29/01/2016

7 cách bố thí được may mắn cả đời

Một ngày nọ, có một người đàn ông chạy đến trước mặt vị lão hòa thượng. Anh ta vừa khóc vừa kể lể: “Thưa ngài, vì sao con làm việc gì cũng đều không thành công?”
Lão hòa thượng trả lời anh ta rằng: “Điều này là bởi vì ngươi không học được bố thí!” (Bố thí ở đây được hiểu là cho, quyên tặng, thực hành…)
Người đàn ông lại nói: “Nhưng con chỉ là một người nghèo đói thôi ạ!”
Lão hòa thượng nghe xong lại nói với anh ta rằng: “Cũng không phải là như vậy! Một người cho dù là không có tiền cũng vẫn có thể cho người khác 7 thứ:
1. Bố thí bằng vẻ mặt: Ngươi có thể cho người khác vẻ mặt tươi cười niềm nở.
2. Bố thí bằng lời nói: Ngươi có thể cho người khác những lời cổ vũ khích lệ, lời an ủi, lời khen ngợi, lời khiêm tốn và lời nói ấm áp.
3. Bố thí bằng tấm lòng: Hãy mở rộng tấm lòng và đối xử chân thành với người khác.
4. Bố thí bằng ánh mắt: Hãy dùng ánh mắt thiện ý để nhìn người khác.
5. Bố thí bằng hành động: Dùng hành động để đi giúp đỡ người khác.
6. Bố thí bằng chỗ ngồi: Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.
7. Bố thì bằng nơi ở: Đem phòng ở trống không sử dụng cho người khác nghỉ ngơi.
 Cuối cùng, lão hòa thượng lại nói: “Vô luận là ai, chỉ cần dưỡng thành 7 thói quen này thì vận may sẽ đến với người đó “như hình với bóng!”.
Nếu như bạn có thể khởi ý nghĩ này trong tâm thì bạn sẽ sống được tự tại. Hãy tin rằng cho dù những việc làm bố thí của bạn trước mắt không nhận được thù lao đi nữa thì trong tương lai bạn cũng nhận được sự hồi báo kỳ diệu!


23/01/2016

Lợi ích của việc ngủ nằm nghiêng bên trái

Bạn vẫn biết rằng ngủ ngon giấc rất quan trọng cho sức khỏe. Nhưng bạn có bao giờ nghĩ rằng tư thế nằm ngủ có tác động không nhỏ đến sức khỏe của mình?
Sự thực đúng là như vậy. Có những tư thế nằm ngủ khiến bạn thoải mái nhưng cũng có những tư thế gây ra các cơn đau người. Theo chuyên gia sức khỏe, Tiến sĩ John Douillard: “Nằm nghiêng về phía bên trái để nghỉ ngơi và ngủ sẽ rất có lợi cho trí não và sức khỏe, tăng tuổi thọ”.
Nhưng chúng ta thường trở mình trong khi ngủ và vô tình quay sang bên phải mà không biết. Một số bác sĩ khuyên nên đặt một quả bóng tennis phía sau lưng trong khi ngủ. Và nếu bạn trở mình khi ngủ, đè lên quả bóng tennis, bạn sẽ phải nằm lại tư thế cũ. Một biện pháp khác mà bạn có thể áp dụng là đặt những chiếc gối bên cạnh. Những cản trở lớn sẽ khiến bạn không lăn qua lăn lại trong đêm.
1. Cải thiện tiêu hóa
Theo Tiến sĩ John Douillard, nằm nghiêng bên trái khi ngủ sẽ khiến các chất thải thực phẩm để di chuyển dễ dàng hơn từ ruột non vào ruột già. Các enzym tiết từ tuyến tụy cũng được phân bổ khi có yêu cầu. Điều này giúp cho hệ tiêu hóa hoạt động tốt hơn.
2. Thúc đẩy sức khỏe tim
Trái tim là một trong những cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể con người. Ngủ trên bên trái có thể làm được điều kỳ diệu là thúc đẩy sức khỏe tim mạch tổng thể.
Theo Tiến sĩ John Douillard, ngủ nghiêng về bên trái sẽ giúp việc bơm máu của tim trở nên dễ dàng hơn bởi lực hấp dẫn. Điều này giảm tải áp lực đáng kể cho tim.
3. Cải thiện sức khỏe lá lách
Theo Tiến sĩ John Douillard, khi nằm nghiêng bên trái, một lần nữa nhờ tac động của lực hấp dẫn mà nước trong lá lách được thoát ra ngoài tốt hơn, từ đó giúp cho cơ quan này khỏe mạnh hơn.
4. Giúp hệ thống bạch huyết lưu thông
Nhiều người không quan tâm nhiều tới các hạch bạch huyết – các hạch trong vùng cổ hoặc nách – nhưng đây là một trong những hệ thống cực kì quan trọng trong cơ thể.
Theo Healthy Life Tricks, phía bên trái của cơ thể là phía hạch bạch huyết thống trị, và khi bạn nằm ngủ nghiêng về bên này, cơ thể bạn sẽ có nhiều thời gian để lọc các độc tố ra khỏi bạch huyết để hệ thống này khỏe mạnh.
5. Tốt cho hệ tuần hoàn
Giúp lưu thông trong cơ thể diễn ra tốt hơn và giảm giãn tĩnh mạch là 2 lợi ích quan trọng mà bạn sẽ nhận được khi nghiêng về trái khi ngủ.
Theo Trung tâm y tế Vein (Mỹ), lưu thông trong cơ thể diễn ra thuận lợi sẽ giảm được áp lực lên tĩnh mạch chủ (tĩnh mạch lớn nhất của cơ thể), từ đó các tĩnh mạch cũng được giãn ra và bạn cảm thấy đỡ mệt mỏi hơn rất nhiều. Điều này sẽ diễn ra nếu bạn nằm nghiêng bên trái.
6. Nằm nghiêng bên trái khi mang thai sẽ cải thiện lưu lượng máu đến thai nhi
Theo WebMD, trong thời gian mang thai, thai phụ nên nằm nghiêng về bên trái khi ngủ để cải thiện lưu thông đến tim, từ đó tăng cường lưu lượng máu đến thai nhi, tăng cường sức khỏe của cả mẹ và con.

22/01/2016

Ý nghĩa của Thập Chú trong Phật giáo

 Công năng của thập chú
 Trong các chùa tụng kinh Phật có niệm chú, là từ nguyên nhân ngài Ngọc Lâm Quốc Sư triều đại Nhà Thanh biên soạn hai thời công phu dành cho chư Tăng Ni tu hành, trong đó đặc biệt có gia hạnh thêm nhiều bài thần chú rất oai linh mầu nhiệm, như chú Lăng nghiêm, Thập chú, ngũ bộ chú, đại bi chú, vãng Sinh Tịnh độ thần chú … giúp cho chư Tăng Ni, Phật tử có đủ niềm tin từ lực Phật, Bồ tát gia hộ giải thoát Sinh tử. 

1/ NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI 
 Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya. Namo Avalokitesvaraya bodhisattvaya mahasattvaya, maha karunikaya.Tadyatha: OM CHAKRA, VARTTI, CHINTAMANI, MAHA PADMA, RURU, TISTA, JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT, SVAHA.
 Âm Hán: Nam mô Phật đà gia, nam mô đạt ma da, nam mô tăng già da. Nam mô Quán tự tại bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha: Án chước yết ra, phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đằng mế, rô rô, (rô rô) để sắt tra, thước la, a yết rị sa dạ, hồng, phấn, toá ha.
 Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha
Án chướt yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra, thước ra a yết rị, sa dạ hồng phấn ta ha.
Án, bát đạp ma chấn đa mạc ni, thước ra hồng
Án, bát lặc; đà bát đẳng mế hồng .
 Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. Con xin quy mạng Đức Chuyển luân vương như ý bảo châu đại liên hoa là Bậc đã xa lìa nội trần và ngoại trần. Con xin an trụ theo ánh lửa rực rỡ của Ngài để triệu thỉnh chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng, tám bộ Trời Rồng, chư vị Hộ Pháp giúp cho con phá bại tâm chấp ngã, phát khởi tâm bồ đề, thành tựu cát tường. 
 Xuất Xứ: Như Ý Tâm Đà La Ni Kinh. Nội dung kinh này nói về Bồ tát Quán Tự Tại được sự chấp thuận của Đức Phật liền tuyên thuyết Vô Chướng Ngại Quán Tự Tại Liên Hoa Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni . Đức Phật lại bảo: Nếu người nào tụng chú này 1 biến thì trừ được tội, qua được tai nạn, thành tựu sự nghiệp. Còn nếu ngày nào cũng tụng 108 biến thì sẽ có cảm ứng khiến thấy được thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà và núi Bổ Tát La nơi Bồ  tát Quán Thế Âm cư ngụ, khỏi đọa vào đường ác. 

2/ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ   
 Namah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha: OM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
 Âm Hán:  Nam mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha: Án khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha. 
 Nẳng mồ tam mãn đa ,mẫu đà nẫm
A bát ra để ,hạ đa xá ta nẳng nẫm .Đát điệt tha ,
Án khê khê ,khê hế, khê hế ,hồng hồng ,nhập phạ ra ,nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra ,bát ra nhập phạ ra ,để sắc sá ,để sắc sá ,sắc trí rĩ ,sắc trí rị ,ta phấn tra ,ta phấn tra ,phiến để ca,thất rị duệ ,ta phạ ha .
 Nghĩa:  Hỡi ánh lửa rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi năng  chấp, sở chấp hãy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này nhằm phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt lành. 
 Xuất Xứ: Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni. Thần chú tiêu trừ các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một trong 4 Đà La Ni thông dụng trong Thiền lâm, cũng là pháp Tức Tai trong Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni. 

3/ CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ LA NI 
 Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya.OM SIDDHI, HOH DHURU, SUDHURU, GARJA, GARBHA, SADHARI, PURNI, SVAHA.
 Âm Hán: Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng dà gia.Án tất đế, hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
 Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng dà da
Án, Tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị ,ta phạ ha .
 Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. Vinh quang thay sự thành tựu ! Hãy vui vẻ ôm giữ, khéo ôm giữ kho tàng Chân Như! Hãy khéo giữ gìn tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
 Xuất Xứ: Kinh Ðại Tập (Sutrasamuccaya)Nếu người tụng chú này một biến, công đức cũng bằng như lễ Ðại Phật Dsinh kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A Tỳ địa ngục chịu tội, kiếp hết lại Sinh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến, tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung quyết định vãng Sinh Tây phương thế giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng phẩm thượng Sinh. 

4/ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ 
 NAMO SAPTÀNÀM, SAMYAKSAMBUDDHÀYA, KOTINÀM, TADYATHÀ: OM CALE CULE CUNDHE SVAHA.
 Âm Hán: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
Khế thủ quy y tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi .
Ngã kim xưng tán đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm, đát diệt tha .
Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, ta bà ha .
Nghĩa: Quy mạng bảy trăm triệu đấng Chính Đẳng Chính Giác - Chân ngôn nói rằng: Khi Thân, Khẩu, Ý hợp nhất với sự Giác Ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính thsinh tịnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc của Đại Niết Bàn. 
Xuất Xứ: Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh  Người trì tụng thần chú này đủ chín chục muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, ngũ nghịch, tiêu trừ tai nạn, bịnh hoạn, tăng nhiều phước thọ. 

5/ THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI 
 OM NAMO BHAGAVATE, APARAMITA,  AJURJNÀNA, SUVINE, SCITA TEJA RÀJAYA, TATHÀGATÀYA, ARHATE, SAMYAKSAMBUDDHÀYA, OM SARVA SAMSKÀRA PARI’SUDDHA, DHARMATE, GAGANA, SAMUDGATE SVÀBHAVA, VISUDDHE, MAHÀ NAYA, PARIVERE, SVÀHÀ. 
 Âm Hán: Án nại ma ba cát ngoả đế, a ba ra mật ra đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tả ra để dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.Án tát rị ba, tang tư cát rị, bốc rị thuật đạp, đạt ra mả đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt. 
 Án, nại ma ba cát ngoả đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tả ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế tam dược tam bất đạt dã đát nể dã tháp .
Án, tát rị ba, tang tư cát bị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang mã ngột cả đế, ta ba ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngoả rị tá hắt .
Nghĩa: Quy mạng lễ Đức Thế Tôn VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác. OM, tất cả hoạt động Tâm Ý đều là Pháp Tính cực thsinh tịnh. Thsinh tịnh như Tự Tính thắng thượng của Hư Không. Hãy phát khởi Thắng Nguyện rộng lớn để mau chóng đạt được sự an lạc thsinh tịnh của Đại Niết Bàn.   
 Xuất xứ: Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương Như Lai đà la ni kinh. 
 Công dụng:  Vô Lượng Thọ Như Lai Đà La Ni này , tụng một biến liền tiêu tội 10 ác, 4 trọng, 5 vô gián trong thân. Tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt.
Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phạm các tội căn bản, tụng 7 biến liền được trở lại Giới Phẩm thanh tịnh.
 Tụng mãn một vạn biến được Tam Ma Địa, không mất Tâm Bồ Đề, ở trong thân : Tâm Bồ Đề sáng tỏ như mặt trăng tròn đầy, khi mạng chung thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng Câu Chi Bồ Tát lại nghinh đón, thân tâm vui vẻ , liền được vãng Sinh Thượng Phẩm Thượng Sinh, chứng Bồ Tát.
 Phép niệm Phật A Di Ðà cầu sinh Tịnh Ðộ là một Ðốn pháp, khiến người tu thấy rõ ngay tâm tính Bồ Ðề của mình sống lâu vô lượng và sáng suốt vô lượng, cũng như tâm tính Bồ Ðề của Phật Thích Ca, Phật A Di Ðà và chư Phật, chư Bồ Tát các loài chúng sinh ở khắp mười phương pháp giới, hết thảy ai ai cũng có tâm tính Bồ Ðề (tâm tính Phật) bình đẳng như nhau, không hơn, không kém.
 Ai muốn thực hành đạo Bồ Tát để chứng nhận được tâm Bồ Ðề của mình, hãy nên thọ giới Tam Quy, mỗi tháng ăn chay 6 ngày, mỗi ngày niệm sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật trong nửa giờ để ổn định tinh thần, dụng công niệm được càng nhiều, càng lâu, càng chóng thấy rõ tâm Bồ Ðề của mình, của Phật và của chúng sinh hiện ra. Bởi vì tâm Bồ Ðề của mình thể tính của nó vốn yên tịnh, mình dùng sức động đến nó thì nó mới hiện ra, mà nó chỉ hiện ra trong một giây lát thôi (tức là một niệm, một sát na thôi). Nếu mình không niệm Phật luôn để giữ lấy nó thì nó liền bị lu mờ bởi những niệm khác lấn át nó đi, nó không hiện ra được nữa.
 Thần chú đều có những hạnh lành tương đối đa dạng phong phú, có những thú hướng đặc biệt giúp cho chúng Sinh thoát khổ, giải thoát Sinh tử luân hồi. Thần chú Vô Lượng Thọ dành cho liên hữu tu kết thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày hay 100 ngày tụng niệm. Như vậy Phật tử có thể dùng thần chú Vô Lượng thọ làm pháp tu gia hạnh cho mình trong các thời gian nhập thất niệm Phật rất có hiệu quả.

6/ DƯỢC SƯ QUÁN ĐỈNH CHÂN NGÔN 
 NAMO BHAGAVATE, BHAISAIJYA GURU, VAITURYA, PRABHA, RAJAYA TATHAGATAYA, ARHATE, SAMYAK SAMBUDDHAYA, TADYATHA. OM BHAISẠIJYE, BHAISAIJYE, BHAISAIJYA, SAMUDGATE SVÀHÀ.
 Âm Hán: Nam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
 Nam mô bạt dà phạt đế, bệ sát xả, lụ rô thích lưu ly, bát lặt bà, hắt ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắt đế, tam miệu tam bột đà da. Đát điệt tha, Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xả, tam một yết đế tá ha .
Nghĩa: Quy mạng Đức Thế Tôn Dược sư lưu ly quang vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác - Chân ngôn nói rằng: Xin Ngài hãy ban cho con thuốc diệt trừ bệnh Quả Báo, bệnh Nghiệp Ác, bệnh Kiến Tư, bệnh Trần Sa, bệnh Vô Minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
 Xuất Xứ:  Kinh Dược Sư  Nếu ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng chung được vãng Sinh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư. 

7/ QUAN ÂM LINH CẢM CHÂN NGÔN 
 OM MANI PADME  HÙM, MAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA,VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA,  PARISÀDHAYA, NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH LOKE’SVARÀYA, SVÀHÀ. 

Âm Hán: Án ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết thuyết ra gia, tóa ha. 
 Án, ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp ,tích đô đặt ba đạt ,tích đặt ta nạp ,vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nam ma lô kiết, thuyết ra da ,tá ha .
 Nghĩa: OM MA NI BÁT MÊ HÙM  là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy ngồi dưới cây phướng ấy, xa lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp các cõi. Hãy luyện các căn cho thsinh tịnh để thành tựu viên mãn các pháp và siêu việt tất cả. Con xin quy mạng công đức nội chứng của Đức Thế Tự Tại. Nguyện cho con được thành tựu  như  Ngài. 
 Xuất xứ:  Kinh Trang Nghiêm Bảo VươngPhật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà La Ni này khó được gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chân ngôn này vô lượng tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát. 

8/ THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN 
 REPA REPATE, KUHA KUHATE, TRANITE, NIGALA RITE, VIMARITE, MAHA GATE, SANTIM KRITE, SVAHA.   
Âm Hán: Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, Chân lăng càng đế, ta bà ha. 
 Ly bà ly bà đế,cầu ha cầu ha đế,dà ra ni đế ,ni ha ra đế,tỳ lê nể đế ,ma ha dà đế,Chân lăng càng đế,ta bà ha .
 Nghĩa: Mọi đường lối và tính chất của sự thấp hèn đều tuân theo sự hấp thụ điều cao quý và tính chất cao quý mà vận chuyển thành ánh sáng rực rỡ vinh quang. Đây là con đường rộng lớn hay chận đứng mọi tai họa để viên mãn phước trí.
 Xuất xứ : Đại phương đẳng đà la ni kinh. Đây là bài chú của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ. Thần chú này hay diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và được vô lượng phước, nếu thành tâm trì tụng.

