27/05/2022

Nước mắm cá đồng miền Tây

 rezoman


Năm ngoái đi thăm miền Tây, những nơi tôi đến, hầu hết là nước mắm nhà làm, nhà dùng. Sao vậy? Có còn bao nhiều cá linh nữa đâu mà làm mắm...

Tôi hỏi bà Út Trai ở Thốt Nốt, bà biết làm nước mắm cá linh từ hồi nào. Từ hồi lấy chồng, má chồng dạy, bả chỉ sao làm vậy. Lại hỏi tiếp, bà có biết làm mắm cái không? Không, làm mắm cái khó lắm, má chồng chưa kịp dạy thì bả mất.

Bà Út Trai xấp xỉ 60, quê Thốt Nốt (Cần Thơ), lấy chồng cũng Thốt Nốt, tới giờ vẫn gắn bó với Thốt Nốt. Mỗi năm đến mùa nước nổi, bà mua chừng vài trăm ký cá linh, chượp vào lu làm nước mắm ăn dần cả năm, không bán buôn gì cả.

Tây Nam Bộ là vùng đất mới khai phá được vài trăm năm, giáp biển ít, giáp sông nước nhiều. Kinh rạch chằng chịt, chim trời cá nước là lộc trời. Lộc trời cho có mùa, mùa nước nổi tôm cá đầy đồng, ăn không hết, đem làm khô làm mắm để dành.


Khô - Mắm là những cách bảo quản thực phẩm lâu đời. Khô ướp muối phơi nắng, rút độ ẩm và dùng độ mặn để bảo quản. Mắm chượp muối lên men, cũng là cách bảo quản. Lâu dần những món Khô - Mắm này đi vào văn hóa ẩm thực của nhân loại.

Đi tìm gốc gác của Mắm, của Khô từ đâu, chỉ là chuyện miễn cưỡng. Có ai dám nói, thịt trâu gác bếp Tây Bắc là bắt chước thịt xông khói của Tây phương? Bảo quản bằng cách dùng khói  và hơi nóng chỉ là chuyện tình cờ ở khắp mọi nơi.

Tùy khí hậu và tài nguyên vùng miền mà Khô - Mắm, thứ nào lên đời. Miền Tây Nam Bộ, mùa nước cạn, tát đìa tát mương bắt cá lóc, cá trê, cá rô, cá bổi… Mùa nước nổi thì vô vàn đủ loại cá, cá linh, cá mè, cá trèn, cá kết, cá chạch, cá cơm… Khí hậu Tây Nam Bộ lại nắng nóng quanh năm. Khô - Mắm cá đồng đều lên ngôi. Thế còn nước mắm cá đồng thì sao?

Cá lớn đem làm mắm (cái), cá nhỏ làm nước mắm. Lý thuyết là thế. Thật ra ban đầu, lưu dân chỉ làm mắm (cái). Mắm rỉ ra nước. Thứ nước "tinh túy" này có thể làm nước chấm, nhưng gọi đó là nước mắm thì có chút gì đó miễn cưỡng, vì nó có mùi và vị của mắm gốc.

Rốt cuộc, ủ mắm (cái) chủ yếu là để tạo hương hơn là tạo vị. Làm mắm, vì vậy thường bổ sung thêm thính, chanh, ớt tỏi, đường, thơm (dứa)… tùy vùng, tùy bí quyết gia truyền, để vị mắm thêm đậm đà. Bà Út Trai chưa kịp lĩnh hội cái tinh xảo của làm mắm (cái) từ má chồng là thế.

Làm nước mắm đơn giản hơn, chỉ có cá và muối. Cá bớt tươi đi một chút, lượng muối ít đi một chút, rồi cứ thế ủ chượp chờ ngày chín ngấu, ra vị ra hương.

