21/06/2022

Tản mạn Sài Gòn

 Ngô Quang Hưng


***

Sài Gòn, dù trong thời buổi khó khăn nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các: đỏng đảnh đôi chút mà dễ thương thiệt nhiều.

Nhắc đến Sài Gòn người ta hay nhắc đến mưa, nhưng tôi lại nhớ dai dẳng cái nắng gay gắt của nó.

Nhà tôi ở một con đường nhỏ. Trưa hè đặt cái “lưng dài vai rộng” xuống nền gạch bông mát lịm, ngắm bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì không có nơi nào trên quả đất này cho cảm giác thanh bình hơn.

“Một ngõ vắng xôn xao

Nằm trong lòng phố lớn …”


Khác với Hà Nội, không gian Sài Gòn rất thoáng, chí ít là cách đây hơn 15 năm. Không gian của một buổi trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm giác mình có thể bay bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi.

Tuy thoáng, không gian Sài Gòn không bao giờ làm ta cảm thấy lạc lõng. Những tiếng rao thi thoảng của người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm.

Từ ve chai, bánh bao chỉ, chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, đến mì gõ, … đều có nguời mang đến tận cửa. Có rất nhiều tiếng rao mà đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nghĩa, nhưng nghe cái cung nhạc ấy thì biết ngay là họ bán cái gì.

Người Sài Gòn cũng thoáng như không gian Sài Gòn vậy! Không đâu có thể dễ có nhiều bạn, và bạn không tồi, như ở Sài Gòn. Không chỗ nào trên đất Việt Nam người ta sống năng động và khoáng đạt hơn ở Sài Gòn.

***

Trước khi bàn chuyện “người lớn” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo.

Ðối với một thằng Tèo Sài Gòn chính gốc con nhà nòi thì Sài Gòn dĩ nhiên là “bự” hơn một buổi trưa hè.

Sài Gòn là những chiều tụ tập bấm chuông nhà người ta, cho đến khi nghe chửi “D.M. tụi bai con cái nhà ai mất dại bấm chuông wài dzậy!!!” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy.

Sài Gòn là các hồ bơi Lao Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì nóng hổi với dừa nạo, là nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó hiểu như thần chú: “lang cang báng dội ăn tiền”. Nói sai hay nói thiếu một chữ là đánh nhau chí tử để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp.

Sài Gòn là những buổi tối cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa hồi hộp vừa thích thú nghe và kể chuyện ma như chính mắt mình thấy hôm qua.

Sài Gòn là những con diều làm đi làm lại, treo thêm cả vài cái lưỡi lam để cắt dây diều khác; là dế hộp quẹt thổi phù phù “đá bắt xác”; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi ngâm cắm que cà rem “đa năng” không biết đã được dùng lại bao nhiêu lần.

Lớn lên một tí, Sài Gòn là cô bé hồi hộp chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm; là hàng điệp trải thảm vàng rực ở trường phổ thông; là quán cà phê từng buổi đón em về.

Xin trích đoạn một bài hát tôi viết đã lâu, đặt tên (rất tự nhiên) là “Lâu Lâu”:

 

“Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa

Buổi trưa thường hái trộm me

Thằng leo, thằng đứng làm thang

Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa

Phượng cao mấy cũng trèo lên

Chỉ vì cô bé mắt tròn xoe, … mắt tròn xoe”

 

Dĩ nhiên, cô bé mắt tròn xoe của tôi vẫn đang ở … Sài Gòn.


Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó đơn giản và khoáng đạt, không bao giờ cần cái văn vẻ “màu mè ba lá hẹ”, không cần các suy nghĩ tự tôn ra vẻ triết gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác quan điểm.

***

Sài Gòn còn là thành phố của sự đối lập: giữa những biệt thự kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên những con kênh hôi hám; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề; giữa sự ồn ào bụi bặm và không gian im lắng thanh tao. Nổi bật hơn tất cả là sự đa dạng vô cùng của con người Sài Gòn. Ðặc biệt là họ không sống “như đã từng được sống”, mà luôn “sống như chưa được sống bao giờ”.

