinh)
- Chỗ lõm cạnh góc trong mi mắt trên 2mm.
- Liệt VII ngoại biên, chắp, viêm màng tiếp hợp, viêm tuyến lệ.
4. Toán trúc
(Bàng quang kinh)
- Chỗ lõm đầu trong cung lông mày.
- Nhức đầu, bệnh về mắt, liệt VII ngoại biên.
5.Ty trúc không
(Tam tiêu kinh)
- Chỗ lõm đầu ngoài cung lông mày.
- Nhức đầu, bệnh về mắt, liệt VII ngoại biên.
6. Ngư yêu
(Ngoài kinh)
- ở điểm giữa  cung lông mày
- Liệt VII ngoại biên, các bệnh về mắt.
7. Thái dương
(Ngoài kinh)
- Cuối lông mày hay đuôi mắt đo ra sau một thốn, huyệt ở chỗ lõm trên xương thái dương.
- Nhức đầu, đau răng, viêm màng tiếp hợp.
8. Nghinh hương
(Đại trường kinh)
- Từ chân cách mũi đo ra ngoài 4mm (hoặc kẻ một đường thẳng ngang qua chân cánh mũi, gặp rãnh mũi má là huyệt).
- Viêm mũi dị ứng, ngạt mũi, chảy máu cam, liệt VII ngoại biên.
9. Nhân trung
(Mạch Đốc)
- ở giao điểm 1/3 trên và 2/3 dưới của rãnh nhân trung.
- Ngất, choáng, sốt cao co giật liệt dây VII.
10. Địa thương
(Kinh Vị)
- Ngoài khéo miệng 4/10 thốn.
- Liệt dây VII, đau răng
11. Hạ quan
(Kinh Vị)
- Huyệt ở chỗ lõm, chính giữa khớp thái dương hàm, ngang nắp tai.
- ù tai, điếc tai, đau răng, liệt dây VII ngoại biên, viêm khớp thái dương hàm.
12. Giáp xa
(Kinh Vị)
- Từ góc xương hàm dưới đo vào 1 thốn, từ Địa thương đo ra sau 2 thốn về phía góc hàm. Huyệt ở chỗ lồi cao  cơ cắn .
- Liệt dây VII, đau răng, đau dây thần kinh V, cấm khẩu.
13. Thừa khấp
(Kinh Vị)
- ở giữa mi mắt dưới đo xuống 7/10 thốn, huyệt tương đương với hõm dưới ổ mắt.
- Viêm màng tiếp hợp, chắp, lẹo, liệt dây VII ngoại biên.
14. Liêm tuyền
(Mạch Nhâm)
- Nằm ở chỗ lõm bờ trên sụn giáp.
- Nói khó, nói ngọng, nuốt khó, câm, mất tiếng.
15. ế phong
(Tam tiêu kinh)
- ở chỗ lõm giữa xương hàm dưới và xương chũm, (ấn dái tái xuống tới đâu là huyệt tại đó).
- Liệt dây VII, ù tai, điếc tai, viêm tuyến mang tai, rối loạn tiền đình.
16. Bách hội
(Đốc mạch)
- Huyệt ở giữa đỉnh đầu, nơi gặp nhau của hai đường kéo từ đỉnh 2 loa tai với mạch đốc.
- Sa trực tràng, nhức đầu, cảm cúm, trĩ, sa sinh dục.
17. Tứ  thần  thông
(Ngoài kinh)
- Gồm có 4 huyệt cách Bách hội 1 thốn theo chiều trước sau và hai bên
- Chữa đau đầu vùng đỉnh, cảm cúm, các chứng sa.
18. Đầu duy
(Kinh Vị)
- ở góc trán trên, giữa khe khớp xương trán và xương đỉnh
- Chữa đau dây V, ù tai, điếc tai, liệt dây VII, đau răng.
19. Quyền liêu
(Tiểu trường kinh)
- Thẳng dưới khoé mắt ngoài, chỗ lõm bờ dưới xương gò má.
- Chữa đau dây V, đau răng, liệt dây VII.
20. Phong trì
(Kinh Đởm)
- Từ giữa xương chẩm và cổ I đo ngang ra 2 thốn, huyệt ở chỗ lõm phía ngoài cơ thang, phía sau cơ ức đòn chũm.
- Đau vai gáy, tăng huyết áp, bệnh về mắt, cảm mạo, nhức đầu.
2.4. Huyệt vùng ngực và lưng: 12 huyệt.

