st cùng với kinh nghiệm bản thân.
Than củi
Than củi: Được dùng khá phổ
biến, là một chất trồng tốt vì không bị mục, sạch bệnh, tạo thông thoáng cho hệ
rễ lan phát triển. Than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và cung
cấp dưỡng chất qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng ở đây là loại
than gỗ rừng, được nung (hun) thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ
rừng sác (như than đước) vì hàm lượng NaCl trong than cao, dễ làm chết lan.
Than được chặt nhỏ vừa (kích thước 1 x 3 x 2 cm), không nên chặt quá nhỏ sẽ làm
cản trở hô hấp của rễ. Nhược điểm là giữ ẩm kém, giá thành khá cao.
Gỗ vú sữa, gỗ cây me, nhất là thân cây nhãn, vải:
Là chất trồng thông dụng cho
các loại lan rừng có rễ to và thích thoáng khí như ngọc điểm, sóc, hoàng thảo
các loại … vì bản thân lan rừng khi ở trong rừng bám vào các loại cây để sống.
Trồng lan
vào chậu gỗ
Vỏ quả dừa chặt khúc: Có khả
năng giữ ẩm tốt và chất dinh dưỡng được cung cấp từ phân bón giúp cho rễ phát
triển tốt. Vỏ dừa chặt khúc nhỏ (1 x 3 x 2 cm) xử lý bằng nước vàoi 5% hoặc
NaOH 2%. Nhược điểm là không bền, dễ bị rong rêu phát triển trên bề mặt.
Vỏ dừa miếng:
Đây là chất trồng lan chủ yếu
của người Thái, dễ công nghiệp hóa nếu sản xuất lan đại trà trên quy mô lớn.
Nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên vỏ dừa miếng được trồng thành băng trên
hệ thống giàn. Nếu dùng vỏ dừa miếng trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt
nhất là tạo điều kiện đảm bảo ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Vỏ dừa miếng
lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. Khuyết
điểm là dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục. Đối với chất trồng này phải phun
thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên.
Dớn cọng:
Đây là dạng sợi của thân và rễ
cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung
lũng đồi núi Đà Lạt.
Sở dĩ dớn cọng được chọn vì
không bao giờ đóng rêu, rất lâu mục, ít bị nhiễm vi sinh vật gây bệnh, tạo
thông thoáng cho hệ rễ. Nhược điểm là hút ẩm và hấp thu phân bón kém. Ngoài ra
còn có dớn miếng, dớn đá, dớn cây… dớn đá – giá thể trồng lan
Dớn mềm:
Xuất thân từ rêu biển, được
nhập khẩu từ nước ngoài và đang được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Dớn mềm
có ưu điểm giữ ẩm rất tốt và rất thích hợp cho hệ rễ lan phát triển. Giá cao,
dễ bị rong rêu, úng nước trong mùa mưa.
Đất sét nung:
Đây là loại giá thể nhân tạo
được làm từ đất sét dạng viên lục giác hoặc viên đùn thỏi phù hợp theo kích
thước của giá thể than củi hoặc dừa miếng. Đất sét nung khá phù hợp cho nhiều
loại lan.
Vỏ Cây thông :
Có xuất xứ từ Đà lạt hoặc nhập
ngoại. Giữ nước và độ ẩm, khá thích hợp cho nhiều thứ lan cho nên nhiều người
dùng. Điều bất tiện là thứ này giữ chất muối có sẵn trong nước và trong phân
bón, chỉ giữ được chừng 2/3 số Nitrogene trong phân bón và thông thường sẽ bị
mục nát trong khoảng 2-3 năm.
Đá bọt:
Đây là loại đá bọt bazan, cung
cấp thêm các nguyên tố dinh dưỡng khoáng cho lan.
Thành phần giá thể phù hợp cho
từng nhóm lan
Giá thể trồng Cattleya:
Cấu tạo giá thể là điều kiện
quyết định sự phát triển của lan Cattleya, vì thế việc cấu tạo giá thể thay đổi
tùy theo vùng và tùy theo mùa trong năm.
Phương pháp trồng trên thân cây sống và thân
cây chết thì giá thể chính là lớp vỏ của thân cây được trồng.