9/ VÃNG SINH TỊNH ĐỘ ĐỘ ĐÀ LA NI 
 NAMO  AMITÀBHÀYA TATHÀGATÀYA TADYATHÀ: AMRITOD BHAVE AMRITA  SAMBHAVE AMRITA VIKRÀNTE AMRITA VIKRÀNTA GAMINI GAGANA KÌRTIKARE SVAHA. 
 Âm Hán: Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A di rị đá tất đam bà tỳ, A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. 
 Nam mô a di đà bà dạ ,đa tha dà đa dạ,đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ ,
A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tỳ ca lan đế
A di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha .
 Nghĩa: Quy mạng A Di Đà Như Lai. Chân ngôn nói rằng: Hiện lên cam lộ, phát sinh cam lộ, cũng mãnh cam lộ, đạt đến cam lộ dũng mãnh, rải khắp hư không, thành tựu cát tường.
 Xuất xứ: Kinh niệm Phật ba la mật  Người chuyên tụng chú này được Phật A Di Đà thường ngự trên đỉnh đầu ủng hộ, hiện đời an ổn, khi mạng chung được tuỳ ý vãng Sinh. 
 Công dụng: Chú lực Thần chú vãng Sinh có công năng, thì sẽ được tiêu tội trong muôn ngàn ức kiếp, tất cả phiền não ma chướng không dám đến khuấy nhiễu. Chú vãng Sinh biến người tu Tâm Bồ Đề sáng tỏ như mặt trăng tròn đầy, khi mệnh chung thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng Caâu Chi Bồ Tát ñeán nghinh đón, thân tâm vui vẻ , liền được vãng Sinh Cực Lạc Thượng Phẩm Thượng Sinh, chứng Bồ Tát Vị.
Theo Kinh Niệm Phật Ba La Mật của Hoà Thượng Thích Thiền Tâm dịch, phẩm thứ 7, Khuyến phát niệm Phật và đọc tụng Chân Ngôn: Ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát vì thương tưởng chúng Sinh thời Mạt Pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành ít. Nên Ngài đã ban thêm cho người niệm Phật bài chú Vãng Sinh, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng Sinh về Cực Lạc.

10/ THIỆN NỮ THIÊN CHÚ 
 NAMO BUDDHÀYA, NAMO DHARMÀYA, NAMO SANGHÀYA. NAMO SRÌ MAHÀ DEVÀYA, TADYATHÀ,PARIPÙRNA,  CALE, SAMANTA  DARSANI,MAHÀ VIHARA GATE, SAMANTA, VIDHÀNA GATE,MAHÀ KARYA PATI, SUPARIPÙRE,SARVATHA, SAMANTA, SUPRATI, PÙRNA,AYANA, DHARMATE, MAHÀ VIBHASITE, MAHÀ MAITREUPASAMHÌTE, HE ! TITHU, SAMGRHÌTE,SAMANTA  ARTHA  ANUPALANI.  
 Âm Hán: Nam mô Phật Đà gia, Nam mô Đạt Ma gia, Nam mô Tăng già gia.Nam mô thất lị ma ha đề tỷ gia, Đát nễ dã tha, Ba lị phú lâu na, giá lị, Tam mạn đà, đạt xá ni,Ma ha tỳ ra ha đế, Tam mạn đà, tỳ ni già đế,Ma ha ca lị dã ba nễ, Ba ra ba nễ,Tát lị phạ lật tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na,A lị na, đạt ma đế, Ma ha tỳ cổ tất đế, Ma ha di lặc đế,Lâu phả tăng kỳ đế, Hê đế tỷ, Tăng kỳ hê đế,Tam mạn đà, a tha a nậu đà la ni. 
 Nam mô Phật đà ,
Nam mộ Đạt mạ Nam mô Tăng dà
Nam mô thấy lỵ, ma ha đề tỷ da, đát nễ dã tha, ba lỵ phú lầu na gia’ lỵ, tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỷ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma hê ca rị dã, ba nể ba ra, ba nể tát rị phạ lặt tha, tam mạn đà, tu bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, ma ha tì cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế, lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nậu, đà la ni.
 Nghĩa: Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. Quy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy: Hỡi Đấng quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng! Đấng chủ tể Đại Tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy đủ. Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng. Hãy thể hiện lòng Đại Từ làm cho Lý Pháp Tính tỏa sáng màu nhiệm rộng lớn khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân chính. Mừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn giữ sự lợi ích. Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản lợi ích. 
 Xuất xứ : Kinh Kim Quang Minh Trong kinh này nói những kẻ tụng chú này, phàm muốn cần dùng điều chi thì đều được đầy đủ.

Đại Bi Thập Chú
  
BẠCH Y THẦN CHÚ
 Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn:
 Tu lị tu lị ,ma ha tu li,tu tu lị ,sa bà ha (3 lần)

Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn:
 Tu đa lị ,tu đa lị ,tu ma lị ,tu ma lị ,sa bà ha (3 lần)

An Thổ Địa Chân Ngôn:
 Nam mô tam mãn đà ,một đà nẫm ,án, tô rô tô rô,địa vĩ ,sa bà ha (3 lần)

Bạch y Quán Thế Âm Đại Sĩ Linh Cảm Thần Chú:
 Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn ,quảng đại linh cảm bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát . (3 lần)
 Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng,n am mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, đát chỉ đá, án dà la phạt đá, dà la phạt đá, dà ha phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, sa ha thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân nhất thiết tai ương hóa vi trần. Thiên la thần đẳng (3 lần)  


Kinh hay chú lực của Đức Phật, Bồ tát chẳng qua là phương tiện giáo hóa cho muôn loài trong đó có chúng ta, là một lực đẩy vô biên hiệu quả vô cùng, nếu chúng ta biết phát nguyện và làm đúng theo ý nguyện của ngài.
Chúng ta tu hành mà còn khổ đau là vì còn cố chấp với pháp của Phật, pháp Phật nói một đường, ta hiểu một ngã, Phật nói đằng đông ta hiểu đằng tây, Phật dụng tâm ta dụng tướng nên khổ. Sau khi thọ học pháp Phật, ta thực hành đúng như ngài giáo hóa thì chắc chắn hết khổ.
Ví dụ: khi tụng bài chú Án Ma Ni Bát Di Hồng, Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha… chú lực có công năng phá tan si ám, tịnh trừ tham dục, sân si, những tà niệm ái nhiễm (khổ)… khi được chú lực gia hộ thì chính mình cũng phải thực hành những lời dạy của Phật xả bỏ những ái dục tà nhiễm thì trí tuệ sanh, tuệ sanh thì không làm việc xằng bậy, không làm việc xằng bậy thì không khổ, chú lực của Bồ tát làm cho hết khổ là như vậy.
Ngược lại nếu tụng chú lực của Bồ tát, mà hằng ngày vẫn làm ác, niệm ác vẫn dấy sanh, thì chính chú lực ấy là lực đẩy đưa ta đến chỗ khổ đau; lý do ỷ lại vào chú lực gia hộ cho tai qua nạn khỏi, nhưng không khỏi, vì có ta nên các pháp giả hợp lúc nào cũng ở một bên ta, ta thấy nó là thật, nên tụng chú mà vẫn thấy khổ đau.
Tụng kinh chú mà vẫn khổ là do mất chánh niệm, vì mất chánh niệm nên thấy khổ, có chánh niệm nên thấy “các pháp vốn giai không”, “ngũ uẩn giai không” , “không có ta” nên dù “có nghiệp khổ thật” những vẫn không thấy có khổ đau, đấy chính là tác dụng của chú lực, được Đức Bồ Tát Quan Âm độ cho vượt qua khổ nạn: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” – vượt qua, vượt qua, mọi người đều vượt đến bến bờ bên kia, được giải thoát an lạc.
Người Phật tử biết phát tâm tụng kinh chú là quý báu lắm rồi, kinh nào cũng tốt không nên chọn lựa vẽ vời mà mất chánh niệm. Hiệu quả tu hành theo giáo lý nhà Phật là: “tâm thoát khỏi những mê lầm, tâm chánh niệm thì an lạc Niết Bàn”.
Người tu tinh tấn, siêng năng đọc tụng kinh chú Phật mà tai ươn vẫn đến với mẹ cha, phải tự nghĩ: “là do nghiệp lực đời trước ta đã tạo, nay đủ yếu tố đủ điều kiện nghiệp cũ đến đòi, quả khổ phát sanh”, nên sám hối giúp cha mẹ và tự nghĩ: ”cha mẹ có bệnh khổ cũng là phương tiện giúp cho ta có cơ sở báo hiếu báo ân”.
Phật tử nên phát nguyện, phát lồ sám hối những nghiệp ác vô tình hay cố ý đã tạo trong quá khứ, nay không làm nữa… thường xuyên quán chiếu thân là vô thường, khổ không, vô ngã, giữ tâm niệm như thế tai ươn họa khổ lần lượt tan biến.


