Trải nghiệm và st trên net
Cách bố trí tượng Phật ở các chùa không giống nhau
tuỳ theo tôn phái. Các chùa miền Bắc thường là theo Bắc tông, cách bài trí
tượng Phật khác với chùa miền Nam, thường đơn giản hơn.
Một ngôi chùa Phật giáo (theo Bắc tông – ở miền
Bắc nước ta) phổ biến có 4 khu vực: Chính
điện, Tiền đường, Nhà hành lang, Nhà tổ và nhà trai.
Ở
chính điện
1. Tượng Tam Thế
là ba pho tượng ngồi ngang nhau ở nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ
Phật trong ba thời gian quá khứ, hiện tại thế, vị lai thế.
Thứ nhất, chữ Thế có thể hiểu là Thời. Vậy Tam Thế
Phật là Phật 3 thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật quá khứ là Phật Ca Diếp
(hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh Diêm Phù Đề là 20.000 tuổi), Phật hiện tại
là Phật Thích Ca Mâu Ni (hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh không quá 100
tuổi), Phật tương lai là Phật Di Lặc (hiện ở đời khi tuổi thọ chúng sinh đạt
10.000 tuổi). Nói rộng ra theo nghĩa này thì Tam Thế Phật là Phật của cả 3
thời: quá khứ, hiện tại và tương lai, tức là vô lượng vô biên vô số chư Phật
mười phương.
Thứ hai, chữ Thế có thể hiểu là Thế giới, gồm có
phương Đông là thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư, phương Tây là thế giới
Cực Lạc của Phật A Di Đà và trung tâm là thế giới Sa Bà của Phật Thích Ca Mâu
Ni. Theo nghĩa này, Tam Thế Phật là không gian vô lượng của thế giới chư Phật
từ Đông sang Tây, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, ..., vô lượng vô biên
vô số quốc độ Phật như thế.
Namo
quá khứ Phật Ca Diếp
Namo
hiện tại Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Namo
đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
(có
thuyết nói đức Phật A-di-đà là Phật quá khứ “tam thế tương liên” thì không
đúng. Nên nhớ trong kinh Tịnh Độ, danh hiệu của Ngài Vô Lượng Thọ “hiện nay
Ngài đang thuyết pháp” tiếp dẫn chúng sinh ở mười phương thế giới vãng sinh tới
cõi cực lạc, vả lại Ngài cũng ra đời cõi Sa Bà này).
2. Tượng A-di-đà Tam Tôn: Tượng còn được gọi là “Tây phương tam thánh” đặt
ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm: Phật A-di-đà (ngồi giữa), Quán Thế Âm (bên
phải), Đại Thế Chí (bên trái). Đây là 2 vị hộ pháp giúp việc cứu độ cho Phật
A-di-đà. Quan Thế Âm (bên phải) với một số sắc tướng và danh hiệu khác Quan Thế
Âm vô uý, Quan Thế Âm Nam Hải, Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, Phật bà Quan
Âm. Phật A-di-đà là Phật được tạc to nhất trong các nhóm tượng tuỳ theo khuôn
khổ từng chùa.
Phật A-di-đà được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi
xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống suy tư,
miệng hơi mỉm cười. Cũng có nơi, tạc tượng A-di-đà ở tư thế thuyết pháp trên
toà sen (ít thôi).
3. Tượng Thích-ca Mâu-ni: Tượng đặt ở hàng thứ ba, chính giữa. Ở trong chùa
Phật giáo ta, tượng Thích-ca Mâu-ni được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác
nhau. Theo truyền thuyết về cuộc đời và sự nghiệp của Thích-ca Mâu-ni với cái
tên gọi như sau:
- Tượng Cửu Long (Thích-ca sơ sinh) tượng Thích-ca
ở tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất,
có 9 con rồng uốn chầu xung quanh, tượng Cửu Long dựa vào Phật sử nói rằng, khi
Thích-ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho Ngài. Tắm xong Ngài tự
đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên trời, tay trái Ngài chỉ thẳng
xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên thượng, Thiên hạ, duy ngã độc tôn” (có
nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ có “ta” là tôn quý) (Ta đây là “Đại ngã” bản
tính Chân Như, không phải là Tiểu Ngã cá nhân riêng của mình, truyền tâm ấn).
Hai bên tượng Cửu Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới,
nên tạc theo kiểu nhà vua ngồi trên ngai.
- Tượng Tuyết Sơn diễn tả Thích-ca Mâu-ni trong
thời kỳ tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn (núi rừng Ni-câu-luật) với thân hình gầy
gò, chỉ có da bọc xương. Dân gian quen gọi là tượng “nhịn ăn để mặc”.
- Tượng Thích-ca thuyết pháp (còn gọi là Thích-ca
giáo chủ): Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp, một vai
để trần (tượng tay cầm bông sen là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai bên tượng
Thích-ca thuyết pháp có hai vị thị giả là Văn thù Bồ tát (giúp về trí tuệ thuộc
lý) và Phổ hiền Bồ tát (giúp về hành nguyện thuộc sự). Có chùa thay hai tượng
này bằng hai tượng đệ tử An-na-đa và Ca-diếp (thuộc bộ ba của Tiểu thừa).
- Tượng Niết Bàn Tượng diễn tả Thích-ca Mâu-ni đang
nhập Niết bàn. Thông thường tượng Niết Bàn ở tư thế nằm nghiêng sườn bên phải
xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu, mắt lim dim. Tượng Niết Bàn ít
thấy ở các ngôi chùa thờ Phật theo Bắc tông, còn ở các khu chùa thờ Phật theo
Nam tông thấy phổ biến.
4. Tượng Phật Di Lặc. Phật Di Lặc được diễn tả bằng một pho tượng có
dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền của bậc tu hành sắp đắc đạo thành Phật.
Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan, nên dân gian quen gọi là ông “No”
hay ông “Nhịn mặc để ăn” (phân biệt với tượng Tuyết Sơn là ông “Nhịn ăn để
mặc”). Thông thường hai bên tượng Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát
và Đại diện tướng Bồ tát, nên còn gọi là Di-Lặc tam tôn.
Ở
nhà Bái đường
Thông thường nhà Bái đường được xây dựng trước cửa
Chính điện (còn gọi là tiền đường). Các tượng bày ở nhà Bái đường gồm:
+ Tượng Hộ pháp. Hai bên ở Bái đường đặt
tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến Thiện và trừng Ác để hộ
trì Phật pháp. Tượng Hộ pháp thường được tạc rất to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình
mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm viên ngọc, một vị tay cầm binh khí,
trong tư thế đứng hoặc ngồi trên lưng một con sân (một loại giống sư tử).
+ Tượng Thần Thổ Địa – Thánh Tăng. Một bên
tượng thổ địa và một bên tượng Thánh tăng, lấy điển tích về cùng xuất hiện đồng
thời chứng minh khi Đức Thích-ca vừa thành đạo. Trưởng giả Cấp-cô-độc, một nhân
vật thời Thích-ca tại thế, đã mua một khu vườn cây xây tịnh xá, ngôi chùa rất
to lớn đầu tiên trên thế giới, thỉnh Phật Thích-ca về thuyết pháp. Sau này ông
được coi là người bảo vệ tài sản của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức ông
hay Đức chúa Già Lam Chầu Tể (thờ gian bên).
Nhà
Hành lang:
Trong các ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam, nhà hành
lang được xây rất linh hoạt: có thể là hai dãy nhà riêng để đi lại chạy song
song ở hai bên nhà Chính diện, mà theo đó, đi vào nhà tăng (hậu đường). Tượng
bày ở nhà hành lang là 18 vị La Hán (gọi là thập bát Hán). Tượng tạc kích thước
bằng người bình thường với các tư thế khác nhau. Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi
trên gốc cây, lưng ngựa, lưng tê giác vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc.
La Hán là vị quả Thánh cao nhất của Tiểu thừa nhưng
còn phiền não luân hồi sinh tử. Phật giáo Tiểu thừa cho rằng có 16 vị La Hán
vâng lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu độ chúng sinh, không nhập diệt.
Theo sách Phật, chỉ có 16 vị La Hán nhưng trên thực tế người ta tạo thêm hai vị
nữa thành Thập bát La Hán.
Nhà
Tăng:
Nếu thờ Tổ gọi là Nhà Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà
Trai. Nhà Tăng thường được xây dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu đường.
Trên cao của gian giữa thờ hai tượng Thánh tăng A-nan-đa (có người nói rằng Văn
Thù Bồ tát) và sư tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bohhidharma). Thờ ngài A-nan-đa thuộc Tiểu
thừa; Ngài Văn Thù Bồ tát thuộc Đại thừa;
Ngài Bồ-đề-đạt-ma là tổ sư truyền đạo thiền sang
Trung Hoa. Dưới là các vị sư tổ đã tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng
hoặc không. Ở chùa xây dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài
ra, ở nhà tăng trong một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ
sơn…
Trên là cách bố trí có tính phổ biến trong một ngôi
chùa Phật giáo theo Bắc tông, tuy vậy ở mỗi chùa tuỳ theo vị trí các tượng cũng
có sự thay đổi cho phù hợp.
Một vài thong tin để tham khảo – Mong các bạn bổ
sung thêm cho thêm phần đầy đủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét