24/06/2022

Quy trình sản xuất mỳ ăn liền

 







Khăn vấn người Việt

 dangnho.com



Nе́t đặc trưng cὐa An Nam thời Nguyễn chίnh là những chiếc khᾰn vấn, theo nhiều nhận định thὶ chỉ xuất hiện vào thời kỳ nhà Nguyễn kiểm soάt toàn lᾶnh thổ An Nam.

Ngày nay, chiếc khᾰn vấn được xem là biểu tượng đặc trưng, theo như cάch nόi bây giờ, là “thuần Việt”. Dẫu vậy, nhận thức và άp dụng khᾰn vấn ngày nay lᾳi đi ngược hoàn toàn truyền thống, không phἀi theo hướng tίch cực hσn mà ngày càng trở nên cồng kềnh và phô trưσng quά mức.


Theo bộ ἀnh thὶ đây là gia đὶnh họ Vi ở Lᾳng Sσn, một đᾳi phύ thời Nguyễn mᾳt. Cάch vấn nam giới theo kiểu quу́ tộc nam miền Bắc điển hὶnh

Nguyên nhân cῦng vὶ người hiện đᾳi dần mất đi nhận thức về khᾰn vấn, điều đάng lẽ không thể xἀy ra ở một đất nước “trọng những nе́t truyền thống vᾰn hόa” như cάch bây giờ họ tự hào.

Cὸn với phụ nữ thὶ lᾳi đa dᾳng hσn, nhưng cό những đặc trưng. Phần lớn cάc phụ nữ miền Bắc là luồng tόc thật vào khᾰn, cὸn kinh sư lᾳi kiểu vấn Khᾰn vành, tức là khᾰn và bύi tόc riêng biệt. Tuy nhiên, ở kinh sư thỉnh thoἀng vẫn cό người bύi tόc kiểu miền Bắc và ngược lᾳi.

Riêng phụ nữ miền Nam, rất hiếm ἀnh cho thấy họ vấn khᾰn, mà phần lớn là bύi tόc sau gάy.


Phụ nữ vấn khᾰn khά đa dᾳng, phần mάi vuốt hết ra sau hoặc chẻ ngôi giữa, điểm chung cό thể kể đến là họ rất trọng sự gọn gàng cὐa phần mάi, thể hiện sự trang nhᾶ.


Kiểu vấn khᾰn nam giới thường cό một điểm chung là không để lộ mάi tόc trước trάn. Hầu hết nam giới đều chỉ vấn theo một kiểu bύi tόc cột riêng sau gάy, và khᾰn vấn lên

Cό thể nόi, Khᾰn vấn là một dᾳng phục sức đᾶ ᾰn sâu vào nhận thức cὐa người Việt khi nόi đến những trang phục truyền thống.



Đây là dᾳng phục sức thịnh hành vào triều đᾳi gần nhất là nhà Nguyễn, theo lẽ dῖ nhiên phἀi ấn tượng nhất trong tâm thức người Việt. Song thật trớ trêu rằng ở thời hiện đᾳi, tuy luôn tôn vinh những hὶnh ἀnh khᾰn vấn άo thụ lῖnh, nhưng người Việt lᾳi chưa hiểu và biết rō hoàn toàn tίnh chất cὐa loᾳi phục sức này.


Xuất xứ chίnh xάc cὐa loᾳi phục sức này đến nay vẫn hoàn toàn không chắc chắn, song những nhận định trong Ngàn nᾰm άo mῦ (Trần Quang Đức) đều khά hợp lу́ rằng nό trở nên phổ biến vào đầu thời Nguyễn, cὺng với άo Thụ lῖnh (loᾳi άo cổ đứng, chίnh là dᾳng άo tiền đề cὐa loᾳi trang phục mà ngày nay gọi là “άo dài”). Với chức nᾰng làm gọn tόc để trάnh nόng, người An Nam thời Nguyễn dần chύ у́ hὶnh dάng cὐa nό để kiểu cάch hσn, hợp với nhu cầu làm đὀm, và đến cuối thời Nguyễn nό đᾶ đᾳt đến hὶnh thάi ổn định. Nhưng do sự đứt gᾶy vᾰn hόa trầm trọng ὀ Việt Nam thời hiện đᾳi, đᾶ khiến hὶnh ἀnh Khᾰn vấn trở nên lệch hẳn ra khὀi khάi niệm ban đầu, và biến thành thứ hoàn toàn xa lᾳ.