Tên huyệt

Vị trí - cách xác định
Tác dụng điều trị
1. Chiên trung
(Mạch Nhâm)
- ở trên xương ức điểm giữa đường ngang liên sườn IV.
- Viêm tuyến vú, đau thần kinh liên sườn, nôn, nấc, hạ huyết áp.
2. Trung phủ
(Kinh Phế)
- ở khoang liên sườn II trên rãnh Delta ngực.
- Viêm phế quản, ho, hen, đau vai gáy, viêm tuyến vú.
3. Cự cốt
(Tam tiêu kinh)
- ở đỉnh góc nhọn được tạo thành bởi xương đòn và sống gai xương bả vai, phía trên mỏm vai.
- Điều trị đau vai gáy, liệt chi trên, đau khớp vai.
4. Đại truỳ
(Đốc mạch)
- ở giữa CVII và DI
- Sốt cao co giật, sốt rét, khó thở.
5. Kiên tỉnh
(Kinh Đởm)
- Huyệt ở trên cơ thang giữa đường nối huyệt đại truỳ đến huyệt kiên ngung.
- Đau vai gáy, suy nhược cơ thể, đau lưng, viêm tuyến vú.
6. Thiên tông
(Kinh Tiểu trường)
- Chính giữa xương bả vai.
- Vai và lưng trên đau nhức.
7. Đại trữ
(Kinh Bàng quang)
- Chính giữa DI và DII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Cảm mạo, ho, hen, đau lưng, đau vai gáy.
8. Phong môn
(Kinh Bàng quang)
- Từ giữa DII và DIII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Ho, hen, cảm cúm, đau vai gáy.
9. Phế du
(Kinh Bàng quang)
- Từ giữa DIII và DIV đo ngang ra 1,5 thốn.
- Ho hen, khó thở, viêm tuyến vú, chắp, lẹo.
10. Tâm du
(Kinh Bàng quang)
- Từ giữa DV và DVI đo ngang ra 1,5 thốn.
- Ho, mất ngủ, mộng tinh, rối loạn thần kinh tim.
11. Đốc du
(Kinh Bàng quang)
- Từ giữa DVI - DVII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Chữa đau vai gáy, đau dây thần kinh liên sườn VI, VII, rối loạn thần kinh tim.
12. Cách du
(Kinh Bàng quang)
- ở giữa DVII và DVIII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Nôn, nấc, thiếu máu, cơn đau thắt ngực.
2.5. Huyệt vùng thượng vị - lưng: 6 huyệt



Tên huyệt

Vị trí - cách xác định
Tác dụng điều trị
1. Trung quản
(Mạch Nhâm)
- Từ rốn đo lên 4 thốn, huyệt nằm trên đường trắng giữa trên rốn
- Đau vùng thượng vị, nôn, nấc, táo bón, cơn đau dạ dày.
2. Thiên khu
(Kinh Vị)
- Từ rốn đo ngang ra 2 thốn.
- Rối loạn tiêu hoá, cơn đau dạ dày, sa dạ dày, nôn mửa, cơn đau do co thắt đại tràng.
3. Can du
(Bàng quang kinh)
- Từ giữa DIX - DX đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đầy bụng, nhức đầu - Viêm màng tiếp hợp, đau dạ dày.
4. Đởm du
(Kinh Bàng quang)
- Từ giữa DX - DXI đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đầy bụng, nhức đầu, giun chui ống mật, tăng huyết áp.
5. Tỳ du
(Bàng quang kinh)
- Từ giữa DXI - DXII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đau dạ dày, đầy bụng, chậm tiêu, rối loạn tiêu hoá.
6. Vị du
(Bàng quang kinh)
- Từ giữa DXII - LI đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đau dạ dày, đầy bụng, rối loạn tiêu hoá.

2.6. Huyệt vùng hạ vị - thắt lưng - cùng: 9 huyệt

Tên huyệt

Vị trí - cách xác định
Tác dụng điều trị
1. Quan nguyên
(Mạch Nhâm)
-Từ rốn đo xuống 3 thốn (hoặc điểm 3/5 đường nối từ rốn đến khớp mu), trên đường trắng giữa rốn.
- Hạ huyết áp, đái dầm, bí đái, viêm tinh hoàn, sa trực tràng.
2. Khí hải
(Mạch Nhâm)
- Từ rốn đo xuống 1,5 thốn, trên đường trắng giữa dưới rốn.
-Đái dầm, bí đái, di tinh, ngất, hạ huyết áp, suy nhược cơ thể.
3. Trung cực
(Mạch Nhâm)
-Từ rốn đo xuống 4 thốn hoặc đo từ bờ trên khớp mu lên 1 thốn.
- Bí đái, đái dầm, di tinh, viêm bàng quang.
4. Khúc cốt
(Mạch Nhâm)
- Từ rốn đo xuống 5 thốn, huyệt ở giữa bờ trên khớp mu.
- Bí đái, đái dầm, di tinh, viêm tinh hoàn.
5. Thận du
(Bàng quang kinh)
- Từ giữa LII - LIII đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đau lưng, đau thần kinh toạ, đau thần kinh đùi, ù tai, điếc tai, giảm thị lực, hen phế quản.
6. Mệnh môn
(Mạch Đốc)
- Giữa liên đốt LII - LIII
- Đau lưng, di tinh, đái dầm, ỉa chảy mạn
7. Đại trường du
(Bàng quang kinh)
- Giữa liên đốt LIV - LV đo ngang ra 1,5 thốn.
- Đau thần kinh toạ, trĩ, ỉa chảy, sa trực tràng.
8. Bát liêu
(Bàng quang kinh)
- Từ Đại trường du đo xuống 2 thốn là huyệt Tiểu trường du, giữa Tiểu trường du và cột sống là huyệt Thượng liêu (tương đương với lỗ cùng thứ nhất). Tương ứng với lỗ cùng thứ 2 là huyệt Thứ liêu, lỗ cùng thứ 3 là Trung liêu, lỗ cùng thứ 4 là Hạ liêu.
- Di tinh, đái dầm, đau lưng, rong kinh, rong huyết, thống kinh, doạ xảy.
9. Trường cường
(Mạch Đốc)
- ở đầu chót của xương cụt.
- ỉa chảy, trĩ, sa trực tràng, đau lưng, phạm  phòng.
Vo Dang tuyet ky bi truyen: Diem huyet⬦ hen gio ha thu

Những huyệt đạo nguy hiểm trên cơ thể
1.Điểm huyệt là một trong bảy hai tuyệt học của võ Thiếu lâm, khống chế, chế ngự người một cách nhanh chóng. Nhưng mục đích của thuật điểm huyệt cũng như những môn võ thuật khác là tập luyện để cho khí huyết lưu thông, gân cốt dẻo dai, thân thể cường tráng, làm cho trí óc minh mẫn, tăng sức tự tin và chịu đựng trong đời sống, nâng cao tuổi thọ.
2.Tổ sư của phái Thiếu lâm là Đạt Ma, tên thật là Sardili (vương tử của một tiểu thuộc Nam ấn). Ngày nay, qua các bức tranh và tượng, Đạt Ma mắt lồi, râu rậm, thoạt trông rất dữ nhưng nhìn kĩ thấy đôi mắt ông toát ra uy lực, dũng mãnh, hiền từ, dễ mến.
3.Toàn bộ cơ thể có 12 đường kinh lạc và hai mạch Nhâm, Đốc; có 365 huyệt (trong đó có 108 huyệt lớn và vừa, 257 huyệt nhỏ, đặc biệt có 36 huyệt lớn gọi là huyệt trí mạng).
- Kinh thủ tam âm : gồm kinh thủ thái âm phế (có 11 huyệt), thiếu âm tâm (có 9 huyệt), quyết tâm bào (có 9 huyệt); từ phủ tạng đi dọc theo mặt trong cánh tay tới bàn tay.
- Kinh thủ tam dương : gồm kinh thủ dương minh đại trường (có 20 huyệt), thái dương tiểu trường (có 19 huyệt), thiếu dương tam tiêu (có 23 huyệt); từ bàn tay đi dọc theo mặt ngoài cánh tay lên đầu.
- Kinh túc tam âm : gồm kinh túc thái âm tỳ (có 21 huyệt), thiếu âm thận (có 27 huyệt), quyết âm can (có 14 huyệt); từ bàn chân đi dọc theo mặt trog của đùi lên bụng, ngực.
- Kinh túc tam dương : gồm kinh túc dương minh vị (có 45 huyệt), thái dương bàng quang (có 67 huyệt), thiếu dương đởm (có 44 huyệt); từ đầu đi dọc theo thân và mặt ngoài của đùi xuống chân.

II/ Những huyệt nguy hiểm:
Toàn bộ thân thể có 108 huyệt nguy hiểm, trong đó có 72 huyệt nói chung khi bị điểm, đánh không đến nổi gây ra tử vong, còn lại 36 huyệt trí mạng có thể dẫn đến tử vong, còn gọi là TỬ HUYỆT.
Trong khi va chạm quyền cước, có thể trở thành SÁT THỦ nếu thực hiện đòn đánh vào các Tử Huyệt như: Bách Hội, Thần Đình, Thái Dương, Nhĩ Môn, Tình Minh, Nhân Trung, Á Môn, Phong Trì, Nhân Nghênh, Đản Trung, Cựu Vĩ, Cự Khuyết, Thần Khuyết, Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Ưng Song, Nhủ Trung, Nhũ Căn, Kỳ Môn, Chương Môn, Thương Khúc, Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thanh Du, Mệnh Môn, Chí Thất, Khí Hải Du, Vi Lư, Kiến Tỉnh, Thái Uyên, Tâm Túc Ly, Tâm âm giao, Dung Tuyền. 
36 huyệt nguy hiểm ở trên, sau khi bị điểm trúng đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
A/ vị trí các huyệt nguy hiễm vùng đầu cổ


1.- Huyệt Bách hội:
- Vị trí: Tại giao điểm của tuyến chính giữa đỉnh đầu và đường nối liền phần đầu nhọc trên của 2 tai.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự.
2.- Huyệt Thần Đình:
- Vị trí: Từ mép tóc trước trán lên 5 cm.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, ảnh hưởng đến não.
3.- Huyệt Thái Dương:
- Vị trí: tại chổ lõm phía đuôi chân mày.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng váng, mắt tối lại, ù tai.
4.- Huyệt Nhĩ môn:
- Vị trí: Tại chổ khuyết ở trước vành tai, khi há miệng hiện ra chỗ lõm.
- Khi bị điểm trúng: Ù tai, choáng đầu ngã xuống đất.
5.- Huyệt Tình minh:
- Vị trí:Tại chỗ góc khóe mắt trong, đầu chân mày.
- Khi bị điểm trúng: Có thể hôn mê hoặc hoa mắt ngã xuống đất.
6.- Huyệt Nhân trung:
- Vị trí: Dưới chóp mũi.
- Khi bị điểm trúng: Sẽ choáng đầu, hoa mắt.
7.- Huyệt Á môn:
- Vị trí: Sau ót, chỗ lõm giữa gai đốt sống cổ thứ nhất và đốt sống cổ thứ 2.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào khu diên tuỷ (một phần não sau nối tuỷ sống) sẽ không nói được, choáng đầu, ngã xuống đất bất tỉnh.
8.- Huyệt Phong trì:
- Vị trí: Phía sai dái tai, chổ lõm dưới xương chẩm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào trung khu diên tuỷ, hôn mê bất tỉnh.
9.- Huyệt Nhân nghênh:
- Vị trí: Yết hầu, ngang ra 2 bên 5cm.
- Khi bị điểm trúng: Khí huyết ứ đọng, choáng đầu.

B.-.. CÁC HUYỆT NGUY HIỂM Ở VÙNG BỤNG, NGỰC:
1.- Huyệt Đản trung:
- Vị trí: Giữa hai đầu vú.
- khi bị điểm trúng: Nội khí tản mạn, lòng dạ hoảng loạn, thần trí không được rõ ràng.
2.- Huyệt Cưu vĩ:
- Vị trí: Trên rốn 15cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng, tĩnh mạch, gan, mật, chấn động tim, đọng máu, có thể gây tử vong.
3.- Huyệt Cự khuyết:
- Vị trí: Trên rốn 9cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào gan, mật, chấn động tim, có thể gây tử vong.
4.- Huyệt thần khuyết:
- Vị trí: Tại chính giữa rốn.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn, chấn động ruột, bàng quan, tổn thương đến khí, làm thân thể mất đi sự linh hoạt.
5.- Huyệt Khí hải:
- Vị trí: Dưới rốn 4cm.
- khi bị điểm trúng: Đập vào vách bụng, tĩnh động mạch vàsườn, phá khí, máu bị ứ lại làm thân thể mất đi sự linh hoạt.
6.- Huyệt Quan Nguyên:
- Vị trí: Dưới rốn 7cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng dưới, tĩnh mạch vàthần kinh sườn gây chấn động ruột, khí huyết ứ đọng.
7.- Huyệt Trung cực:
- Vị trí: Dưới rốn 10cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch vách bụng, tĩnh mạch vàchấn đọng thần kinh kết tràng chữ S, thương tổn khí cơ.
8.- Huyệt Khúc cốt:
- Vị trí: Tại xương khung chậu bụng dưới – hạ bộ.
- Khi bị điểm trúng: Thương tổn đến khí cơ toàn thân, khí huyết ứ đọng.
9.- Huyệt ưng song:
- Vị trí: Trên vú, tại xương sườn thứ 3.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn vàthần kinh trước ngực cho đến động, tĩnh mạch, chấn động làm tim ngừng cung cấp máu, gây choáng váng.
10.- Huyệt Nhũ trung:
- Vị trí: Tại chính giữa đầu vú.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn vàđộng mạch sung huyết (nhồi máu) phá khí.
11.- Huyệt Nhũ căn:
- Vị trí: Dưới đầu vú 1 đốt xương sườn.
- Khi bị điểm trúng: Do phía trong bên trái là quả tim, nên khi bị điểm trúng sẽ đập vào tim, gây sốc dễ dẫn đến tử vong.
12.- Huyệt Kỳ môn:
- Vị trí: Dưới núm vú, tại xương sườn thứ 6.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào gan, lá lách, chấn động cơ xương, khí huyết ứ đọng.
13.- Huyệt Chương môn:
- Vị trí: Tại tuyến giữa nách, mút cuối xương sườn nổi số 1, khi co khuỷu tay khép vào nách, nó nằm ngang với điểm cuối cùng của khuỷu tay.
- Khi bị điểm trúng: Vì phí trong bên phải làgan, nghiêng phía dưới là lá lách, nên khi bị điểm trúng sẽ đập vào gan hoặc lá lách, phá hoại màng cơ xương, cản trở sự lưu thông của máu và tổn thương đến khí.
14.- Huyệt Thương khúc:
- Vị trí: Giữa bụng tại bao tử, ngang ra 2 bên 5cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thần kinh sườn và đọng mạch vách bụng, chấn đọng ruột, tổn thương khi, ứ đọng máu

C.- CÁC HUYỆT NGUY HIỂM TẠI PHẦN LƯNG, EO VÀ MÔNG:
1.- Huyệt Phế du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống ngực thứ 3, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch xương sườn thứ 3, tĩnh mạch và thần kinh, chấn động tim, phổi, phá khí.
2.- Huyệt Quyết âm du:
- Vị trí: Tại phía dưới mỏm gai đốt sống ngực thứ 4, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thành tim, phổi, phá khí cơ, dễ gây tử vong.
3.- Huyệt Tâm du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống ngực thứ 5, ngang ra 2 bên lưng 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào thành tim, phá huyết, thương tổn khí.
4.- Huyệt Thận du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 2, ngang ra 2 bên lưng 4 cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào quả thận, tổn khí cơ, dễ dẫn đến liệt nửa người.
5.- Huyệt Mệnh môn:
- Vị trí: Giữa đốt sống thắt lưng thứ 2 và thứ 3.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào xương sườn, phá khí cơ, dễ gây ra liệt nửa người.
6.- Huyệt Chí thất:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 2 ngang ra 2 bên 6cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào động mạch eo lưng, tĩnh mạch vàthần kinh, chấn động thận, thương tổn nội khí.
7.- Huyệt Khí hải du:
- Vị trí: Tại mỏm gai đốt sống eo lưng thứ 3, ngang ra 2 bên 4cm.
- Khi bị điểm trúng: Đập vào quả thận, cản trở huyết, phá khí.
8.- Huyệt Vĩ lư:
- Vị trí: Tại giữa chỗ hậu môn vàxương cùng.
Khi bị điểm trúng: Gây trở ngại đến sự lưu thông của khí trên toàn thân, khí tại huyệt Đan điền không dâng lên được.

D.- CÁC HUYỆT VỊ NGUY HIỂM Ở TAY VÀ CHÂN:
1.- Huyệt Kiên tỉnh:
- Vị trí: Chỗ cao nhất phần vai.
- Khi bị điểm trúng: Cánh tay tê bại, mất đi sự linh hoạt.
2.- Huyệt Thái uyên:
- Vị trí: Ngữa lòng bàn tay, tại chỗ lõm lằn ngang cổ tay.
- Khi bị điểm trúng: Cản trở bách mạch, tổn thương nội khí.
3.- Huyệt Túc tam lý:
- Vị trí: Bờ dưới xương bánh chè xuống 6cm, trước xương ống chân ngang ra ngoài 1 ngón tay.
- Khi bị điểm trúng: Chi dưới tê bại, mất đi sự linh hoạt.
4.- Huyệt Tam âm giao:
- Vị trí: Tại đầu nhọn mắt cá chân thẳng lên 6 cm, sát bờ sau xương ống chân.
- Khi bị điểm trúng: Chi dưới tê bại, mất linh hoạt, thương tổn khí ở huyệt Đan điền.
5.- Huyệt Dũng tuyền:
- Vị trí: Nằm tại lòng bàn chân, khi co ngón chân xuất hiện chỗ lõm.
- Khi bị điểm trúng: Thương tổn đến khí tại huyệt Đan điền, khí không thể thăng lên được, phá khinh công.
Tóm lại, 36 huyệt nguy hiểm ở trên, sau khi bị điểm trúng đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Vị Trí các Huyệt Đạo và công dụng
Chú Ý: Tấc dùng chính là đốt giữa của ngón tay giữa của bệnh nhân .
Nên thử trên người mình trước khi bấm huyệt cho người khác, thường khi bấm trúng huyệt sẽ có cảm giác tê rần, tê một vùng lớn, có gảm giác hơi nóng, hơi nhức hay một bộ phận khác bị ảnh hưởng (tùy vào huyệt được nhấn). Ví dụ huyệt Giáp Xa trên mặt, khi nhấn lên sẽ có cám giác tê quai hàm và nửa khuôn mặt . Huyệt Hợp Cốc sẽ làm tê cả bàn tay ............. Không bao giờ dùng sức quá độ, vì huyệt đạo là điểm yếu trong cơ thể, khi dùng sức quá mạnh có thể làm thương tổn gây hại cho sức khỏe tạm thời hay vĩnh viễn.

ĐỪNG BẤM HUYỆT CHO PHỤ NỮ CÓ THAI và TRẺ EM DƯỚI 2 TUỔI