HT Thích Giác Quang

20/01/2016

Ảnh màu hiếm có về Hải Phòng năm 1954

Hình ảnh do David Putnam, một nhân viên quân sự Mỹ thực hiện trong thời gian tàu USS Tolovana AO-64 của Mỹ neo đậu ngoài khơi Hải Phòng để hỗ trợ Pháp tiến hành cuộc di dân vào miền Nam Việt Nam trước khi Việt Minh tiếp quản thành phố.
  Phố Commerce (Thương Mại) ở Hải Phòng năm 1954, nay là phố Lý Thường Kiệt.
  Bến xe ba gác ở trung tâm Hải Phòng.
  Các quầy hàng tại một ngã ba đông đúc.
  Bộ chỉ huy quân đội Lê Dương của Pháp ở Hải Phòng.
  Bên ngoài một trại lính Lê Dương ở Hải Phòng.
  Một bến tàu ở Hải Phòng.
  Người phụ nữ trên chiếc thuyền nan.
  Quần đảo Cát Bà năm 1954.
 Thuyền mành ở Cát Bà.
   Lính Mỹ thư giãn trên một bãi biển ở Cát Bà.
  Trên một xà lan của Mỹ hướng về Hải Phòng. Người áo đen là một thầy tu đi nhờ.
  Tàu tuần tra của quân Pháp.
  Thủy phi cơ Martin P5M Marlin của Mỹ nạp nhiên liệu trên biển Cát Bà.
  Tàu chiến USS Tolovana AO-64 của Mỹ di chuyển trên vùng biển động ngoài khơi Hải Phòng.

18/01/2016

Ảnh Việt Nam hồi thuộc địa (ảnh mới được công bố bên Pháp năm 2014)

Hình ảnh được giới thiệu trong một triển lãm ảnh về Việt Nam thời thuộc địa và thập niên 1950 tại Bảo tàng Cernuschi của Pháp năm 2014, trang Francetvinfo.fr đăng tải lại.
 Nghi thức Long hổ song đấu tại Quy Nhơn năm 1887.
 Tháp Chăm Po Nagar ở Nha trang năm 1905.
 Trên một con phố thương mại tại Hà Nội khoảng năm 1922.
 Cây đa thiêng ở Cổ Loa, tỉnh Phúc Yên cũ năm 1924.
 Người nông dân mặc áo tơi cất vó, năm 1925.
 Nhà sư tụng kinh tại chùa Hồng Phúc, Hà Nội năm 1936.
 Vua Bảo Đại rời Hoàng cung bằng kiệu ở Huế năm 1936.
Người dân tham dự lễ tế Nam Giao ở Huế năm 1939.
 Các quan bồi tự, trợ tế trong lễ tế đàn Nam Giao ở Huế năm 1939.  
 Những người khiêng chiêng, trống và cờ tại đàn Nam Giao năm 1939.
 Bà cụ bán tranh Hàng Trống tại Hà Nội năm 1951.
 Đúc tượng Phật ở làng Ngũ Xã, Hà Nội năm 1952.
 Nghệ nhân tranh Hàng Trống tô màu lên bức tranh "Tứ Phủ", Hà Nội năm 1953.
 Các bà đồng xem bói trong sân Đền Ghềnh, Hà Nội năm 1953.
 Ông đồ viết câu đối Tết, 1955.
 Khai quật di tích Gò Cây Thị A, An Giang thập niên 1940.