Khᾰn vấn đối với nam và nữ cό nhiều khάc biệt. Trong đό nam giới sẽ bύi tόc sau gάy thành kiểu cὐ tὀi, rồi vấn khᾰn quanh đầu gọn gẽ, không chừa tόc mάi, vὶ toàn bộ tόc đᾶ chἀi gọn ra phίa sau. Cὸn nữ giới cό loᾳi thể thức cσ bἀn là độn tόc, lẫn tόc thật hoặc tόc giἀ, từ Bắc đến Huế tuy kiểu luồn khᾰn cό khάc nhau, song đây vẫn là thể thức chίnh. Phụ nữ do luồn tόc vào khᾰn, nên phần mάi chẻ đôi hiện ra chứ không bị che đi như nam giới, vὶ vậy ở miền Bắc khi làm lụng thὶ phụ nữ cὸn phὐ khᾰn mὀ quᾳ cho kίn hết cἀ đầu.


Khᾰn vành dây là một loᾳi chỉ cό ở phụ nữ, một dᾳng thức dὺng khổ vἀi lớn và rộng. Sau khi vấn tόc quanh đầu theo thể bὶnh thường, họ đѐ khᾰn vành lên và vấn bao phὐ hết đầu theo nhiều vὸng, loᾳi thức này khiến phụ nữ giống nam giới ở chỗ phần trάn được che kίn bởi khᾰn vấn. Khᾰn vành càng đẹp khi vấn nhiều vὸng (dὺ cao lắm là 30 vὸng), do đường vân vἀi thể hiện rất rō, rất đẹp.


Tάc dụng cσ bἀn cὐa khᾰn vấn là làm gọn gẽ tόc tai, nên phần khᾰn trừ màu sắc và chất vἀi, ngoài ra không cὸn trang trί gὶ thêm. Sự gọn gàng này không cό gὶ lᾳ nếu so với việc chỉ dὺng kiểu tόc thời Lу́-Trần, hay xōa dài thời Lê, và người phụ nữ dὺng trang phục để làm rực rỡ thân phận, chứ không dὺng cἀ nύi trang sức lên đầu như Trung Hoa.


Tuy nhiên, thời kὶ hiện đᾳi, do hậu quἀ cὐa giai đoᾳn đứt gᾶy vᾰn hόa diễn ra khά mᾳnh mẽ sau khi nhà Nguyễn sụp đổ, cῦng làm hὶnh ἀnh Khᾰn vấn khά biến dị.


Sự độn tόc trong khᾰn vấn nữ không cὸn được hiểu rō, khiến cάc loᾳi khᾰn vấn như độn bông và tόc tai nữ giới gần như lὸa xὸa. Nam giới do cό khᾰn xếp cuối thời Nguyễn, cộng với xu hướng tόc ngắn, nên nhὶn chung không bị tὶnh trᾳng này, nhưng у́ thức tόc tai gọn gàng cῦng bị bào mὸn và phά vỡ ở thời hiện đᾳi, và dần xuất hiện nam giới để cἀ tόc mάi khi đội khᾰn xếp. Khᾰn vành dây được đόng như khᾰn xếp, là dᾳng thức mà ta gọi là “Mấn”, cῦng không cὸn như nguyên bἀn. Do là hàng đόng sẵng, nên cό thể đίnh một vài thứ để trang trί, và nghệ thuật cἀi lưσng đᾶ “tiên phong” cho loᾳi hὶnh này. Theo dὸng phάt triển, Mấn cῦng “quang minh chίnh đᾳi” thoάt li trở thành loᾳi phục sức độc lập, khi được làm từ đὐ thứ chất liệu chứ không cὸn trong phᾳm vi khᾰn xếp nữa. Nό đôi lύc to bἀn như Khᾰn vành dây, nhưng cῦng đôi lύc lᾳi nhὀ như Khᾰn vấn, và vὶ sao trở thành loᾳi phục sức độc lập khάc với dᾳng thức cῦ? Vὶ người ta dὺng nό để “đội lên đầu” như một dᾳng bᾰng-đô.


Những loᾳi hὶnh này được ưa chuộng do nhận thức hiện đᾳi, không cό gὶ phἀi bàn cᾶi, nhưng rồi đάng ngᾳc nhiên là nό thoάng chốc trở thành biểu tượng cὐa “nе́t đẹp truyền thống” từ trên trời rσi xuống.

23/06/2022

Chúa tể rừng taiga - hổ Amur

st trên net

Hổ Siberia, còn có tên hổ Amur hay hổ Ussuri được mệnh danh là "Chúa tể của rừng Taiga". Đây là động vật thuộc họ mèo lớn nhất thế giới, nặng trung bình khoảng 350 kg, cơ thể vạm vỡ với bộ lông dày tuyệt đẹp.

Hổ Siberia sống chủ yếu trong rừng taiga - loại rừng lá kim xứ lạnh đặc trưng ở vùng Siberia của nước Nga. Chúng có bộ lông rậm và dày hơn so với các nòi hổ khác, nhờ đó có thể chịu được cái lạnh khắc nghiệt vào mùa đông băng giá. Hổ Siberia sống đơn độc. Thức ăn của chúng là những động vật ăn cỏ như hươu, nai sừng tấm và tuần lộc. Những con hổ Siberia lớn còn săn cả gấu nâu để làm thức ăn.

Tiếc thay, với số lượng hiện nay chỉ còn khoảng 400, hổ Siberia là một trong 10 loài động vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng cao nhất trên thế giới bởi nạn khan hiếm thức ăn và săn bắt trái phép. Do mùa đông kéo dài và nhiệt độ xuống thấp nên loài hổ này bị cạn nguồn thức ăn. Điều này buộc chúng phải tìm đến gần các khu vực dân cư để kiếm ăn và đây chính là một trong những nguyên nhân chúng dễ bị mắc bẫy của những tay thợ săn trộm...

    Dưới đây là một số hình ảnh về loài động vật họ mèo này:

22/06/2022

Khái lược về hệ thống tượng Phật trong chùa miền Bắc

Trải nghiệm và st trên net


Cách bố trí tượng Phật ở các chùa không giống nhau tuỳ theo tôn phái. Các chùa miền Bắc thường là theo Bắc tông, cách bài trí tượng Phật khác với chùa miền Nam, thường đơn giản hơn.

Một ngôi chùa Phật giáo (theo Bắc tông – ở miền Bắc nước ta) phổ biến có 4 khu vực: Chính điện, Tiền đường, Nhà hành lang, Nhà tổ và nhà trai.

Ở chính điện

1. Tượng Tam Thế là ba pho tượng ngồi ngang nhau ở nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ Phật trong ba thời gian quá khứ, hiện tại thế, vị lai thế.


Thứ nhất, chữ Thế có thể hiểu là Thời. Vậy Tam Thế Phật là Phật 3 thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật quá khứ là Phật Ca Diếp (hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh Diêm Phù Đề là 20.000 tuổi), Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni (hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh không quá 100 tuổi), Phật tương lai là Phật Di Lặc (hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh đạt 10.000 tuổi). Nói rộng ra theo nghĩa này thì Tam Thế Phật là Phật của cả 3 thời: quá khứ, hiện tại và tương lai, tức là vô lượng vô biên vô số chư Phật mười phương.

Thứ hai, chữ Thế có thể hiểu là Thế giới, gồm có phương Đông là thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư, phương Tây là thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà và trung tâm là thế giới Sa Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni. Theo nghĩa này, Tam Thế Phật là không gian vô lượng của thế giới chư Phật từ Đông sang Tây, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, ..., vô lượng vô biên vô số quốc độ Phật như thế.

Namo quá khứ Phật Ca Diếp

Namo hiện tại Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Namo đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật

 (có thuyết nói đức Phật A-di-đà là Phật quá khứ “tam thế tương liên” thì không đúng. Nên nhớ trong kinh Tịnh Độ, danh hiệu của Ngài Vô Lượng Thọ “hiện nay Ngài đang thuyết pháp” tiếp dẫn chúng sinh ở mười phương thế giới vãng sinh tới cõi cực lạc, vả lại Ngài cũng ra đời cõi Sa Bà này).

2. Tượng A-di-đà Tam Tôn: Tượng còn được gọi là “Tây phương tam thánh” đặt ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm: Phật A-di-đà (ngồi giữa), Quán Thế Âm (bên phải), Đại Thế Chí (bên trái). Đây là 2 vị hộ pháp giúp việc cứu độ cho Phật A-di-đà. Quan Thế Âm (bên phải) với một số sắc tướng và danh hiệu khác Quan Thế Âm vô uý, Quan Thế Âm Nam Hải, Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, Phật bà Quan Âm. Phật A-di-đà là Phật được tạc to nhất trong các nhóm tượng tuỳ theo khuôn khổ từng chùa.


Phật A-di-đà được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống suy tư, miệng hơi mỉm cười. Cũng có nơi, tạc tượng A-di-đà ở tư thế thuyết pháp trên toà sen (ít thôi).

3. Tượng Thích-ca Mâu-ni: Tượng đặt ở hàng thứ ba, chính giữa. Ở trong chùa Phật giáo ta, tượng Thích-ca Mâu-ni được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác nhau. Theo truyền thuyết về cuộc đời và sự nghiệp của Thích-ca Mâu-ni với cái tên gọi như sau:


- Tượng Cửu Long (Thích-ca sơ sinh) tượng Thích-ca ở tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, có 9 con rồng uốn chầu xung quanh, tượng Cửu Long dựa vào Phật sử nói rằng, khi Thích-ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho Ngài. Tắm xong Ngài tự đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên trời, tay trái Ngài chỉ thẳng xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên thượng, Thiên hạ, duy ngã độc tôn” (có nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ có “ta” là tôn quý) (Ta đây là “Đại ngã” bản tính Chân Như, không phải là Tiểu Ngã cá nhân riêng của mình, truyền tâm ấn). Hai bên tượng Cửu Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới, nên tạc theo kiểu nhà vua ngồi trên ngai.


- Tượng Tuyết Sơn diễn tả Thích-ca Mâu-ni trong thời kỳ tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn (núi rừng Ni-câu-luật) với thân hình gầy gò, chỉ có da bọc xương. Dân gian quen gọi là tượng “nhịn ăn để mặc”.


- Tượng Thích-ca thuyết pháp (còn gọi là Thích-ca giáo chủ): Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp, một vai để trần (tượng tay cầm bông sen là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai bên tượng Thích-ca thuyết pháp có hai vị thị giả là Văn thù Bồ tát (giúp về trí tuệ thuộc lý) và Phổ hiền Bồ tát (giúp về hành nguyện thuộc sự). Có chùa thay hai tượng này bằng hai tượng đệ tử An-na-đa và Ca-diếp (thuộc bộ ba của Tiểu thừa).

- Tượng Niết Bàn Tượng diễn tả Thích-ca Mâu-ni đang nhập Niết bàn. Thông thường tượng Niết Bàn ở tư thế nằm nghiêng sườn bên phải xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu, mắt lim dim. Tượng Niết Bàn ít thấy ở các ngôi chùa thờ Phật theo Bắc tông, còn ở các khu chùa thờ Phật theo Nam tông thấy phổ biến.

4. Tượng Phật Di Lặc. Phật Di Lặc được diễn tả bằng một pho tượng có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền của bậc tu hành sắp đắc đạo thành Phật. Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan, nên dân gian quen gọi là ông “No” hay ông “Nhịn mặc để ăn” (phân biệt với tượng Tuyết Sơn là ông “Nhịn ăn để mặc”). Thông thường hai bên tượng Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát và Đại diện tướng Bồ tát, nên còn gọi là Di-Lặc tam tôn.

Ở nhà Bái đường

Thông thường nhà Bái đường được xây dựng trước cửa Chính điện (còn gọi là tiền đường). Các tượng bày ở nhà Bái đường gồm:

+ Tượng Hộ pháp. Hai bên ở Bái đường đặt tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến Thiện và trừng Ác để hộ trì Phật pháp. Tượng Hộ pháp thường được tạc rất to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm viên ngọc, một vị tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi trên lưng một con sân (một loại giống sư tử).


+ Tượng Thần Thổ Địa – Thánh Tăng. Một bên tượng thổ địa và một bên tượng Thánh tăng, lấy điển tích về cùng xuất hiện đồng thời chứng minh khi Đức Thích-ca vừa thành đạo. Trưởng giả Cấp-cô-độc, một nhân vật thời Thích-ca tại thế, đã mua một khu vườn cây xây tịnh xá, ngôi chùa rất to lớn đầu tiên trên thế giới, thỉnh Phật Thích-ca về thuyết pháp. Sau này ông được coi là người bảo vệ tài sản của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức ông hay Đức chúa Già Lam Chầu Tể (thờ gian bên).


Nhà Hành lang:

Trong các ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam, nhà hành lang được xây rất linh hoạt: có thể là hai dãy nhà riêng để đi lại chạy song song ở hai bên nhà Chính diện, mà theo đó, đi vào nhà tăng (hậu đường). Tượng bày ở nhà hành lang là 18 vị La Hán (gọi là thập bát Hán). Tượng tạc kích thước bằng người bình thường với các tư thế khác nhau. Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi trên gốc cây, lưng ngựa, lưng tê giác vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc.

La Hán là vị quả Thánh cao nhất của Tiểu thừa nhưng còn phiền não luân hồi sinh tử. Phật giáo Tiểu thừa cho rằng có 16 vị La Hán vâng lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu độ chúng sinh, không nhập diệt. Theo sách Phật, chỉ có 16 vị La Hán nhưng trên thực tế người ta tạo thêm hai vị nữa thành Thập bát La Hán.


Nhà Tăng:

Nếu thờ Tổ gọi là Nhà Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà Trai. Nhà Tăng thường được xây dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu đường. Trên cao của gian giữa thờ hai tượng Thánh tăng A-nan-đa (có người nói rằng Văn Thù Bồ tát) và sư tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bohhidharma). Thờ ngài A-nan-đa thuộc Tiểu thừa; Ngài Văn Thù Bồ tát thuộc Đại thừa;

Ngài Bồ-đề-đạt-ma là tổ sư truyền đạo thiền sang Trung Hoa. Dưới là các vị sư tổ đã tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng hoặc không. Ở chùa xây dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài ra, ở nhà tăng trong một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ sơn…

Trên là cách bố trí có tính phổ biến trong một ngôi chùa Phật giáo theo Bắc tông, tuy vậy ở mỗi chùa tuỳ theo vị trí các tượng cũng có sự thay đổi cho phù hợp.

Một vài thong tin để tham khảo – Mong các bạn bổ sung thêm cho thêm phần đầy đủ.

 

Giá thể trồng lan

st cùng với kinh nghiệm bản thân.


Than củi


Than củi: Được dùng khá phổ biến, là một chất trồng tốt vì không bị mục, sạch bệnh, tạo thông thoáng cho hệ rễ lan phát triển. Than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và cung cấp dưỡng chất qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng ở đây là loại than gỗ rừng, được nung (hun) thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (như than đước) vì hàm lượng NaCl trong than cao, dễ làm chết lan. Than được chặt nhỏ vừa (kích thước 1 x 3 x 2 cm), không nên chặt quá nhỏ sẽ làm cản trở hô hấp của rễ. Nhược điểm là giữ ẩm kém, giá thành khá cao.

Gỗ vú sữa, gỗ cây me, nhất là thân cây nhãn, vải:


Là chất trồng thông dụng cho các loại lan rừng có rễ to và thích thoáng khí như ngọc điểm, sóc, hoàng thảo các loại … vì bản thân lan rừng khi ở trong rừng bám vào các loại cây để sống.

 Trồng lan vào chậu gỗ

Vỏ quả dừa chặt khúc: Có khả năng giữ ẩm tốt và chất dinh dưỡng được cung cấp từ phân bón giúp cho rễ phát triển tốt. Vỏ dừa chặt khúc nhỏ (1 x 3 x 2 cm) xử lý bằng nước vàoi 5% hoặc NaOH 2%. Nhược điểm là không bền, dễ bị rong rêu phát triển trên bề mặt.

Vỏ dừa miếng:


Đây là chất trồng lan chủ yếu của người Thái, dễ công nghiệp hóa nếu sản xuất lan đại trà trên quy mô lớn. Nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên vỏ dừa miếng được trồng thành băng trên hệ thống giàn. Nếu dùng vỏ dừa miếng trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện đảm bảo ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Vỏ dừa miếng lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. Khuyết điểm là dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên.