***

Ân mình sau các hàng bông giấy, dây thủy tiên chói đỏ, là những ngôi biệt thự lúc nào cũng kín cổng. Không ai biết những người sống trong đó làm gì, là ai, và cũng chẳng ai thật sự quan tâm… ngoại trừ bọn thằng Tí thằng Tèo.

Bọn nhóc chúng tôi thường có rất nhiều các truyền thuyết về những người sống trong mấy ngôi nhà ấy.

Ơ đầu ngõ nhà tôi cách đây khoảng 20 năm có một ngôi nhà như thế, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt to đùng lại thấp lè tè. Mỗi chiều có một anh chàng vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên cửa trông ra đường. Gã chẳng bao giờ cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám đến gần gã. Người ta có rất nhiều “lý thuyết” khác nhau về gã: nào là người yêu bỏ đi Mỹ, bị chế độ mới lấy sạch mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để trốn nghĩa vụ quân sự. Ðến khi hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn chờ ngày xuất cảnh.


Dù gì thì gì, những ngôi biệt thự vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu chuyện mê li rùng rợn bọn tôi truyền miệng mỗi tối cúp điện.

Chỉ cách những tòa lâu đài ấy vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những “truyền thuyết” kiểu khác hẳn: truyền thuyết về các “anh hùng” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên Anh.

Ði thêm khoảng trăm mét nữa là đến con rạch thúi hơn cầu tiêu công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2 con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài cả thước.

“Xóm” tôi có khá nhiều nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon đến Classic 3, từ sòn đô sòn đến Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư nhà bên cạnh. Có lẽ chẳng có món “xí quách” nào… xí quách hơn sự pha tạp của hai loại âm thanh ấy.

Buổi chiều ở Sài Gòn đối lập hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Dường như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta có nhiều năng lượng hơn. Chí ít là bà Tư lúc nào cũng có thừa năng lượng vào buổi chiều. Bà chửi từ ông Tư tới thằng con mất dạy. Ỏng Tư thì chẳng nói lại nhiều lời trừ khi mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen (chứ hổng phải ổng) vác dao bửa củi gí vào cổ bà vợ to béo, gã con trai thì vừa can vừa… đục luôn ông già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng.


Ðiểm lạ (!?) nhất là tiếng Tempest vài năm sau biến mất, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống “vui vẻ” với nhau như thế …

***

Tính đối lập của Sài Gòn rõ nét nhất là vào buổi tối . Người ta đã viết rất nhiều về “Hòn Ngọc Viễn Ðông” và tính phân chia giai cấp khắc nghiệt của nó. Ðó là trước 75. Sau tháng Tư, 1975, cái danh hiệu “Hòn Ngọc Viễn Ðông” bị Bangkok cướp mất, nhưng tính đối lập của Sài Gòn chẳng ai cướp nổi.

Sài Gòn không bao giờ ngủ. Khoảng 9, 10 giờ đêm là các vũ trường bắt đầu hoạt động. Bọn con nhà giàu tí tởn hẹn hò dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua các đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị… sau đó vọt đi mấy cái Discotheques vang bóng một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees…

Phong trào đua xe thì Sài Gòn luôn đi đầu. Thủa chưa có nhiều xe gắn máy thì bọn choai choai đã biểu diễn đi xe đạp một bánh xoay mòng mòng hàng đêm trước nhà hát lớn. Ðến khi có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội “Bồ Câu Trắng” cũng chẳng bị ai ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm Nghi là lấy xe ra cái rụp.

Khuya hơn nữa thì gái “Ca Ve” tràn về các quán cơm tấm, mì xe để “đá đèn” (ăn đêm). Bọn “dân quậy” bao gồm lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn la hét đến 3, 4 giờ sáng.

Cùng khi đó các em nhỏ bán vé số cũng hoạt động cật lực. May mà vớ phải dân chơi trúng quả nó mua cả cọc thì ngày mai không phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác đàn hát “Phố Ðêm”, cay đắng xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa bao giờ hiểu hai chữ “mất mát” nghĩa là gì.

Ðến 3, 4 giờ sáng, khi lũ dân chơi đã hoàn toàn mệt lử lũ lượt ra về, thì dân lao động bắt đầu một ngày mới. Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì bắt đầu xay bột trét bơ nướng bánh thơm lừng. Mấy chị bán cà phê vỉa hè cũng bắt đầu đun nước, pha cà phê vợt cho gã xích lô mới tỉnh ngủ mắt vừa nhắm vừa mở vừa tán tỉnh.

Mùi mồ hôi lẫn với mùi bơ, mùi men, mùi khói SU-100 dần biến, quyện với mùi không khí ẩm mát tinh sương tạo ra “mùi Sài Gòn” buổi sáng ở các khu phố chợ rất đặc trưng.

***

Dân Sài Gòn “quái chiêu” lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện bao giờ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.

Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.

Có lẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài “xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mồng tơi, dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ. Dĩ nhiên để ăn xài thì đầu tiên phải kiếm ra tiền.

Kiếm tiền thì có lẽ không đâu có nhiều cách như Sài Gòn.

Trong thời còn ăn bo bo, gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân Sài Gòn đã bắt đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây “bột năng” đầy ngoài chợ… Hiển nhiên một phần là do ưu thế xa “trung ương”, nhưng phần chính là do dân Sài Gòn sống rất “năng động”.

Những năm 79, 80 mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến thành cái chợ trời đầu tiên của Sài Gòn sau 75. Ỏi thôi thì quần Jeans áo Pull, đồ Mỹ lẫn đồ Chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp,…

Ơ Sài Gòn cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là “rành” nhất bị lừa mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa nói đến giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua? Tiền đâu ra mà mua? Thế mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!

Nếu không thích cảnh chợ búa “gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất hai lần một ngày, sợ hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều . Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác đến chở. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên giết-mổ heo ở xí nghiệp Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái “éc” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất chừng mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợ

Khi xí nghiệp nước đá Sài Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. “Cho con 2 cục đi dì ơi!” là câu cửa miệng trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.

Người ta còn buôn cả những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như pho mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn …

Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì cơ hội kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học sinh nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn thuốc lá Campuchia, mua bán xe gắn máy kiếm vài chỉ dẫn “ghệ” đi chơi dễ như bỡn. Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ khi còn chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!

Kể cả các thầy dạy luyện thi đại học cũng biết làm ăn ra trò: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang danh tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.

Các chị các cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập gia đình.

Ðừng tưởng dân Sài Gòn chỉ lo làm ăn không đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước 30/04/1975, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo “người lớn” của Mỹ, Hong Kong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu thuyết nội ngoại, đều có cả.

Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Jet bị bắt tịch thu luôn cả cái xe Dream. Rõ là ngu! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: “Liên ơi cho anh mượn sợi dây thung.” – “Chi dzậy anh?”, Liên hỏi. Nó bảo: “để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly cà phê của nó không.

***

Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, đa dạng vô cùng!

Dù phần nào bị cuộc sống sôi nổi cuốn trôi, Sài Gòn vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện dễ thương khôn tả: làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái Thắm hàng me gốc điệp không bao giờ phai nhạt trong mắt bọn Tèo Sài Gòn.

Tôi vẫn còn nhớ Tèo Nguyễn Nhật Ánh với “cô gái đến từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn”…

“Lòng em như chiếc lá khoai

Ðổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu …”

Hay Tèo Bùi Chí Vinh:

“Cô gái ơi, anh nhớ em,

Như con nít nhớ cà rem vậy mà.

