27/05/2015

Ram dao

Bài viết của Aboo Phạm:
   Ram là công đoạn cực kì quan trọng sau khi trui, nó làm ổn định thép, khử ứng suất dư do quá trình trui tạo ra. Ngoài ra nó còn giúp gia cố thêm ranh giới cứng mềm trên lưỡi dao, giúp dao chịu lực uốn ngang tốt hơn.
   Phạm xin chia sẻ một cách ram trong chậu cát ướt mà Phạm hay dùng. Cách này khá dễ dành cho những ai mới tập nhiệt luyện, nhưng cũng cực kì hiệu quả.
   1. Phạm dùng hộp khuôn làm bánh bông lan, cùng với loại cát trắng cúng bàn thờ (vì độ mịn và sạch, tuy nhiên lại không quá mịn như đất sét, giúp trở lật dễ hơn). Cắm mép lưỡi dao vào trong cát ướt sâu khoảng 5-7mm. Với nguồn nhiệt để ram từ đèn khò gas mini, Phạm để ngọn lửa vuông góc với mặt phẳng cát, tức từ trên sống lưng dao khò xuống. Chú ý quan sát màu cầu vòng chuyển động trên lưỡi thép, sao cho phần màu xanh tím chạy tới gần mép cát thì chuyển nhiệt sang vị trí bên cạnh, bắt đầu từ gốc bén (plunge) cho tới mũi dao, khi dải màu truyền xuống tới gần mép cát ướt, thì phần thép từ dải màu tới mép bén sẽ tự động chuyển sang màu nâu (~200 độ C), đây là một trong những lý do Phạm thích sử dụng cát ướt hơn là nước không - bùn - nẹp thép (nước thường làm nguội nhanh, nên phần thép chìm trong nước thường lâu chuyển màu, hoặc phải nâng lên hạ xuống trong không khí để nó chuyển màu, quá trình này có thể bị quá nhiệt, làm mềm lưỡi - Cát ướt sẽ trung hòa điều này).
   2. Tới vị trí mũi dao, vì phần này mỏng nên cần chú ý nhiệt thật cẩn thận, KHÔNG BAO GIỜ KHÒ TRỰC TIẾP LỬA VÀO MŨI, và giữ ngọn lửa cách mũi khoảng 15-20mm và theo dõi màu di chuyển trên thép, giữ dải màu xanh tím dừng cách mũi chừng 7-10mm, và xem tiếp coi phần thép từ sau dải màu đó tới mũi đã chuyển sang màu nâu chưa (~200 độ C). Nếu phần thép đó đã chuyển sang màu nâu thì lập tức nghiên mũi dao cắm xuống cát ướt theo cung cong của mũi, tránh cho nhiệt chạy quá lố lên làm mềm mũi. Phần này phải đặc biệt cẩn thận, chú ý, thao tác thật nhanh gọn để mũi không bị mềm do quá nhiệt. Sau đó thì ta dùng tay nâng lên xuống để lưỡi dao di chuyển trong cát ướt theo cung cong của nó, giảm tải bớt nhiệt.
   Trong các chi tiết cơ khí, người ta thường ram 02 lần, lần đầu để khử ứng suất vĩnh viễn, lần hai để khử ứng suất tạm thời. Dao cũng có thể làm vậy, hoặc không cũng không sao. Nếu muốn ram lần hai thì nên sử dụng lò nướng, ở 200 độ C trong 10-20' tùy vào màu thép trên lưỡi dao khi ram lần đầu trong cát ướt.
   Cây dao trong ảnh minh họa, Phạm bị lật tay khi mài nên nó hư mất phần lưng, tuy nhiên vẫn ram để làm dao phóng. Anh em đừng tập trung vô cây dao, chú ý phần màu thôi nhé. 