Dớn cọng:


Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt.

Sở dĩ dớn cọng được chọn vì không bao giờ đóng rêu, rất lâu mục, ít bị nhiễm vi sinh vật gây bệnh, tạo thông thoáng cho hệ rễ. Nhược điểm là hút ẩm và hấp thu phân bón kém. Ngoài ra còn có dớn miếng, dớn đá, dớn cây… dớn đá – giá thể trồng lan

 Dớn mềm:

Xuất thân từ rêu biển, được nhập khẩu từ nước ngoài và đang được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Dớn mềm có ưu điểm giữ ẩm rất tốt và rất thích hợp cho hệ rễ lan phát triển. Giá cao, dễ bị rong rêu, úng nước trong mùa mưa.

Đất sét nung:


Đây là loại giá thể nhân tạo được làm từ đất sét dạng viên lục giác hoặc viên đùn thỏi phù hợp theo kích thước của giá thể than củi hoặc dừa miếng. Đất sét nung khá phù hợp cho nhiều loại lan.

Vỏ Cây thông :


Có xuất xứ từ Đà lạt hoặc nhập ngoại. Giữ nước và độ ẩm, khá thích hợp cho nhiều thứ lan cho nên nhiều người dùng. Điều bất tiện là thứ này giữ chất muối có sẵn trong nước và trong phân bón, chỉ giữ được chừng 2/3 số Nitrogene trong phân bón và thông thường sẽ bị mục nát trong khoảng 2-3 năm.

 Đá bọt:


Đây là loại đá bọt bazan, cung cấp thêm các nguyên tố dinh dưỡng khoáng cho lan.

Thành phần giá thể phù hợp cho từng nhóm lan

Giá thể trồng Cattleya:

Cấu tạo giá thể là điều kiện quyết định sự phát triển của lan Cattleya, vì thế việc cấu tạo giá thể thay đổi tùy theo vùng và tùy theo mùa trong năm.

 Phương pháp trồng trên thân cây sống và thân cây chết thì giá thể chính là lớp vỏ của thân cây được trồng.

Phương pháp trồng chậu thì giá thể phải thật thoáng. Một giá thể quá bí thì giúp người trồng ít phải tưới nước, nhưng cây rất dễ bị chết vì thối rễ, nhất là trong mùa mưa.

Một giá thể với phần đáy thật thoáng tránh được sự úng nước và phần bề mặt hơi khít kín rất tốt cho sự phát triển của Cattleya.

Vì thế, hiện nay một số nhà vườn trồng Cattleya không cần chất liệu để trồng, chỉ cần chậu làm bằng gỗ thông thoáng và buộc cây vào giữa chậu, rễ phát triển tốt. Tuy nhiên, một số vẫn trồng với giá thể là dớn cọng.

Đối với vùng lạnh, cấu tạo giá thể quá thông thoáng sẽ bất lợi cho sự sinh trưởng, vì nhiệt độ lạnh ban đêm sẽ làm các đầu rễ đui đi và bộ rễ teo dần, cây phát triển èo uột.

Một giá thể bít kín sẽ giúp rễ có độ ấm để phát triển, do đó ở Đà Lạt người ta dùng các loại dớn vụn để làm giá thể trồng lan.

Giá thể trồng Dendrobium:

Chậu trồng phải thật thoáng và không úng nước. Tuy nhiên, do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả hành có thân, các loài thuộc giống Dendrobium có thể dùng giá thể hơi ẩm hơn Cattleya chút ít nhưng không được làm thối căn hành. Vì thế một số loài Dendrobium có thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa, than hay vỏ dừa chặt khúc.

Nếu giá thể là xơ dừa phải hạn chế số lần tưới nước, nếu không cây bị thối vì quá ẩm. Tuy nhiên, giá thể than và vỏ dừa chặt khúc vẫn tỏ ra hiệu quả nhất.