Như con dế trống đi xa,

Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi

Con dế thường gáy một hơi,

Còn anh gáy hết … một thời con trai, …”

Ðến đây tôi chợt nhận ra rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng “xổ nho” được vài dòng.

Khi viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một chút thì phải bắt đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …

Tôi đã định dừng ở đây vì câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng ban đầu của bạn đọc, nếu có, chắc cũng không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về một Sài Gòn với hai cây thuốc Jet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Jet là mấy.

***

Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ôi đào Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ôi Sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng.

Con gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là… chảy nước miếng.

Con gái Sài Gòn dễ thương lắm! Họ có cái nhìn trong trẻo về cuộc sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý bao giờ . Ði đón trễ thì: “anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông? Ghét dễ sợ luôn hà!” Cộng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Sài Gòn hối hận quá cả 2 tháng sau mới… trễ lần nữa.

Con gái Sài Gòn còn biết ăn mặc, đi đứng, nhất nước. Tiền có thể thiếu chứ phong cách tiểu thư thì chẳng thiếu bao giờ. Tiểu thư Sài Gòn không ưỡn ẹo mè nheo, mà phóng xe vèo vèo đứng tim Tèo.

Giọng gái Sài Gòn thì ngọt hơn mía lùị Cái câu “hổng chịu đâu!” mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu cái gì cũng nghe ráo trọi. Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém ai, nhưng cũng rất thực tế. “Ðược thì được, hổng được thì thôi, làm chi mà dzữ dzậy!”

Sài Gòn là vậy đó, ít nhất là từ cái nhìn của Tèo tôi. Sài Gòn dễ thương khôn tả, khoáng đạt và bao dung, rộng rãi và hào phóng. Người Sài Gòn sống nhanh nhất nước, không sợ cái mới, ghét cái lỗi thời, rất thực tế.

Còn ti tỉ nhiều đề tài thú vị về Sài Gòn mà tôi không muốn đề cập vì lười là chính: cuộc sống sinh viên học sinh Sài Gòn, các trò ma mãnh “cua ghệ” của bọn Tèo Sài Gòn, con trai Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn, …

Tôi đã nghe rất nhiều những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm: con trai Sài Gòn thế này, con gái Sài Gòn thế kia, dân Sài Gòn thế nọ… Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa số những người nói mấy câu đó không phải là Người Sài Gòn hoặc chưa bao giờ thật sự sống ở Sài Gòn.

Không hiểu có ai đó đọc bài này xong thì có thay đổi cái nọ cái kia trong nhận thức của họ không? Hy vọng nhỏ nhoi của tôi là những thay đổi, nếu có, là theo hướng tốt hơn.

Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ ray rứt cái ngõ nhỏ xôn xao ấy…

 

Hoa Tam thất - vị thuốc quý

 


Ông Vương Quỳnh Sơn hậu duệ vua Mèo Vương Chí Sình ở Đồng Văn (Hà Giang) lúc còn sống có đến thăm bà con người Mông ở Châu Văn Sơn, một trong năm châu tự trị của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Ông kinh ngạc vì nhìn thấy những vườn trông cây Tam thất một loại thảo dược quý được người Mông ở đây trồng với quy mô hàng nghìn ha.

Sản lượng Tam thất mỗi năm ở Châu Văn Sơn đạt trên 1400 tấn và chiếm 85% thị phần Tam thất của Trung Quốc. Ông Vương đã gặp  nhiều người Mông ở đây đã làm giàu từ việc trồng cây Tam thất.

Hoa tươi

Nhận thấy vùng cao Đồng Văn (Hà Giang) có khí hậu và đất đai giống Châu Văn Sơn, ông có khuyên bà con người Mông nên học đồng bào Mông ở Châu Văn Sơn trồng cây Tam thất để xoá đói giảm nghèo và là giàu. Tam thất là cây thuốc quý đã được mệnh danh là “Kim bất hoán” có nghĩa là vàng không đổi được.

Nhiều người còn cho rằng tam thất chữa được cả bệnh ung thư, nên nhu câu tiêu thu Tam thất rất lớn không những ở châu Á nơi có nền y học cổ truyền phát triển mà còn tiêu thụ nhiều ở cả châu Âu. Nguồn Tam thất tiêu thụ ở Việt Nam chủ yếu từ các tỉnh Vân Nam Trung Quốc qua đường nhập khẩu chính thức. Và một lượng không nhiều trồng ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu.

Hoa khô


Theo dược thư cổ, hoa tam thất vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt (làm mát, giải nhiệt), bình can (điều hòa chức năng của tạng can), giáng áp (hạ huyết áp) và an thần, trấn tĩnh, thường được dùng để chữa các chứng và bệnh như tăng huyết áp, huyễn vựng (hoa mắt, chóng mặt trong hội chứng rối loạn tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não...), nhĩ minh, nhĩ lung (tai ù, tai điếc), viêm hầu họng cấp tính...

Với y học hiện đại, hoa tam thất có thành phần chính là hoạt chất của nhân sâm Rb1, Rb2, có vị ngọt, mát và có tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, giúp tăng cường tuần hoàn máu.

Thanh nhiệt: hoa tam thất có tác dụng thanh nhiệt (làm mát, giải nhiệt);

Bình can: (điều hòa chức năng của tạng can);

Bổ huyết (chống thiếu máu), cầm máu, giảm đau, tiêu ứ huyết;

Chống viêm tấy, giảm đau, chữa trường hợp viêm động mạch vành, đau nhói vùng ngực, chấn thương sưng tấy đau nhức, viêm khớp xương đau loét dạ dày tá tràng, trước và sau phẫu thuật để chống nhiễm khuẩn và chóng lành vết thương;

Tốt cho hệ thần kinh như tác dụng an thần, trấn tĩnh, dễ ngủ và ngủ sâu giấc (chữa các chứng mất ngủ, ngủ hay mơ và nghiến răng);

Chữa tăng huyết áp bởi hoa tam thất có tác dụng giáng áp (hạ huyết áp);

Phòng ngừa các biến chứng tim mạch, tai biến mạch máu não, ngăn ngừa chứng lú lẫn ở người già;

Làm tăng lực cụ thể như giảm căng thẳng mệt mỏi, giúp tăng lực mạnh, tăng khả năng làm việc, rất tốt cho người ăn uống kém, lao động quá sức, hay ra mồ hôi trộm;

Ngăn ngừa, phòng chống bệnh như là kích thích hệ miễn dịch, ức chế vi khuẩn và siêu vi khuẩn, tăng sức đề kháng giúp cơ thể phòng chống bệnh tật về lâu dài, sử dụng thường xuyên sẽ nâng cao tuổi thọ.

Ngoài ra, còn có khả năng ngăn ngừa, phòng chống bệnh ung thư, cụ thể là tác dụng ức chế sự hình thành và phát triển của khối u;

Chữa các bệnh do thiếu máu lên não nhờ khả năng làm tăng cường máu lên não chữa các chứng bệnh đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, choáng;

Chữa nhĩ minh, nhĩ lung tức là chữa các chứng bệnh tai ù, tai điếc.

Rất tốt cho tế bào gan, tăng cường chức năng giải độc gan, hạ men gan;

Điều chỉnh rối loạn chuyển hóa mỡ nên rất tốt với người gan nhiễm mỡ.

Chữa tiểu đường: hạ đường huyết, giúp bệnh nhân tiểu đường mạnh khỏe và giảm các biến chứng do bệnh tiểu đường gây ra.

Làm đẹp, giảm béo: chống lão hóa, điều chỉnh rối loạn chuyển hóa mỡ nên làm giảm béo tốt, nhất là béo bụng, béo đùi;

Tác dụng thanh nhiệt (làm mát, giải nhiệt), giải độc gan, hỗ trợ chữa và phòng chống mụn, nám da, giúp cho làn da sáng đẹp. Song còn tác dụng lợi sữa cho phụ nữ sau sinh.