25/05/2015

12 CÁCH TẠO NGHIỆP TỐT CHO BẢN THÂN VÀ GIA ĐÌNH


ĐẠO HỮU LILLIAN TOO, NHÀ PHONG THỦY NỔI TIẾNG THẾ GIỚI, ĐÃ VIẾT HƠN TÁM MƯƠI CUỐN SÁCH VỀ ĐỀ TÀI NÀY, VÀ BÀ CŨNG ĐÃ CHO XUẤT BẢN TẠP CHÍ FENG SHUI WORLD (PHONG THỦY THẾ GIỚI) PHÁT HÀNH HAI THÁNG MỘT KỲ.
Theo giáo lý nhà Phật, luật nhân quả được giải thích rằng mỗi sự việc xảy ra sẽ có một sự kiện khác đi theo sau đó. Hệ quả xảy ra có an lạc, hạnh phúc hay khổ đau, khó chịu, có lợi hay có hại cho người khác và cho chính mình, tất cả đều tùy thuộc vào nguyên nhân ban đầu của hành động đó. Luật nhân quả dạy rằng gieo gió sẽ gặp bão, trồng cam sẽ được quả ngọt, trồng chanh ắt phải hái trái chua, đem niềm vui đến cho người, mình sẽ được hạnh phúc, gây khổ đau cho người, mình sẽ chịu sự bất hạnh. Người ta không thể thoát khỏi nghiệp quả của mình một khi chính mình đã gây tạo.
Có nhiều cách tạo ra nghiệp tốt để hóa giải đi những nghiệp xấu mà chính mình đã cố ý hay vô tình gây ra trước đó. Bài viết này xin cống hiến 12 cách mà bạn có thể làm được ngay trong kiếp này để đời sống của bạn thay đổi.
1. Hãy lấy từ bi làm tôn giáo của mình
Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là theo tôn giáo hay mộ đạo. Người ta không cần phải là một tín đồ Phật giáo hay thuộc về tín ngưỡng nào đó để có thể tạo nghiệp tốt. Con người chỉ cần thể hiện thái độ tử tế ân cần với người khác. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhắc nhở: “Tôn giáo của tôi là lòng từ bi”.
Như vậy đã tạo nghiệp tốt rồi, không phải chỉ tử tế với người khác trong chốc lát mà phải luôn luôn, suốt cuộc đời của mình, trong mọi phương diện của đời sống, trong mọi mối liên hệ, trong mỗi công việc làm, trong tất cả những giao tiếp; Khi chúng ta tiếp cận một việc gì mình làm, được thể hiện tấm lòng từ bi, thì khi đó chúng ta đang tạo nghiệp tốt, và đó là loại nghiệp tốt tạo ra hệ quả mà tất cả mọi người khác đều tử tế với mình. Đó là phương cách chắc chắn nhất để gây dựng cuộc đời mà trong đó những phiền não khổ đau sẽ tiêu tan.
2. Trì chú
Trì chú là việc làm cơ bản và dễ nhất cho hành giả tu theo Mật tông để bắt đầu đi trên con đường mở ra những chân trời mới cho tâm trí. Trước hết trì chú là cách thức mạnh nhất để thanh lọc những ác nghiệp mà chúng ta đã mang tới trong thế gian này với mình từ quá khứ. Nghiệp quả xấu vẫn còn ở trong thần thức của mỗi người, dòng tâm thức mà chúng ta mang theo từ kiếp sống quá khứ.
Chúng ta hãy bắt đầu với thần chú nổi tiếng nhất thế giới, đó là tâm chú của Bồ-tát Quán Thế Âm “Án Ma Ni Bát Di Hồng” (Om Mani Padme Hum). Khi trì thần chú này, hãy tập trung vào âm thanh của chú và để âm thanh thâm nhập vào tận tâm thức của mình. Luôn luôn trì chú với ý tưởng mang lợi ích đến cho người khác. Không bao lâu, chúng ta sẽ thấy kết quả với những lợi ích tuyệt vời thâm nhập qua tâm thức của mình.
Chúng ta sẽ sớm cảm thấy mình trở nên dễ thương hơn, khoan dung hơn, bớt bối rối hơn và trở nên bình tĩnh hơn. Nhiều vị Lạt Ma cao cấp nói rằng trì thần chú “Án Ma Ni Bát Di Hồng” có thể đưa chúng ta đến giác ngộ. Đây là một trong những thần chú có nhiều oai lực nhất mà chúng ta có thể hành trì hàng ngày.

 3. Niệm Phật
Một cách thức mạnh mẽ không ngờ để giải trừ những ác nghiệp là niệm danh hiệu Phật và lễ Phật sám hối. Trong khi niệm Phật chúng ta phát khởi ý nghĩ sám hối về những nghiệp xấu đã tạo ra trong những kiếp trước và ngay trong kiếp sống này.
Niệm Phật thành tâm, nhờ tha lực của chư Phật cùng với sự tự lực của bản thân sẽ giúp cho những bất thiện nghiệp của chúng ta tiêu tan dần theo năm tháng. Chúng ta phát tâm quy ngưỡng Phật, tôn kính Phật, lễ Phật và niệm danh hiệu Phật là pháp tu phổ thông để tội diệt phước sanh, là phương pháp rất mạnh mẽ để hóa giải những chướng ngại gây ra phiền não khổ đau cho chúng ta trong đời sống này.
4. Thực hành thiền quán
Mấy năm trước khi gặp Thầy Bổn sư của tôi là Lạt Ma Zopa (lãnh đạo tối cao của Hội Bảo tồn Truyền thống Phật giáo Đại thừa, fpmt.org), tôi thỉnh ngài hướng dẫn tôi ngồi thiền, tôi trình với ngài rằng: “Lúc nào con cũng cảm thấy u uất trong lòng , xin Thầy hướng dẫn con tập thiền để tâm con được an tĩnh”. Thầy Zopa cười nhẹ và nói: ”Tham thiền là pháp tu tuyệt vời. Thiền không phải chỉ để tâm trí an tĩnh thôi đâu, mà thiền còn có mục đích cao hơn nữa con ạ”.
Ngài vắn tắt giải thích rằng: Thiền định hay sự phát triển tâm linh, hay sự quán chiếu về khổ đau, vô thường và vô ngã. Tham thiền là cách làm cho tinh thần tập trung, thanh thản và trong suốt như dòng sông nước trong mà người ta có thể nhìn thấy tận đáy, từ đó ý thức biết được sự thể nghiệm về giải thoát và giác ngộ.
Tham thiền cũng là quá trình tập trung và thâm nhập, nhờ đó mà tâm chúng ta được an tĩnh và nhất tâm bất loạn rồi đi đến giác ngộ. Nên hiểu rằng thiền là sự nhận chân ra năng lực tâm linh mới để có thể phán đoán sự vật trên quan điểm mới, với mục đích là dứt khoát lật đổ ngôi nhà giả tạm mà mình đang có để dựng lên cái khác trên nền móng hoàn toàn mới. Mái nhà cũ gọi là vô minh khổ đau, ngôi nhà mới được gọi là giác ngộ giải thoát. Đó là đích đến của mọi hành giả tu theo đạo Phật.
Về căn bản, hành giả ngồi trên tấm nệm với hai chân khoanh lại, lưng thẳng, hai mắt hé mở, nhìn khoảng một thước về phía trước và bắt đầu thở đều hòa. Suy ngẫm và tập trung vào lý do hành thiền, động cơ ngồi thiền của mình, đó là phát tâm làm lợi ích cho chúng sanh. Xem động lực vị tha này là nền móng của việc tham thiền. Từ đó trở đi hành giả có thể quán tưởng về bất cứ đề mục nào liên quan đến việc phát triển sự hiểu biết về đời sống của mình.
Khi quán tưởng như vậy, hành giả nhẹ nhàng suy ngẫm về sự quý báu của đời người và sự may mắn là mình đã được sanh ra làm người, được sống, được gặp chánh pháp như hôm nay. Hành giả sẽ nhận thức rằng chỉ riêng việc sinh ra làm người đã là một may mắn rồi, vì mình có khả năng phân biệt, hiểu biết và suy nghiệm nghĩa lý sâu xa của Phật lý, để rồi biết tu tập để giải thoát vòng sinh tử khổ đau.
 5. Nhường đường khi lái xe
Đã không ít tai nạn chết người xảy ra khi người lái xe giành đường, do vậy khi người Phật tử chạy xe trên đường phải giữ chánh niệm và biết rằng đây cũng là cơ hội cho ta tạo nghiệp tốt. Nhường đường cho người khác là chúng ta chạy chậm lại khi có người muốn vượt lên trước mình, dằn cảm giác khó chịu xuống hay không bóp kèn khi có người quẹo xe ẩu hoặc thậm chí đụng phải xe của mình. Những phiền não như vậy trong việc giao thông là những cơ hội cho ta đào luyện tâm trí với nụ cười hoan hỷ trong bình tĩnh.
Chúng ta cũng có thể nhường đường cho người khác ngay cả khi mình có quyền ưu tiên. Khi không có ý tưởng xem con đường là nơi tranh chấp giữa mình và những người lái xe khác, việc giao thông của chúng ta sẽ thú vị hơn nhiều và mỗi lần nhường đường cho người nào, chúng ta sẽ rất vui lòng vì biết rằng việc kềm chế tánh dễ nổi nóng của mình và đây cũng là một cách để tạo nghiệp tốt mà kết quả có về sau là đời sống của mình luôn gặp mọi sự hanh thông và may mắn.
6. Dành phần thắng cho người khác và chấp nhận thua thiệt
Khi nhường nhịn người khác, chúng ta nhiếp phục được sự tự ái của mình, và không thể để cho tự ngã của mình nghĩ đến những điều vị kỷ. Khi chấp nhận thua thiệt, sẽ là cơ hội cho ta diệt trừ tính kiêu ngạo. Pháp tu đặc biệt hữu dụng khi hoạt động trong thế gian vật chất hay trong cách cư xử với người khác trong công việc. Khi làm việc gì quan trọng hay phải làm xong một việc nào đó trước thời hạn, sự căng thẳng thường phát sinh giữa mình và người khác, và đó là lúc người ta nghĩ đến ảo tưởng thắng và thua, được và mất. Hãy xem đó là những cơ hội tạo nghiệp tốt.
Tôi nhớ có những lần tôi đã tranh luận một cách nóng nảy chỉ để biện minh cho quan điểm của mình, để rồi rốt cuộc tôi nhận ra rằng mình đã không chỉ gây ra phiền não cho mình mà còn làm cho người khác bực mình, khó chịu nữa.
Chỉ khi gặp được Lama Zopa và được học Phật, tôi mới học được phương cách đối trị tính háo thắng của mình. Tôi đã khám phá tính chất giải thoát của sự chịu thua thiệt, sự buông bỏ và sự không bị trói buộc vào tham vọng chiến thắng. Đó là lúc tôi nhận ra là mình đã cảm thấy an lạc nhiều hơn mỗi khi chấp nhận thua thiệt, nhường phần thắng cho người khác. Hành vi đầu hàng trước ý kiến hay quan điểm của người khác không phải là trốn tránh thảo luận, mà là một lối đồng ý với nhau rằng chúng ta không đồng ý kiến, và đồng thời vẫn tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ nhau. Khi làm như vậy, chúng ta đang tạo nghiệp tốt và tất nhiên bạn sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ tương tự của người khác trong tương lai.
7. Tránh sát hại những sinh vật nhỏ nhất
Người ta dễ dàng xâm hại đến sinh mạng của các loài vật, đặc biệt là những loài nhỏ nhất. Một hôm đang đi trên lề đường, tôi nhận thấy có nhiều con kiến bò ngang lối đi, tôi biết rằng nếu mình không có ý thức thì mình đã vô tình giết chết nhiều sinh mạng và như vậy chúng ta dễ dàng tạo ác nghiệp về sát sinh ngay trên mỗi bước chân của mình. Tôi cẩn thận không dẫm đạp lên những con kiến nhỏ bé này và tôi ngạc nhiên cảm thấy sự vui sướng rộn lên trong lòng của mình.
Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, ngay cả những con vật nhỏ nhất cũng có Phật tánh, nhưng vì kiếp này chúng vì nghiệp chướng nặng nề nên phải mang thân hình khác người, hiểu điều đó, nên ta cố gắng tránh sát hại một cách vô ý thức của chúng ta. Kết quả tránh sát hại sinh vật sẽ giúp chúng ta sống khỏe mạnh, không bệnh tật và tăng tuổi thọ về sau.
8. Phóng sinh
Phóng sinh là hành động cứu sống, công đức rất lớn, có thể giúp người làm việc này giảm bệnh tật và kéo dài tuối thọ ngay trong hiện đời. Mấy năm trước khi tôi đến thành phố Varanasi, Ấn Độ (nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên), trong chuyến hành hương với Thầy tôi, Lama Zopa. Ngài đã đưa chúng tôi đến thăm sông Hằng và hướng dẫn chúng tôi làm công đức. Chúng tôi ngồi trền thuyền cầu nguyện và thả cá xuống giòng sông.
Tôi có cảm giác tuyệt vời khi nhìn thấy những con cá tươi sống mà chúng tôi vừa mua từ những người dân chài ở gần đó, chúng quẫy đuôi nhảy trở lại nước sông và bơi lội tự do. Sau đó thầy tôi ghi câu thần chú trên một trái bong bóng rồi cột ở mạn thuyền để cho bong bóng chạm vào làn nước trong khi chiếc thuyền lướt đi. Ngài giải thích rằng bằng cách này để cho thần chú của Phật chạm vào làn nước để ban phước cho những loài vật sống dưới nước.
9. Cúng nước
Mấy năm trước khi gặp Thầy tôi, Lạt Ma Zopa lần đầu tiên, tôi thỉnh Ngài về nhà tôi. Ngài rất hoan hỷ khi nhìn thấy bức tượng Phật độc nhất mà tôi chưng trong phòng khách. Ngài bảo tôi lấy chén nước để ngài cúng bức tượng đó. Ngài dạy tôi cúng chén nước sẽ tạo nhiều công đức và là phương thức có oai lực lớn để hóa giải những nghiệp xấu về sân hận và những vấn đề khác còn tồn tại trong tâm trí của mình.
Tôi đã làm theo lời dạy của ngài mỗi ngày, và không bao lâu chúng tôi đã có hàng trăm chén nước trong nhà, chỉ vì thời gian qua tôi có thêm những tượng Phật mới. Tôi rất thích đi tìm những loại chén pha lê và việc thay nước mỗi buổi sáng đã trở thành một nghi lễ trong gia đình của tôi.
Qua thời gian, tôi cảm thấy những kết quả tốt, căn nhà của tôi đã trở thành một ốc đảo thấm đầy an lạc, và những chướng ngại trước đây trong đời sống của chúng tôi nay đã tan biến mất. Những sân hận cáu gắt, những trận cải vã vô nghĩa, nhỏ mọn thường phá sự yên tĩnh trong nhà chúng tôi, nay đã không còn nữa, những cơn nóng giận đã đi vào quá khứ. Thật là một điều kỳ diệu khi chúng ta cúng nước cho chư Phật.
10. Bố thí, đóng góp cho việc từ thiện
Hành động hiến tặng cho người khác là một cách thức tuyệt vời để tạo nghiệp tốt trong đời sống ngắn ngủi này. Bố thí là hạnh đi đầu của những ai muốn thực thi Bồ tát hạnh. Kết quả của hạnh bố thí là mình được giàu sang, phú quý về sau. Về phương diện tinh thần thì lòng tham lam, bủn xỉn của mình nhỏ dần lại và biến mất sau một thời gian mình thực hành việc bố thí.
Khi hiến tặng cho người cũng là lúc chúng ta gia tăng tích lũy thiện nghiệp xuất phát từ lòng từ bi. Mình luôn cho ra với tấm lòng quảng đại, vui vẻ, hoan hỷ không có bất cứ một điều kiện nào đi kèm, đó là bố thí đúng nghĩa với lời Phật dạy. Nếu bạn không có khả năng bố thí tiền bạc thì có thể bố thí thời giờ, công sức, sự hiểu biết hay tài năng của mình, để giúp cho đời sống này bớt khổ đau, tất cả những điều này cũng có giá trị ngang nhau với tiền bạc. Một khi động lực tinh truyền, không ý đồ mưu toan xen lẫn vào hành động bố thí thì bạn đã thành công phần nào đó trong công hạnh này rồi.
11. Nuôi cá cảnh
Khi viết những cuốn sách về phong thủy, tôi luôn đề nghị thân chủ nuôi cá cảnh để tạo lực thịnh vượng và sự mát mẻ trong gia tộc. Nhưng việc nuôi cá cũng có mục đích cao hơn về tinh thần. Mỗi buổi sáng khi cho cá ăn hoặc thay nước cho cá, đó là bạn đang tạo nghiệp tốt.
Thật vậy mỗi lần cung cấp thức ăn cho cá là bạn có niềm vui vì biết mình đang làm việc tốt. Những con cá không cần phải đẹp và hồ nước của cá cũng không cần phải có ý nghĩa phong thủy để làm động lực cho lòng từ bi của bạn phát sinh. Hãy nghĩ như vậy rồi những con cá sẽ mang đến cho bạn những niềm vui lớn trong đời sống này.
12. Sẵn lòng lắng nghe tâm sự của người khác
Khi có người nào tìm đến mình để tìm sự an ủi, chia sẻ hay để nương tựa vào bạn, vì họ không có người nào để tìm tới, bạn đừng xua đuổi họ, dù đó là người mà bạn chưa từng quen biết, dù bạn đang bận rộn, dù bạn không thích nghe người khác than thở. Bạn chỉ cần dành một chút thời gian cho họ. Hãy sẵn sàng làm bạn với cả những người xa lạ.
Dùng tinh thần mạnh mẽ của mình để giúp những người yếu đuối. Chia sẻ kinh nghiệm an lạc của mình với người khác, dù cho người ấy không quen thân với mình, làm được như vậy là bạn đang thực hành tốt lòng từ bi trong đời sống và cũng là người đang đi trên lộ trình hành Bồ-tát đạo.