Giá thể trồng Hồ điệp:

Một cách trồng chung nhất cho các loại đơn thân là chậu thật thoáng, càng thoáng càng tốt, có thể đến mức cực đoan chỉ dùng chậu như giá thể duy nhất, tuy nhiên chỉ áp dụng cho nơi nào điều kiện ẩm độ ổn định, sự thông gió không đổi và nhất là tiểu khí hậu thật điều hòa. Do đó chậu phải thật sạch, không có dấu vết của bất kỳ loài rêu nào bám trên thành chậu.

Thường các nhà trồng lan dùng than, vỏ dừa chặt khúc, dớn mềm mà bên dưới chậu có thể thêm xốp nhân tạo tạo độ thoáng làm giá thể cho Hồ điệp. Với cách trồng này, khi cây đã thích nghi sẽ phát triển mạnh trong tương lai và trong chậu hình như không có một cái rễ nào bị thối.

Giá thể trồng Vanda:

Vanda là một loại lan không có mùa nghỉ, một biến cố khô hạn rất dễ làm các loài giống này rụng hết phần lá gần gốc. Tuy nhiên, ẩm độ cục bộ trong chậu quá cao dễ làm cho các rễ bị thối. Vì thế, cấu tạo giá thể thật thoáng cho các loài thuộc giống Vanda và Ascocenda là điều kiện bắt buộc.

Việc duy trì ẩm độ ổn định là cố gắng của các nhà vườn thông qua sự tưới hàng ngày.

Giá thể cho Mokara:

Mokara thường được trồng thành liếp dưới đất, chất trồng bằng vỏ đậu phộng khô với độ dày khoảng 10 – 15 cm ban đầu, sau thời gian vỏ đậu phộng xẹp xuống có thể bổ sung thêm vỏ đậu phộng để tạo lớp nền cho rễ lan bám xuống.

Giá thể trồng lan Oncidium (Vũ nữ):

Tương tự như trồng Dendrobium, chất trồng có thể là vỏ dừa chặt khúc, than.

Giá thể trồng lan Paphiopedilum (lan Hài):

Paphiopedilum là loài lan đất nên giá thể gồm 2 phần tro trấu, 1 phần đất mùn + 1 phần phân bò hoai + 1/20 bánh dầu xay nhuyễn, có thể tưới thêm phân NPK 30-10-10, tưới 2 lần/tuần trong suốt mùa tăng trưởng.

Giá thể cho Cymbidium (Địa lan):

Gồm 1/2 dớn + 1/2 vỏ thông hay 1/3 dớn + 2/3 vỏ thông. Ánh sáng 50%. Tiêu chuẩn một giá thể tốt cho Cymbidium là: giữ ẩm tốt, thoáng khí, chậm phân hủy, chứa nhiều dinh dưỡng, rẻ tiền, dễ kiếm và trữ lượng cao trong tự nhiên, pH giá thể từ 6,5 – 7,0.

Các loại vật liệu có thể dùng làm giá thể: dớn, dớn sợi, vỏ thông, mùn cưa, xơ dừa, than vụn, gạch, đá vụn, lá cây mục… Cho đến nay, dớn vẫn là loại tốt nhất cho Cymbidium vì giữ ẩm cao, thông thoáng, giàu dinh dưỡng (nhất là K và N), chậm phân hủy. Nhưng hiện nay trữ lượng dớn ngày càng ít đi, giá khá đắt và việc khai thác dớn làm hư hại nhiều cho các khu rừng già. Để nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn, dớn sẽ không đáp ứng đủ.

Vỏ thông và mùn cưa là một loại giá thể có thể đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế nhưng lại nghèo dinh dưỡng. Vỏ thông và mùn cưa tươi không dùng được vì hàm lượng dầu còn cao, có thể làm hư bộ rễ.

Trước khi sử dụng cần phải ủ cho hoại mục. Khi ủ, trộn 1 m3 vỏ thông xay nhuyễn với 10 kg apatit, 10 kg vàoi, 1 kg các loại phân vào cơ khác (KCl, K2SO4) thời gian ủ trên 6 tháng. Trong khi ủ cần tưới ẩm thường xuyên. Có thể dùng vỏ thông thuần túy hay trộn với các loại khác như dớn, than vụn, gạch vụn để làm giá thể.

Nếu các bạn thấy có giá thể trồng lan nào thông dụng và dễ tìm khác vui lòng đăng comment lên cho mọi người biết với nhé!

Xin cảm ơn