Đơn giản, nhưng lại cầu kỳ về nguyên liệu. Miền Tây mùa nước nổi, cá về ngập cánh đồng vô số loại, nào là cá linh, cá trèn, cá trạch, cá rô, cá sặc, cá lòng tong… gọi chung là cá đồng. Nước mắm làm từ cá đồng gọi là nước mắm cá đồng. Nhưng biết chọn loại nào để làm nước mắm? Thôi thì cứ cá nào nho nhỏ đều đem ủ chượp làm nước mắm hết.

Nước mắm cá đồng cũng trải qua quá trình đào thải và chọn lọc như vậy. Cá thì vô số loại, nhưng dần dà người ta thấy cá linh cho ra nước mắm đậm đà hương vị nhất. Và thế là nước mắm cá linh trở thành đặc sản của miền Tây Nam Bộ.

Còn loại cá nước ngọt khác cũng được "tuyển" làm nước mắm, đó là cá cơm sông (khác cá cơm biển). Nhưng chỉ rải rác vài nơi như Cồn Sơn (Cần Thơ) còn làm nước mắm cá cơm với sản lượng rất ít.

Cá linh đâu chỉ đem làm nước mắm, mà còn được chế biến ra nhiều món ăn ngon lắm: Cá linh kho mía, cá linh kho tiêu, lẩu cá linh rau điên điển, cá linh chiên giòn… Cá linh trở thành linh vật ẩm thực, bởi vậy mới có câu ca:

Nước không chân sao kêu nước đứng

Cá không thờ sao gọi cá linh.

Tôi đến Cần Đăng (An Giang) thăm ông Sáu Ni, 88 tuổi. Đời ông, đời cha, rồi tới cháu chắt ông vẫn loanh quanh ở Cần Đăng. Tới thăm để nghe ông già kể chuyện nước mắm cá đồng, nhưng ông rành đờn kìm hơn chuyện nước mắm. Ông vừa chơi đờn, vừa ca Dạ cổ hoài lang "đãi" khách, giọng ca còn khỏe lắm.


Ông Sáu đờn kìm - Xứ này, đàn bà truyền đời nhau nghề làm nước mắm, còn đàn ông chơi đờn kìm. Hỏi qua chuyện nước mắm, ông Sáu Đờn Kìm chỉ nói lan man, nhớ là từ hồi bà nội ông đã làm nước mắm, rồi tới má ông, rồi tới vợ ông - Chết hết rồi. Bây giờ tới con Út nhà ông, lấy chồng gần đó làm nước mắm mang qua cho ba xài. Hỏi, làm từ cá gì - Cá gì nhỏ nhỏ là đem làm nước mắm.

Cả đời ông chỉ biết ăn nước mắm nhà làm, không biết thứ nước mắm nào khác. Xứ này, đàn bà truyền đời nhau nghề làm nước mắm, còn đàn ông chơi đờn kìm. Phúc phận đàn ông con trai miền Tây sao mà lớn thế!

Đến gặp cô Út nhà ông để hỏi chuyện. Cô nói, hồi đó má cô đã biết chọn cá linh lớn đem làm mắm, cá nhỏ hơn một chút thì làm nước mắm. Tới mùa nước về, cá nhiều lắm, tha hồ chọn. Tỷ lệ cá linh càng nhiều, nước mắm càng thơm ngon. Chượp cá với muối trong lu chừng 7-8 tháng, đến khi có mùi thơm, chín ngấu là xài được. Hỏi, có kho không? Có, thời bà nội thì không biết, nhưng má cô đã bắt đầu kho nước mắm. Dân miệt này gọi "kho" là chỉ đem nấu nước mắm cả nước lẫn cái. Kho xong rồi lọc, bỏ cái lấy nước.

Tôi đến quán Nhi Ô Môn. Quán có làm nước mắm cá linh, nhưng chỉ để làm nước chấm cho món ăn của quán, chứ không bán ra ngoài. Ô Môn là tên một quận ở Cần Thơ, Nhi là tên chủ quán.

Kho quẹt thử thách nước mắm cá linh

Bà chủ dẫn đi thăm hàng chục lu chượp nước mắm trong vườn, có lu đã được một năm, lu hai năm, ba năm… Tôi nếm thử, vị đậm đà, nhưng mùi còn hơi ngai ngái. Tôi hỏi, có kho không? Có chớ, nước mắm kho để trong quán.

Bà chủ quán xinh đẹp khoe, em làm nước mắm còn ngon hơn má em. Khen bà chủ xinh đẹp cho bả thích, chứ trên đường trở về quán, bả ghé tai tôi nói nhỏ, em có cháu nội rồi.

Chủ quán mời nhậu. Dân miền Tây là thế, mời thiệt bụng chứ không mời lơi. Nước mắm ba miền Nam- Trung- Bắc, tôi sục sạo, nếm thử gần hết, nhưng chỉ là nước mắm làm từ cá biển. Bây giờ là nước mắm cá đồng, tôi ngần ngừ, chẳng lẽ lại thử bứt gân. Rồi tôi cũng buột miệng, bà chủ làm nước mắm cá linh kho quẹt chấm rau luộc được không? Được chớ.

Nói là làm, bếp cồn nổi lửa, niêu đất mang lên, nước mắm đổ vào, thêm vài miếng tóp mỡ… Hương nước mắm tỏa lên ức chế đủ thứ. Tuyệt! Tôi thấy không cần phải nói thêm về hương vị nước mắm cá linh kho quẹt nữa.

Cả bà Út Trai, cô Út của ông Sáu Đờn Kìm và cô Nhi Ô Môn đều than thở, mua cá linh về làm nước mắm vất vả lắm, phải đặt trước, mua thành nhiều lần mới có đủ cá, dù chỉ là với số lượng ít, nước mắm nhà làm, nhà ăn.

Bà Út Trai cặm cụi kho nước mắm, vớt bọt gìn giữ di sản nước mắm cá linh của má chồng

Chẳng biết từ hồi nào, dân miệt này đã nghĩ ra cách "kho" nước mắm (cả nước lẫn cái). Đun như vậy, chất béo và những tạp chất sẽ nổi lên theo bọt. Chỉ cần vớt bọt kỹ, rồi lọc bỏ xác thì mùi nước mắm sẽ đằm lại, không còn ngai ngái.

Hương vị nước mắm cá đồng, thứ gì cũng nhè nhẹ. Từ nhẹ tới mạnh, mùi vị nước mắm chưa có thước đo, nhưng tôi cảm nhận như thế.

Nước đổ từ thượng nguồn về hạ nguồn, đến đồng bằng sông Cửu Long từ tháng 8 đến 11 dương lịch, ít khi là thiên tai với người dân Nam Bộ mà là mùa thu hoạch tôm cá trời cho. Ăn không hết, làm mắm để dành.

Tôi hỏi chú nhóc 5-6 tuổi, gọi ông Sáu Đờn Kìm là ông cố nội, cháu có ăn nước mắm bà Út làm không? – Không, con ăn xì dầu. Nước mắm cá đồng rồi sẽ chỉ còn trong ký ức của những người già và sắp già, với tuổi thơ một thời cơm nguội chan nước mắm.

Hóa thạch (foosil) là thuật ngữ của ngành khảo cổ để chỉ di tích của sinh vật để lại trên đá. Tôi e rằng, nước mắm cá đồng đang trên đường hóa thạch.



26/05/2022

Chùa Bổ Đà

st và tập hợp từ nhiều nguồn trên net.


Trang Wikipedia đã dành ra đến 5000 từ để mô tả về ngôi chùa này.

Chùa Bổ Đà còn được gọi là Chùa Bổ. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), bờ tả dòng sông Cầu, thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (thời phong kiến là xã Tiên Lát, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc xưa).