Hà Nội những năm đầu thế kỷ 20 (Phần 1)

   Một số ảnh trong số này tôi có thể nhận ra tên phố, nhưng phần lớn tôi không nhận ra do quá cổ rồi. Mong mọi người bổ sung thêm nhé.


Phố Hàng Hòm


Văn Miếu

Đồn cảnh binh 40 phố Hàng Bài (đối diện rạp Tháng 8 bấy giờ)

Phố Hàng Quạt

Bến Nứa gần chân cầu Long Biên

Phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến ngày nay)

Phố Hàng Thiếc

Ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường thì phải ?

Phố Hàng Hòm

Phố Hàng Nón

Quán Thánh bên bờ Hồ Tây

23/05/2015

Thiền dưỡng sinh

Thiền Cấp III


Nguyễn Xuân Điều

1. Khởi động thiền

   Ở chương trình Trung cấp, khởi động Thiền là: mở mắt, hít vào bằng mũi, phình bụng, sau đó thở ra từ từ, ép bụng lại, nhịp 1 – 1 từ ba lần trở lên (Thở 2 thì).
   Đến chương trình Trung cấp tăng cường (Luân xa 8-9 Mạch Nhâm), khởi động Thiền theo nhịp 1 – 4 – 2. Hít vào 1 nhịp, sau đó nín hít 4 nhịp rồi thở ra 2 nhịp, cũng làm từ ba lần trở lên (Thở 3 thì).
   Ở Chương trình Luân xa Cao cấp, khởi động Thiền theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4, thực hiện từ từ và êm ái (Thở 4 thì).
Cụ thể:
1                  →                4                  →          2                  →      4
Hít vào                        Nín hít                     Thở ra                     Nín thở
                                (phình bụng)                (thót bụng)
Giả sử thời gian của 1 nhịp là 5 giây, ta sẽ thở theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4 như sau:
-        Nhịp 1: Hít vào 5 giây
-        Nhịp 2: Nín hít 5 x 4 = 20 giây
-        Nhịp 3: Thở ra 5 x 2 = 10 giây
-        Nhịp 4: Nín thở 5 x 4 = 20 giây
Tuỳ theo hơi thở ngắn hay dài mà ta quy định thời gian cho 1 nhịp thở của mình (tính bằng giây).

2. Thiền

Chương trình Cấp III khi thiền có thể chọn tư thế ngồi hoặc đứng.
Khi bước vào Thiền, sử dụng Luân xa 6 như con mắt thứ ba, từ trên cao điều khiển thu năng lượng vào các Luân xa:
LX7 (1’) → LX5 (1’) → LX4 (1’) → LX3 (1’) → LX2 (1-2’)
Thu năng lượng theo chiều dương giáng là chủ yếu (gần trời xa đất)
Luân xa 6 như con mắt thứ ba từ trên cao nhìn thấy rõ những dòng xoáy năng lượng kèm theo ánh sáng rực rỡ đang được thu vào từng Luân xa mạch Đốc. Ta cảm thấy các Luân xa nóng ran và độ quay của nó khi quán tưởng thu năng lượng. Mỗi Luân xa thời gian thu từ 1 – 1.5 phút.
Tiếp theo, phát lệnh (kèm theo hít mạnh bằng mũi) thu năng lượng toàn thân, quán tưởng một dải ánh sáng từ cằm qua Luân xa 7 chạy dọc cột sống xuống đến chân. Hai chân như được đi bằng đôi ủng to ánh sáng, hai tay được đi bằng đôi găng tay to phồng ánh sáng. Toàn thân như được úp trong một chiếc lồng năng lượng bằng ánh sáng. Chiếc lồng năng lượng này mỗi lúc một lớn lên, rộng ra, căng phồng ánh sáng chói loà.
Từ cấp ba trở đi, động tác tập luyện mỗi ngày một gian khổ và khó hơn, đòi hỏi những ai bước tới nên chuẩn bị cho mình một tư tưởng sẵn sàng, một niềm tin vững vàng và với sự kiên trì, tập luyện nghiêm túc thì mới có hy vọng thành quả.
Luân xa 6 (huyệt Thiên Mục ở giữa trán) ở cấp học này sẽ được sử dụng một cách tích cực trong khi Thiền cũng như để điều chỉnh bệnh từ xa. Nó khác với môn Khí công, người ta sử dụng huyệt Khí Hải (dưới rốn) để phát công là chủ yếu. Đây là sự khác nhau cơ bản của bộ môn Trường Sinh học Dưỡng sinh với môn Khí công các loại.
Trong quá trình Thiền, mắt có thể mở nhưng không nhìn vào đâu cả (vô vọng), cũng có thể vừa ngồi Thiền vừa nghe giảng bài, nhận năng lượng tẩy từ Luân xa 6 của Thầy.

3. Xả thiền

Mục đích xả là đẩy trược chảy ra chân, giúp cho kinh mạch thông thoáng, khí huyết lưu thông, bệnh tật lui giảm. Gồm các động tác:
-        Hai tay ôm gáy, bịt tai. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt mặt, tai, cổ. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt tóc, chải tóc, vuốt đầu, tay. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt 2 vùng thận (sau lưng) qua hông. Nghĩ ra chân.
Nếu thiền đứng, bóp cho hết tê và ngồi xuống. Uống một cốc nước đầy.

4. Xả trược

Xả trược là một kỹ thuật đã được học từ chương trình Cấp II Mạch Nhâm. Trong chương trình Cấp III chỉ giới thiệu thêm một số cách đơn giản để xả trược:
 -  Tư thế tay và chân gác lên nhau (như lớp Cấp II Mạch Nhâm) nhìn bằng Luân xa 6 các Luân xa, ý nghĩ dòng chảy ra chân. Thời gian xả như thiền, càng lâu càng tốt, bất kể lúc nào có điều kiện. Cũng có thể nằm, tay nọ ôm khuỷu tay kia, bàn chân vắt vào nhau để xả.
-  Tắm cũng là biện pháp xả trược tốt, nhất là dưới vòi hoa sen, nước có thể ấm hoặc mát, dòng chảy từ gáy xuống lưng, đến chân.
-  Thiền đứng xả trược rất nhanh và mạnh. Trường hợp bị TKG xâm nhập, đứng từ 1 đến 2 tiếng là hết.
-  Ngoài ra, có thể dùng sữa tươi (Vinamilk) cũng rất tốt, ngày dùng 1 hộp, liên tục 3 ngày. Sữa tươi có tác dụng đẩy xả các độc tố trong ruột ra ngoài. Khi đó có thể bị đi lỏng, mùi phân rất khó chịu, nhưng sau đó sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm, thông kinh mạch.

Thiền Cấp II


Nguyễn Xuân Điều
Trước khi Thiền cần tiến hành phá bế tay chân, bấm các huyệt kích thích lưu thông khí huyết.

1. Khởi động thiền

Ngửa tay, mở mắt, hít thở mạnh theo nhịp 1 – 4 – 2 (thở 3 thì). Có thể hiểu như sau:
- Thì 1: Hít mạnh bằng mũi, nhẩm đếm 1,2,3,4,5     (1 đơn vị)
-  Thì 2: Nín thở, nhẩm đếm 1,2,3 ….20         (4 đơn vị)
-  Thì 3: Thở ra bằng miệng, nhẩm đếm 1,2,3…10    (2 đơn vị)
Hít thở theo nhịp 1 – 4 – 2 từ 3 – 5 lần, mục đích thanh phế, phát động Luân xa, tăng tốc độ hoạt động của Luân xa.

2. Thiền

a.     Thiền thu năng lượng:
- Nhắm mắt, đặt lưỡi lên chân răng cửa hàm trên, hít mũi, thở mũi.
- Thu năng lượng theo chiều: L9 → L8 → L6 → L7 → L8 + L5 (thu đồng thời 2 Luân xa 8 và 5) → L9 + L4 ( thu đồng thời 2 Luân xa 9 và 4) → L3 → L2. Quán tưởng dòng năng lượng hình nón kèm ánh sáng đi vào Luân xa.
- Tiếp theo quán tưởng toàn thân là một khối sáng. Tiến hành tự điều chỉnh.
b. Tạo kênh dẫn Nhâm – Đốc:
- Tạo kênh dẫn năng lượng Nhâm – Đốc: Tay để theo hệ kín (tay phải để trên tay trái, ngón cái chạm nhau) tại vị trí Luân xa 11.
- Dẫn năng lượng theo nhịp 1 – 4 – 2 như sau:
Bước 1:
§  Hít vào, thu năng lượng tại Luân xa 6 (1 đơn vị)
§  Nín thở giữ năng lượng tại Luân xa 6 (4 đơn vị)
§  Thở ra và dẫn năng lượng chạy nhanh qua L7, L5, L4, L3, L2, L11, L10, L9, L8, L6  (2 đơn vị)
Bước 2:
§  Hít vào, thu năng lượng từ L6 chạy lên L7  (1 đơn vị)
§  Nín thở giữ năng lượng tại Luân xa 7 (4 đơn vị)
§  Thở ra và dẫn năng lượng chạy nhanh qua L7, L5, L4, L3, L2, L11, L10, L9, L8, L6  (2 đơn vị)
Bước 3:    Tiếp tục thực hiện như vậy cho đủ một vòng với các Luân xa 5, 4, 3, 2, 11, 10, 9, 8.
c. Tập bắn xung năng lượng ở tay (động tác này có thể làm lúc xả thiền):
Sau khi dẫn năng lượng theo kênh Nhâm – Đốc ít nhất 1 vòng, tiến hành bắn xung ở tay (có thể chập tay hít thở 3 lần như xả thiền)
- Động tác 1: Hai tay song song để gần nhau, giữ và nghe tay mình khoảng 1 phút. Sau đó đưa hai tay ra vào.
- Động tác 2: Tiếp theo xoay hai tay ngược chiều nhau nhiều lần
- Động tác 3: Một tay xoè, một tay chụm các ngón lại, nướng vào tay xoè kéo ra đẩy vào vài lần, vẩy và búng vào lòng bàn tay kia 5 – 7 lần. Sau đó dùng một ngón tay vẽ vòng tròn vào bàn tay kia. Tiếp theo đổi tay làm lại động tác 3.
 Photobucket
                                           Tập bắn xung năng lượng ở tay

3. Xả thiền

- Chập hai bàn tay, hít mũi thở miệng 3 lần
- Tiếp theo vuốt mặt, gáy, tai.
- Tay nọ vuốt tay kia: vuốt ra theo mặt ngoài, vuốt vào theo mặt trong tay. Hai tay vuốt chân: vuốt ra theo mặt ngoài, vuốt vào theo mặt trong chân.
- Phá bế, xoa bóp chân cho hết tê. Uống một cốc nước đầy.
Sơ đồ quy trình tập:
 Photobucket
Ghi chú:
- Nên thực hiện đầy đủ quy trình tập trong mỗi lần tập luyện
- Nếu thiếu thời gian, có thể bỏ qua bước 2.c (tạo kênh dẫn, bắn xung). Lúc đó quy trình tập gồm các bước 1→2.a→2.b→3

Thiền Cấp I


Nguyễn Xuân Điều

I. THIỀN TỊNH

 Chú ý: Trước khi vào tập, nên uống một cốc nước đầy ( từ 200 – 400ml). Rất hiệu quả.

1. Phá bế

Trước khi tập và sau lúc tập xong, học viên có thể thực hiện động tác phá bế các huyệt sau để khai thông kinh mạch:
- Các huyệt ở tay: Hợp Cốc, Trung Chữ, Hậu Khê, Dưỡng Lão, Khúc Trì (Phụ nữ có thai không bấm Hợp Cốc)
Photobucket
Vị trí các huyệt phá bế và điều chỉnh ở tay
-    Các huyệt ở chân: Hãm Cốc, Túc Lâm Khấp, Thúc Cốt, Côn Lôn, Tam Âm Giao, Túc Tam Lý.
Photobucket
Vị trí các huyệt phá bế và điều chỉnh ở chân

2. Khởi động Thiền

Ổn định tư thế Thiền, lưng thẳng, cổ thẳng, thả lỏng toàn bộ các cơ bắp. Hai bàn tay để ngửa trên hai đầu gối, mở mắt, hít nhẹ bằng mũi cho đầy lồng ngực và phình bụng ra, sau đó thổi ra từ từ bằng miệng (như thổi lửa) và thót bụng lại. Lặp lại it nhất 3 lần trở lên. Đây là động tác để thư giãn, làm sạch phổi. Mùa hè nên bắt đầu và kết thúc bằng nhịp thở ra để giảm nhiệt. Mùa đông nên bắt đầu và kết thúc bằng nhịp hít vào để tăng thân nhiệt.

3. Thiền (Dhyanna)

- Nhắm mắt để tập trung tư tưởng, đặt lưỡi lên vòm miệng trên tại chân răng cửa để nối mạch Nhâm - Đốc. Miệng ngậm tự nhiên, nét mặt vui vẻ, hơi mỉm cười…Hít thở sâu, chậm, nhẹ nhàng bằng mũi. Quá trình Thiền sẽ làm cho vùng vỏ não được nghỉ ngơi và các Luân xa thu được năng lượng.
- Thu năng lượng theo chiều từ LX6 – LX7 – LX5 – LX4 - LX3 - LX2. Tại mỗi LX thời gian thu từ 1 đến 1,5 phút. Quán tưởng phễu năng lượng hình chóp có đỉnh nhọn đang đi vào LX của mình, đáy hình chóp ở ngoài.
- Bước tiếp theo tự điều chỉnh bệnh cho mình, thời gian 7 – 10 phút.
- Quán tưởng toàn thân là một khối sáng, có thể cảm nhận thấy các hiện tượng: ánh sáng dọi vào Luân xa 6, hình ảnh, âm thanh, hương vị…Còn có hiện tượng giống như có những con bọ mản bò quanh mặt, quanh miệng, gây ngứa ngáy khó chịu. Các ngón tay có thể cảm thấy tê buốt, đầu có thể xoay lắc, hai tay xoay lắc hoặc nâng lên … Đó là những hiện tượng bình thường, có thể xảy ra. Hãy gạt bỏ mọi suy nghĩ, ưu tư phiền muộn một cách tự nhiên và có thể nhẩm “Muôn pháp là một, một đi về đâu” để đơn giản hóa mọi ý nghĩ trong đầu. Để có hiệu quả khi tập chúng ta có thể bật nhạc Thiền theo chương trình đã soạn cho từng cấp học. Thời gian tập không hạn chế, ngày có thể tập nhiều lần, mỗi lần càng lâu càng tốt, sẽ có tác dụng nhiều cho việc điều chỉnh bệnh và phòng bệnh.

4. Xả Thiền

- Mở mắt, chập hai bàn tay lại, hít mũi thở miệng như động tác khởi động Thiền: hít vào phình bụng, thở ra thót bụng. Khi thổi ra quan tưởng một dòng năng lượng thoát nhanh ra mười đầu ngón chân. Hit thở khoảng 3 – 4 lấn.
- Sau đó lấy tay vuốt mặt từ phia trước ra phía sau sau gáy, xoa vuốt hai mắt, vuốt tóc chải tóc, xoa vuốt hai vành tai, vuốt từ gáy xuông cổ.
- Tay nọ vuốt tay kia ở mặt ngoài cánh tay ra đến hết đầu các ngón tay 3- 5 lần. Vuốt từ hai thăn lưng xuống hông qua mặt ngoài hai chân ra đến hết đầu ngón chân 3-5 lần. Xoa bóp chân cho hết tê rồi mới nên đi lại.
- Có thể uống thêm một cốc nước đầy.
Sơ đồ quy trình tập:
Photobucket

II. KHẮC PHỤC MỘT SỐ PHẢN ỨNG PHỤ

Thông thường sau khi Thiền, cơ thể trở nên dễ chịu, sảng khoái, thân nhiệt hơi tăng. Nhưng cũng có trường hợp do cơ thể có nhiều bệnh dễ gây ách tăc kinh mạch, học viên chưa quen hóa giải, hoặc động tác xả Thiền làm chưa tôt nên có hiện tượng đau đầu, tức ngực.
-     Nếu bị đau đầu sau khi Thiền, có thể dùng một trong các cách sau:
1.Tập lại, thu năng lượng ở LX3, LX2 dẫn ra chân, sau đó xả Thiền cẩn thận
2.Chụm tay đặt hai bên thái dương
3.Nhờ hướng dẫn viên giải giúp.
-  Nếu bị tức ngực, có thể sử dụng một trong các cách sau:
1.Tập lại, thu năng lương vào LX7, LX6 dẫn ra tay, hoăc LX3, LX2 dẫn ra chân, xả Thiền cẩn thận
2.Một tay vuốt nhẹ sau lưng
3.Nhờ hướng dẫn viên giải giúp.