Cách sử dụng hoa tam thất trong trị liệu rất đơn giản: Mỗi ngày dùng từ 2 - 3g (kinh nghiệm của mình là cho 2, 3 cánh hoa vào cốc nước  sôi 200ml, bông hoa nở xòe to gấp 3 lần khi khô), pha vào nước sôi uống như trà đến khi hết vị ngọt đắng thì hãy thay ấm khác.

Bảo quản nơi khô mát – Nguồn của loại hoa này tốt nhất là thuộc dãy Hoàng Liên Sơn (như ở Sapa, Lào Kay – Yên Bái). Giá cũng đắt, như thời điểm hiện tại khoảng 6 - 800k/kg hoa khô.

 

20/06/2022

Hãn huyết mã - Loài ngựa đổ mồ hôi máu

 sưu tầm trên net


Theo thống kê, hiện tại có khoảng 300 giống ngựa khác nhau đã được con người thuần hoá và nuôi dưỡng đang hiện diện trên thế giới chúng ta. Vậy nên, nếu không rành về loài ngựa thì chắc hẳn nhiều người chỉ có thể phân biệt được ngựa vằn so với tất cả các giống ngựa còn lại của thế giới.

 


Nhưng Hãn Huyết Mã lại là loài ngựa rất khác biệt so với họ hàng "nhà Ngọ", bởi chúng được xem là loài ngựa sở hữu vẻ ngoài đẹp nhất thế giới cùng tốc độ phi nước kiệu cực kỳ nhanh nhạy. Nhưng có lẽ điều đặc biệt nhất ở loài ngựa xuất hiện trong truyền thuyết này là mồ hôi của chúng có màu đỏ như màu máu.

 


Hãn Huyết Mã được xem là loài ngựa sở hữu vẻ ngoài đẹp nhất thế giới cùng tốc độ phi nước kiệu cực kỳ nhanh nhạy.

 


Hãn Huyết Mã - loài ngựa xuất hiện trong truyền thuyết

 


Hãn Huyết Mã còn được gọi là giống ngựa Akhal-Teke, có nguồn gốc ở Turkmenistan và là một loài ngựa cổ xưa, quý hiếm bởi chúng được người dân vùng Trung Á xem là loài vật đến từ thiên đường. Cũng vì lẽ đó nên ngay từ xa xưa, ngựa Akhal-Teke đã có tên trong những câu chuyện truyền thuyết ở khu vực này. Được biết, cái tên Akhal-Teke của loài ngựa quý hiếm này là sự kết hợp giữa tên ốc đảo Akhal và bộ tộc Teke.

 


Ngoài sở hữu vẻ ngoài dễ khiến nhiều người mê đắm với bộ lông óng mượt và mịn màng như tơ thì Hãn Huyết Mã còn có tốc độ phi nước kiệu rất phi thường hiếm có loài ngựa nào sánh kịp. Bên cạnh ngoại hình thì còn một điều khiến chúng càng thêm quý hiếm bởi loài ngựa này không mấy phổ biến trên thế giới do chúng được bảo tồn rất nghiêm ngặt để gìn giữ tính thuần chủng.

 


Loài ngựa này không mấy phổ biến trên thế giới do chúng được bảo tồn nghiêm ngặt để gìn giữ tính thuần chủng.

 


Đặc biệt, tuy có nguồn gốc từ Turkmenistan - một quốc gia thuộc vùng Trung Á nhưng Hãn Huyết Mã lại trở thành loài ngựa huyền thoại ở Trung Hoa từ thời xa xưa. Và cái tên Hãn Huyết Mã của chúng cũng xuất phát từ thời ấy bởi tương truyền mỗi khi khi cất vó, loài ngựa này tiết ra một thứ mồ hôi có màu đỏ như màu máu phủ kín cơ thể. Ngựa Akhal-Teke cũng từng xuất hiện trong tiểu thuyết võ hiệp "Anh hùng xạ điêu" của Kim Dung và đồng hành cùng hoàng đế Ba Tư Xerxes và Alexander Đại Đế của người Macedonia.