Chùa nằm cách trung tâm thị trấn Bích Động khoảng 10 km về phía Tây, Chùa Bổ Đà là một trong những ngôi chùa độc đáo nhất vùng đất Kinh Bắc, là trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Chùa đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2016 và bộ kinh phật khắc trên gỗ thị lưu giữ trong chùa được đánh giá là cổ nhất của dòng thiền Lâm Tế,... Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ.

Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt Nam, nhiều cổ vật có giá trị và kho tàng di sản Hán - Nôm phong phú. Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại, xung quanh là đồi núi xóm làng bao bọc.

Chùa thờ Tam giáo, trong đó có Quán Thế Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Tam tổ (gồm Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), Khổng Tử...Các cuốn sách bằng tre, đá để lại vẫn lưu truyền đào tạo những người gia nhập phái Lâm Tế (Sơn Môn Bồ Đà) theo phong tục cũ. Quần thể chùa Bổ Đà là một tập hợp di tích gồm: chùa cổ có tên là Bổ Đà sơn (gọi tắt là chùa Bổ Đà, chùa Bổ; còn gọi là chùa Quán Âm), chùa chính Tứ Ân, Am Tam Đức (xây dựng sau, vào thời Hậu Lê).

Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Thạch tướng quân (tức Thạch Tướng Đại Vương - có công giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại xâm). Lễ hội chùa Bổ đà diễn ra vào 16-18 tháng 2 Âm Lịch hàng năm. 

Chùa Bổ Đà là một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất của dòng Thiền phái Trúc Lâm.



Khu di tích chùa Bổ Đà là một danh lam cổ tự nổi tiếng của vùng Kinh Bắc xưa nay thuộc địa phận hành chính của xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.


 Chùa có tên gọi chính xác là chùa Quán Âm núi Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Sơn Tự, gọi tắt là chùa Bổ hay Tứ Ân Tự, toạ lạc ở vị trí đắc địa phong thuỷ, nằm về phía Bắc của chân núi Phượng Hoàng thuộc dãy núi Bổ Đà, xa xa là dòng sông Cầu thơ mộng.


Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại cho biết, chùa bắt đầu có từ thời nhà Lý và được xây dựng lại dưới triều vua Lê Dụ Tông. Hiện nay khu di tích chùa Bổ Đà gồm rất nhiều hạng mục lớn nhỏ trong đó có 4 hạng mục chính, đó là Chùa Cao, am Tam Đức, Chùa Tứ Ân, Vườn Tháp.


Tứ Ân là một trong những hạng mục chính của khu di tích chùa Bổ Đà. Chùa được xây dựng vào thời vua Lê Dụ Tông (thế kỷ 18) và được trùng tu tôn tạo vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX) và những năm gần đây.


Hiện nay, chùa Bổ Đà còn là nơi bảo lưu hơn 40 pho tượng Phật, trong đó phần lớn là tượng Phật cổ thời Lê (thế kỷ XVIII), Nguyễn (thế kỷ XIX).  Ngoài ra còn có các pho tượng bài trí theo tín ngưỡng thờ Nho Giáo, Đạo Giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa.

 


Những pho tượng Phật bằng gỗ mít được làm từ thời Lê.


Tương truyền thời vua Lê Dụ Tông, có vị quan tên là Phạm Kim Hưng quê ở làng Bình Vọng, huyện Thượng Phúc, Hà Tây (nay thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội), sau khi từ quan về quê lập nghiệp đã vân du đến vùng đất Bổ Đà này, nghe các cao tăng giảng đạo và khi đắc đạo ông đã đem tất cả bổng lộc có được trong thời kỳ làm quan đem ra để trùng tu, mở mang di tích và chọn đây là nơi đào tạo các tăng đồ của thiền phái Lâm Tế.

 


Chùa được xây dựng bằng các vật liệu: gạch nung, ngói, tiểu sành, tường bao được làm bằng đất rất độc đáo. Các bức tường, cổng và một số công trình khác được xây dựng hoàn toàn bằng đất nện theo lối chình tường.

