st trên net
Cách trung tâm Thanh Hóa khoảng 50 km, khu di tích Lam Kinh có nhiều công trình bề thế với lịch sử hàng trăm năm.
Khu di
tích lịch sử Lam Kinh rộng 200 ha (huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) là nơi anh
hùng Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược. Sau khi chiến thắng,
năm 1428, Lê Lợi lấy niên hiệu Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Đại Việt. Nhà vua
đóng đô ở Thăng Long (Hà Nội) và dựng ở quê hương Lam Sơn một kinh thành gọi là
Lam Kinh. Nơi này còn được gọi là Tây Kinh (để phân biệt với Đông Kinh – Hà Nội)
có nhiều điện miếu, lăng tẩm quy mô lớn để thờ cúng tổ tiên, nơi an nghỉ của
các nhà vua.
Đường
dẫn vào hoàng thành có một con sông đào tên là sông Ngọc. Dòng chảy này bắt
nguồn từ Tây Hồ, vòng qua trước thành và điện Lam Kinh. Theo sách Hoàng Việt dư
địa chí, nước sông trong veo, đáy sông có nhiều sỏi tròn đẹp.
Trên
sông Ngọc có bắc một cây cầu tên là Tiên Loan Kiều hình cánh cung, còn có tên
gọi là Cầu Bạch. Cầu uốn cong bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn
vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh.
Qua cầu
khoảng 50 m đến một giếng cổ, trước kia có thả sen. Nước giếng trong xanh quanh
năm không cạn, bờ Bắc được lát bậc đá lên xuống, cung cấp nước cho điện Lam
Kinh.
Hàng năm
có rất đông du khách đến viếng điện Lam Kinh và tham quan chụp ảnh tại giếng
cổ. Đây là một trong những giếng cổ lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Muốn vào
khu chính điện, khách phải đi qua Ngọ môn có 3 gian, gian giữa rộng 4,6 m, gian
bên rộng 3,5 m. Nền Ngọ môn rộng 11 m, dài hơn 14 m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa
rộng 3,6 m, cửa hai bên rộng 2,74 m và được bố trí hàng cột chính giữa. Đặc
điểm của bốn cột giữa là kích thước lớn, đường kính chân cột 78 cm.
Trước
Ngọ môn có con nghê đá đứng canh. Phần lưng và đế nghê vẫn còn giữ nguyên bản,
có niên đại hàng trăm năm. Phần đầu và chân trước mới được phục dựng lại gần
đây.
Khu di
tích còn lưu giữ nét đẹp của không gian Việt với “cây đa, giếng nước, sân
đình”. Bên phải sân rồng (còn gọi là sân chầu) là cây đa thị hàng trăm năm
tuổi, có kích thước chục người ôm mới xuể.
Qua Ngọ
môn vào đến sân rồng. Sân trải rộng khắp bề ngang chính điện và đến sát thềm
hai nhà tả vu và hữu vu với tổng diện tích hơn 3.500 m2.
Chính
điện Lam Kinh bố trí theo hình chữ “công” gồm 3 tòa điện lớn xây trên nền đất
rộng, là Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Đây là công trình kiến trúc gỗ quy
mô, với hàng cột cái của cả ba điện có đường kính đến 62 cm. Nằm sau khu chính
điện là Thái miếu Lam Kinh gồm 9 tòa được bài trí trang nghiêm, là nơi thờ cúng
tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Nhưng hiện tại mới có 5 Thái miếu
được phục dựng.
Điện
phía trước gọi là Quang Đức, điện dọc ở giữa gọi là Sùng Hiếu, điện phía sau
gọi là Diên Khánh. Hai điện Quang Đức và Diên Khánh đều có 9 gian, gian giữa
rộng nhất, hai gian hai đầu hồi chỉ rộng 2 m tạo thành hành lang bao quanh cả 3
điện.
Thành
điện Lam Kinh phía bắc dựa vào núi Dầu, phía trước thành hướng nam và nhìn ra
sông Chu – có núi Chúa làm bình phong, bên trái là rừng Phú Lâm, bên phải là
núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía tây. Năm 1962, nơi đây đã được công nhận là
Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến năm 2012, khu di tích Lam Kinh tiếp tục được
công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Khởi nguồn, lễ hội Lam Kinh bắt đầu sau
khi vua Lê Thái Tổ băng hà và được đưa về an táng tại Lam Kinh năm 1433. Ngày
nay, cứ đến ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi) tháng 8 Âm lịch hàng năm,
nhân dân trong vùng lại tổ chức lễ hội Lam Kinh để tưởng nhớ công ơn các bậc
tiền nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét