"Theo Dịch lý thì âm
dương có tính cách tương đối, không có vật gì độc âm hay cô dương mà tồn tại,
vì độc âm thì bất sanh, cô dương thì bất trưởng. Âm Dương lại hổ căn chuyển hóa
lẫn nhau, hễ Dương cực thì Âm sinh, Âm cực thì Dương sinh, trong Thái âm có Thiếu
dương, trong Thái dương có Thiếu âm ... Nên mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng,
cũng chỉ là sự đấu tranh, chuyển hóa và thống nhất, giữa hai mặt đối lập là âm
dương. Đây là phép biện chứng của triết học Đông phương."
“Hoàng đế nội kinh tố vấn, âm dương ứng
tượng đại luận” có nói:“Dương thắng tắc âm bệnh, âm thắng tắc dương
bệnh. Dương thắng tắc nhiệt, âm thắng tắc hàn.Trọng hàn tắc nhiệt, trọng nhiệt
tắc hàn”.
Có nghĩa là trong cơ thể con người nếu dương
khí quá mạnh thì âm khí sẽ yếu, ngược lại nếu âm khí quá mạnh thì dương khí
cũng yếu. Dương khí mạnh sẽ sinh bệnh về nhiệt, âm khí mạnh sẽ sinh chứng bệnh
về hàn, hàn đến cực điểm sẽ sinh bệnh về nội nhiệt, nhiệt đến cực điểm cũng
sinh chứng nội hàn.
Thiên địa là tự nhiên, vô vi vô tạo, vạn vật
tự có sự kết nối. Cơ thể người cũng như vậy, cũng giống như tự nhiên, nếu giữ
được sự cân bằng thì làm sao mà có bệnh? Ngươi luyện Dịch Cân kinh, quả thật là
phương pháp rèn luyện dưỡng sinh đã qua thiên chuy bách luyện của đạo gia
Thái âm phế kinh ở tay là từ Trung Phủ, Thiếu
Thương ở ngón tay, tổng cộng mười một huyệt đạo.
Thái Uyên huyệt này là nguyên huyệt phế kinh,
bổ trung khí lực cực mạnh, trung phủ tên cũng như ý nghĩa, chính là phủ trong
khí, là nơi trung khí hội tụ, cũng là yếu huyệt điều bổ trung khí, xoa bóp ngải
cứu đều có hiệu quả bổ khí. Có thể xoa bóp hai huyệt đạo này thường xuyên, đối
với thân thể phục hồi như cũ có lợi thật lớn, trung khí đầy đủ, lệ khí khó lưu
Mộc khắc thổ là tài, thủy sinh mộc là quý, mộc
gặp mộc là vượng, mộc sinh hỏa là loạn, kim khắc mộc là sát.
Thái Uyên huyệt vốn là nguyên huyệt phế kinh,
huyệt tính thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, năng lực bổ trung khí cực mạnh. Dùng
ngải cứu có thểấm cơ tán hàn, sơ phong giải biểu, nếu có thể đối chứng thi pháp,
có thể sinh hiệu quả rất lớn Vô cực thế hư khí trung lý, thái cực thái hư
lý trung khí, thiên địa chi đạo, lấy hai khí âm dương tạo hóa vạn vật, thiên
địa, nhật nguyệt, lôi điện, mưa gió... Vạn sự vạn vật, cái nào cũng phân âm
dương, đạo lý của cuộc sống cũng là lấy hai khí âm dương trường dưỡng bách hài,
kinh mạch, xương thịt, lưng bụng, lục phủ ngủ tạng, thậm chí bảy hại tám lợi.
Trong một cơ thể, cái nào không hợp lý lẽ của âm dương....
Hùng thức có thể cường tỳ vị, tăng thể lực;
Hạc thức điều khí huyết, thông kinh mạch; Hổ thức điền tinh ích tháo, giúp thận
khỏe; Lộc thức có thể giãn gân, giãn cốt; Viên thức giúp tứ chi linh
hoạt.
Mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, miệng nhìn tim,
lương thiện chẳng khác nào lão tăng nhập định.
"hai viên" này có thể tăng cường sức
mạnh ở tay, kích thích mạch máu, tăng cường khí huyết.
Tứ chi và toàn thân của con người là một chỉnh
thể.
Mười bốn điều trong đại kinh mạch, trừ hai
mạch nhâm đốc ra, mười hai kinh mạch liên hệ chân tay với các phần ngự,c bụng
và đầu của cơ thể, trong đông y hậu thế, gọi là nội liên tạng phủ, ngoại lạc tứ
chi. Tục ngữ nói rất hay, tay đứt ruột xót. Ý chỉ mười đấu ngón tay có liên hệ
chặt chẽ với các tạng phủ khí quan trong cơ thể. Bằng cách kích thích học vị
trên tay, có thể truyền lại đến tạng khí tương ứng, cũng ảnh hưởng đến toàn
thân. Còn song hoàn này hoàn toàn có thể đạt tới hiệu quả thần kỳ.
Thiên Cương- Địa Sát: Tam Viên 60 chòm hơn
220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm
thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm
Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9
vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên
cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không
phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa.
Đồng môn là bằng, cùng lý tưởng là hữu.
Tất cả chỉ đơn giản có ba điều: Luyện tinh hóa khí,
luyện khí hóa thần và luyện thần hoàn hư. Lại có ba bước công phu là dịch cốt,
dịch cân và tẩy tủy. Còn có ba loại luyện pháp đó là Minh kính, ám kình và hóa
kình. Nhưng cơ sở này có thể nói là một bước vô cùng quan trọng.
Khí đi vào qua da, kinh lạc, gân, kinh mạch.
Lực xuất phát từ cơ bắp, xương cốt.
Người bên ngoài có lực gọi là hình. Người có
khí nội liễm trong gân mạch gọi là tượng.
Có câu trăm ngày Trúc Cơ, mười tháng Dịch cốt,
ba năm dịch cân.