 



Khu vườn chùa trồng các loại cây ăn quả truyền thống và các loại hoa màu theo thời vụ. Ngoài giá trị vật chất của di tích, từ xưa khu vườn chùa Bổ Đà đã là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân.

 




Vườn tháp chùa Bổ Đà là một trong những vườn tháp đẹp và lớn nhất trong cả nước gồm 110 ngôi tháp và mộ lớn nhỏ khác nhau.

 



Trong đó, có 97 ngôi tháp cổ có lịch sử hàng trăm năm là nơi tàng lưu tro cốt xá lỵ nhục thân của 1214 tăng ni phật tử của thiền phái Lâm Tế trong cả nước.

 


Các ngôi tháp đều được xây bằng gạch và đá bằng kỹ thuật truyền thống bắt mạch vôi mật mía.


 

Toàn cảnh vườn tháp Chùa Bổ Đà.

 



Các ngôi tháp mộ xếp hàng hàng, lớp lớp và được xây dựng theo những quy định riêng và rất chặt chẽ của thiền môn.

 


Mỗi cây ít nhất cũng an táng từ 4 thi hài đến 26 thi hài, tổng cộng có tất cả 1214 thi hài. Trong số 3 cuốn gia phả bằng chữ Hán ghi rất rõ ràng: "Chỉ những người trong phái Sơn Môn mới được an táng tại vườn tháp, tháp của tăng có hình bình cam lộ trên đỉnh, tháp của ni có trên ngọn có hình hoa sen.

 

Một trong những điểm độc đáo khác biệt ở vườn tháp mà chúng ta nhìn thấy đó là: Tất cả các tháp đều có cửa dạng cuốn vòm nhìn về hướng Đông Bắc.

 


Bên cạnh những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, chùa Bổ Đà hiện nay còn lưu giữ một kho tàng di sản Hán Nôm trên nhiều loại hình và Bộ ván kinh Phật là một trong những Bộ kinh khắc gỗ cổ nhất Việt Nam với hơn 2000 mộc bản, có ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu khoa học./.








25/05/2022

Chia sẻ thú chơi tẩu

 st trên net+kinh nghiệm



Mình cũng mới hút thuốc tẩu được vài năm, kinh nghiệm cũng chưa có nhiều. May là trước đó có mấy ông bạn Tây rau muống truyền thụ và trợ giúp nên cũng nhanh biết hưởng thụ. Mà thật là hưởng thụ nha, vì:

Hút tẩu là hút thuốc lá sợi thật, không phải là giấy cuốn tẩm nicotin như thuốc lá điếu nên giảm rất nhiều độ độc hại.

Hút thuốc tẩu ngon, ngọt, ngậy, thơm hơn thuốc lá.

Hút thuốc tẩu là thuốc tự nhiên, không bị hôi miệng, viêm lợi như thuốc lá điếu. Không ám mùi khó chịu như thuốc lá giấy.

Hút tẩu là thú vui sưu tập đầy nghệ thuật và lôi cuốn tất nhiên là tốn tiền và rất tốn tiền.

Nhưng với người mới hút sẽ rất dễ dàng mắc sai lầm và sẽ tự rút kinh nghiệm cho chính mình.

1. Không mua đủ dụng cụ phụ kiện cho tẩu thuốc.


Bạn cần chuẩn bị đầu đủ bộ dụng cho những cối tẩu đầu tiên của mình. Tẩu thuốc, thuốc tẩu, tool 3 chức năng, que thông tẩu, nước rửa tẩu Demi, bật lửa hút tẩu, bao đựng tẩu….

Bạn phải vệ sinh thường xuyên bằng que thông tẩu sau mỗi cối tẩu.