Thiền (Dhyanna)


  Nguyễn Xuân Điều
 Muốn đánh thức khả năng tiềm ẩn trong cơ thể, con người phải có phương pháp tập luyện để biến đổi cơ thể vật chất và cơ thể năng lượng (Hào quang) tương thích với nhau ở mức cao. Việc mở Luân xa và Thiền đạt trạng thái vô thức là hai điều kiện cần và đủ để thu năng lượng vũ trụ tạo ra năng lượng sinh học mạnh. Chính vì vậy, sau khi được mở Luân xa, muốn thu được năng lượng vũ trụ một cách thường xuyên, học viên phải luyện tập bằng phương pháp Thiền (Dhyanna).
Thiền (Dhyanna) là một kỹ thuật tu luyện nhằm đưa cơ thể sống của con người hòa nhập với trạng thái tự nhiên huyền diệu của trật tự vũ trụ. Thiền là một hiện tượng năng lượng, là sự quan sát bên trong để con người khai thông trí tuệ và khám phá những khả năng tiềm ẩn của chính mình.

I. TƯ THẾ THIỀN

  Có rất nhiều tư thế Thiền. Ở chương trình này, chúng ta chỉ thực hành 7 tư thế sau, trong đó tư thế ngồi Hoa Sen là tốt nhất:
1. Ngồi hoa sen 2. Ngồi một nửa hoa sen
3. Ngồi xếp bằng 4. Ngồi trên ghế
5. Đứng 6. Quỳ
7. Nằm
Photobucket
Ngồi hoa sen

II. CÁCH CHỌN HƯỚNG THIỀN

Con người là một tiểu vũ trụ, chịu sự tác động của môi trường năng lượng bên ngoài. Việc định hướng thiền nhằm giúp cơ thể thu năng lượng tốt hơn căn cứ theo Ngũ hành Sinh Khắc: Ngũ Hành Bát Quái, Can Chi Ngũ Hành và Thiên Bàn.
Bước 1: Xác định hàng Can:
Số đơn vị của năm sinh ứng với hàng Can như sau:
Giáp:           4; Ất:               5; Bính:           6
Đinh:           7 ; Mậu:            8 ; Kỷ:              9
Canh:          0; Tân:             1; Nhâm:         2; Quý:            3
Bước 2: Xác định hàng Chi:
-      Lấy tổng 2 số đầu của năm sinh chia 3, được số dư chính là điểm khởi đầu đã đánh số trên Thiên Bàn.
-      Lấy 2 số cuối của năm sinh chia 12, được số dư chính là số phải đếm từ điểm khởi đầu đã tính ở trên, theo chiều kim đồng hồ trên Thiên Bàn để xác định hàng Chi.

THIÊN BÀN
 Photobucket
Bước 3: Xác định Mệnh:
Tra cứu Can – Chi đã tính được ở Bước 1 và Bước 2 trên bảng Can Chi Ngũ Hành để xác định Mệnh:
NGŨ HÀNH CAN CHI
Photobucket 
Bước 4: Xác định hướng Thiền:
Từ Ngũ Hành Tương Sinh, xác định hướng tương sinh cho người Mệnh đã tìm được ở Bước 3:
Photobucket
 Ngũ Hành Sinh Khắc
  Photobucket
Bát quái
Ví dụ: Tính hướng ngồi Thiền cho một người sinh năm 1967
-        Can: Người sinh năm 1967 có hàng đơn vị là 7, ứng với chữ Đinh
-        Chi:
o   Lấy cụm 19: (1+9):3 dư 1 → Điểm khởi đầu từ cung Tí trên Thiên Bàn
o   Lấy cụm 67: 67:12 dư 7 → Có số phải đếm là 7
o   Từ Thiên Bàn, bắt đầu đếm từ cung Tí theo chiều kim đồng hồ: 1 → 7, dừng ở Mùi. Như vậy người sinh năm 1967 có Chi là Mùi.
-        Mệnh: Trên bảng Can Chi Ngũ Hành, xác định được người tuổi Đinh Mùi là mệnh Thuỷ.
-        Hướng thiền:
o   Từ Ngũ Hành Tương Sinh ta thấy người mệnh Thuỷ cần ngồi quay về hướng Kim (Kim sinh Thuỷ)
o   Đưa vào Bát Quái, hướng Kim là hướng Tây hoặc Tây Bắc
→ Như vậy, người sinh năm 1967 khi Thiền ngồi quay về hướng Tây hoặc Tây Bắc là tốt nhất.

16/05/2015

ĐỪNG TƯỞNG

(Thơ dân gian)

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình

Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than

***
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm
Đừng tưởng cứ giặc - ngoại xâm
Cứ bè là bạn, cứ dân là lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ đất và nước là thành quê hương

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn... là chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường

Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo

Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư

***
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ...
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn...
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.

Đừng tưởng cứ thích là yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may ... có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.

***
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn

Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ quan là có, cứ dân là nghèo
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ sang là giầu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời

***
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lục thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên...!