 


Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, dưới thời Hán Vũ Đế, Hãn Huyết Mã còn được gọi với tên là Thiên mã - nghĩa là ngựa trời và Hán Vũ Đế thường treo thưởng rất hậu hĩnh cho những ai săn tìm được chúng. Bên cạnh đó, qua việc khai quật lăng mộ Hán Vũ Đế, các nhà khảo cổ học đến từ viện khảo cổ Thiểm Tây cũng đã phát hiện xương cốt của khoảng 80 con Hãn Huyết Mã được chôn theo tại đây.

 


Truyền thuyết kể rằng, dưới thời Hán Vũ Đế, Hãn Huyết Mã còn được gọi với tên là Thiên mã - nghĩa là ngựa trời.

 


Vẻ ngoài mê đắm lòng người cùng sự dẻo dai và tốc độ đáng kinh ngạc

 


Quả thật, không hổ danh là loài ngựa quý hiếm và được xem là loài vật đến từ thiên đường, ngựa Akhal-Teke sở hữu vẻ ngoài dễ khiến nhiều người mê đắm với bộ lông rất đẹp và khó có loài ngựa nào trên thế giới có thể sánh bằng. Bộ lông của Hãn Huyết Mã ngoài rất mềm mại, mượt mà còn phản chiếu ánh mặt trời lóng lánh như sắc màu kim loại.

 


Lông của Hãn Huyết Mã ngoài rất mềm mại, mượt mà còn phản chiếu ánh mặt trời lóng lánh như sắc màu kim loại.

 


Với nhiều người, loài ngựa đặc biệt này không chỉ thu hút ánh nhìn ở vẻ bề ngoài long lanh cùng hình thể uy nghiêm mà dường như chúng còn đẹp từ đầu đến chân. Mặt và đầu của Akhal-Teke thuôn dài như quả hạnh và rất cân đối. Mũi của chúng rộng nhưng tai lại rất mảnh, làn da mỏng đến độ trong suốt. Đặc biệt, đa số mắt của loài ngựa này đều có màu xanh cẩm thạch vừa rất ma mị lại vừa rất đẹp.


 

Với nhiều người, loài ngựa đặc biệt này không chỉ thu hút ánh nhìn ở vẻ bề ngoài long lanh cùng hình thể uy nghiêm mà chúng còn đẹp từ đầu đến chân.

 Nhờ lưng dài, cổ thẳng và cao, ngực hẹp, chân trước thẳng, chân sau cong như lưỡi liềm cùng phần hông mảnh mai và ngực hẹp nên Hãn Huyết Mã có tốc độ phi nước kiệu rất mạnh mẽ (1km/1 phút 7 giây) cùng sự dẻo dai đáng kinh ngạc. Theo ghi chép, vào năm 1935, một bầy ngựa Akhal-Teke đã băng qua sa mạc Karakum với quãng đường dài đến 4.152 km chỉ trong thời gian 84 ngày. Đặc biệt, trong chuyến đi ấy, có thời gian lên đến 3 ngày chúng không uống một giọt nước nào.

 


Hiện tại, Akhal-Teke là giống ngựa được xem thuần chủng nhất thế giới. Tuy sở hữu vẻ ngoài long lanh và sức mạnh phi thường như vậy nhưng Hãn Huyết Mã lại rất kém trong việc thích nghi với nhiều môi trường sống khác nhau. Đó cũng là lý do khiến chúng đang còn hiện diện khá ít trên toàn thế giới, chỉ khoảng 1.200 cá thể. Nhưng cũng vì lý do "hiếm có khó tìm" này cộng với vẻ đẹp của chúng mà Hãn Huyết Mã thường được các đại gia sẵn sàng bỏ ra một số tiền rất lớn để săn đón chúng.