Việc này để chất hắc ín không bám vào thân tẩu gây tắc lỗ khí và mất vị ngon của cối tẩu sau. Thậm chí nếu có điều kiện bạn nên mua ít nhất là 2 cái tẩu trở lên cho lần mua đầu tiên.

Lý do là quá trình hút sẽ gây ẩm tẩu do nước nhựa thuốc tiết ra trong quá trình bị đốt nóng khiến nõ tẩu bị ẩm. Khi nõ tẩu ẩm hút cối thuốc sau sẽ bị hiện tượng nóng, cay lưỡi và vị thuốc mất ngon, nhạt nhẽo. Đôi khi với thời tiết khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, bạn cần nhiều hơn là hai cái tẩu.

Phần lớn các tẩu sĩ đều có trung bình từ 10-15 cái tẩu trong bộ tẩu hút hàng ngày của mình.

2. Chỉ hút thuốc mộc không hút thuốc thơm

Thuốc tẩu có hai loại cơ bản là Thuốc mộc và Thuốc thơm (tẩm hương liệu). Tại Âu – Mỹ thì phần lớn những người hút tẩu đều hút thuốc thơm hoặc hút cả hai tùy vào sở thích. Thuốc thơm do ướp tẩm hương liệu nên ẩm hơn. Khi hút có vị thuốc gần giống vị thơm của thuốc lá điếu.

Về cơ bản mỗi loại đều có cái hay riêng. Thuốc thơm thường nhẹ hơn thuốc mộc. Hút khi chúng ta đi ăn uống với bạn bè hoặc dự tiệc vì mùi dễ chịu với đám đông. Thuốc mộc hay còn gọi là thuốc hôi có vị ngọt, ngậy tự nhiên. Hút tốt với nhưng đồ uống nhẹ và không gian thưởng thức tốt.

Tại Việt Nam, nhất là khu vực miền Bắc thì mùa đông rất hợp với thuốc mộc dùng với trà ngon nóng. Nhưng mùa hè nóng lên đến 40 độ thì thuốc thơm nhẹ. Đây có vẻ là lựa chọn tốt hơn cho lưỡi và vòm họng của bạn. Ngoài ra thuốc tẩu có cả mấy nghìn loại đủ để cho bạn trải nghiệm suốt đời. Không bó hẹp trong vài loại quen thuộc như thuốc lá điếu.

3. Không vệ sinh lớp “cake”

Quá trình hút tẩu nhựa thuốc sẽ bám vào thành nõ tẩu tạo ra một lớp than gọi là lớp “Cake”. Lớp cake này có tác dụng bảo vệ thành tẩu chống cháy thành và mang lại vị thuốc ngon hơn. Do có nhựa thuốc bám vào. Lớp cake càng ngày sẽ càng dày lên và bạn cần phải cạo lớp cake này đi.

Tại sao lại phải cạo lớp cake đi ? Chúng ta đã mất công nuôi được lớp cake ngon tuyệt này cơ mà ! Bởi vì lớp cake dầy sẽ dẫn đến nhựa thuốc sẽ khó thoát ra dẫn đến bị ẩm nhanh. Nhiệt lượng sẽ dồn xuống đáy lò mạnh và tạo ra vị thuốc gắt hơn, nặng hơn. Để vệ sinh lớp cake này bạn cần một dụng cụ cạo cake chuyên dụng. Lớp cake sau khi cạo còn độ dày 1mm là ổn.

4. Tẩu thuốc thương hiệu là tẩu hút ngon

Về cơ bản những hãng tẩu danh tiếng như Dunhill, Charatan, Stanwell, Peteson, Castenlo, Chacom… đều là những tẩu được làm bởi những thợ tốt và gỗ được tuyển chọn kỹ.

Nhưng không phải là cái tẩu nào cũng lên vị tốt và ngon. Có những tẩu bạn chỉ dùng để hút thuốc thơm. Nếu dùng sang hút thuốc mộc thì không lên nổi vị. Do nhiều yếu tố khi chế tác như chất gỗ, sấy gỗ, chế tác luồng hơi…..

Có những tẩu Dunhill hay Castenlo rất đắt tiền nhưng cũng không lên được vị tốt lắm. Nếu bạn có ý định hút thuốc thơm thì không quá quan trọng điều này. Vị thuốc tẩm hương liệu thì về cơ bản với mọi tẩu đều lên vị tốt.

Nhưng những người hút thuốc mộc đòi hỏi sự tinh tế trong cảm nhận vị thuốc. Tẩu hút ngon là cả một quá trình tuyển chọn. Trong bộ tẩu hàng chục cái của họ chỉ một số cái hút ngon một cách hảo hạng. Dù sao tẩu của các hãng danh tiếng vẫn hứa hẹn mang đến vị ngon hơn là những sản phẩm phổ thông.

5. Tẩu hút thuốc thơm là không hút được thuốc mộc nữa.

Đây là sai lầm khá phổ biến. những người có thói quen chỉ hút thuốc mộc họ không thích vị thuốc thơm. Với họ những chiếc tẩu bị bám cake thuốc thơm không có nhiều giá trị sử dụng. Họ cho rằng tẩu thuốc thơm sẽ có vị khét, đắng và át đi mùi hương vị thuốc mộc.

Nhưng trên thực tế 90% tẩu châu Âu cũ bán tại thị trường Việt là tẩu hút thuốc thơm. Dân chơi Âu – Mỹ đều hút thuốc thơm là chính. Bản thân chiếc tẩu cũ mà họ mua và đang dùng để hút thuốc mộc vẫn lên vị rất ngon. Họ không hề biết lịch sử chiếc tẩu đó đã hút thuốc thơm ngay từ khi còn mới.

Lớp cake do người bán tẩu đã xử lý cạo cake và beck in lại thuốc mộc cho chiếc tẩu đó rồi. Tẩu cũ không phải là không ngon nữa

Thật ra để xử lý cake của tẩu thuốc thơm khá đơn giản để chuyển sang hút mộc, bạn chỉ cần cạo sạch lớp cake đến phần gỗ nõ tẩu sau đó là hút thuốc mộc khoảng 10-20 cối là nhựa thuốc mộc sẽ bám vào nõ và tạo lớp cake mới.

Trong trường hợp có vị đắng và khét, bạn lấy giấy giáp mịn đánh cho sạch hết lớp sơn bóng rồi dùng vecni đánh lại mầu gỗ tự nhiên của tẩu. Sau vài lần hút nhựa thuốc mộc sẽ đẩy hết phần nhựa bám của thuốc thơm trong gỗ ra ngoài. Tất nhiên là bạn nên cần suy nghĩ cân nhắc trước khi đánh mất đi lớp sơn zin của tẩu.

Nếu chiếc tẩu không lên vị thuốc mộc. Sau một thời gian thì chắc chắn rằng chất gỗ làm tẩu của bạn không lên vị thuốc mộc được. Bạn có thể dùng nó để hút thuốc thơm hoặc xì gà sợi.

Thuốc thơm và xì gà sợi phải dùng tẩu riêng để hút không dùng chung với tẩu hút thuốc mộc được.

Yên tâm là nếu bạn có 10 cái tẩu thì chỉ có 3-4 cái tẩu hút thuốc mộc ngon lên vị tốt. Bạn dùng số còn lại hút thuốc thơm hoặc xì gà sợi. Hoặc nếu bạn là fan trung thành của thuốc mộc thì bạn vẫn phải loại trừ dần những chiếc kém lên vị.

Bạn cần chủ động dành riêng một số tẩu ra hút chuyên một loại thuốc mộc. Việc này đảm bảo tính nhất quán của hương vị thuốc mộc, đặc biệt với dòng thuốc mộc Dunhill.

Vài lời chia sẻ để các bạn tham khảo.