Phương pháp trồng chậu thì giá
thể phải thật thoáng. Một giá thể quá bí thì giúp người trồng ít phải tưới
nước, nhưng cây rất dễ bị chết vì thối rễ, nhất là trong mùa mưa.
Một giá thể với phần đáy thật
thoáng tránh được sự úng nước và phần bề mặt hơi khít kín rất tốt cho sự phát
triển của Cattleya.
Vì thế, hiện nay một số nhà
vườn trồng Cattleya không cần chất liệu để trồng, chỉ cần chậu làm bằng gỗ
thông thoáng và buộc cây vào giữa chậu, rễ phát triển tốt. Tuy nhiên, một số
vẫn trồng với giá thể là dớn cọng.
Đối với vùng lạnh, cấu tạo giá
thể quá thông thoáng sẽ bất lợi cho sự sinh trưởng, vì nhiệt độ lạnh ban đêm sẽ
làm các đầu rễ đui đi và bộ rễ teo dần, cây phát triển èo uột.
Một giá thể bít kín sẽ giúp rễ
có độ ấm để phát triển, do đó ở Đà Lạt người ta dùng các loại dớn vụn để làm giá
thể trồng lan.
Giá thể trồng Dendrobium:
Chậu trồng phải thật thoáng và
không úng nước. Tuy nhiên, do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả
hành có thân, các loài thuộc giống Dendrobium có thể dùng giá thể hơi ẩm hơn
Cattleya chút ít nhưng không được làm thối căn hành. Vì thế một số loài
Dendrobium có thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa, than hay vỏ dừa chặt
khúc.
Nếu giá thể là xơ dừa phải hạn
chế số lần tưới nước, nếu không cây bị thối vì quá ẩm. Tuy nhiên, giá thể than
và vỏ dừa chặt khúc vẫn tỏ ra hiệu quả nhất.
Giá thể trồng Hồ điệp:
Một cách trồng chung nhất cho
các loại đơn thân là chậu thật thoáng, càng thoáng càng tốt, có thể đến mức cực
đoan chỉ dùng chậu như giá thể duy nhất, tuy nhiên chỉ áp dụng cho nơi nào điều
kiện ẩm độ ổn định, sự thông gió không đổi và nhất là tiểu khí hậu thật điều
hòa. Do đó chậu phải thật sạch, không có dấu vết của bất kỳ loài rêu nào bám
trên thành chậu.
Thường các nhà trồng lan dùng
than, vỏ dừa chặt khúc, dớn mềm mà bên dưới chậu có thể thêm xốp nhân tạo tạo
độ thoáng làm giá thể cho Hồ điệp. Với cách trồng này, khi cây đã thích nghi sẽ
phát triển mạnh trong tương lai và trong chậu hình như không có một cái rễ nào
bị thối.
Giá thể trồng Vanda:
Vanda là một loại lan không có
mùa nghỉ, một biến cố khô hạn rất dễ làm các loài giống này rụng hết phần lá
gần gốc. Tuy nhiên, ẩm độ cục bộ trong chậu quá cao dễ làm cho các rễ bị thối.
Vì thế, cấu tạo giá thể thật thoáng cho các loài thuộc giống Vanda và Ascocenda
là điều kiện bắt buộc.
Việc duy trì ẩm độ ổn định là
cố gắng của các nhà vườn thông qua sự tưới hàng ngày.
Giá thể cho Mokara:
Mokara thường được trồng thành
liếp dưới đất, chất trồng bằng vỏ đậu phộng khô với độ dày khoảng 10 – 15 cm
ban đầu, sau thời gian vỏ đậu phộng xẹp xuống có thể bổ sung thêm vỏ đậu phộng
để tạo lớp nền cho rễ lan bám xuống.
Giá thể trồng lan Oncidium (Vũ nữ):
Tương tự như trồng Dendrobium,
chất trồng có thể là vỏ dừa chặt khúc, than.
Giá thể trồng lan Paphiopedilum (lan Hài):
Paphiopedilum là loài lan đất
nên giá thể gồm 2 phần tro trấu, 1 phần đất mùn + 1 phần phân bò hoai + 1/20
bánh dầu xay nhuyễn, có thể tưới thêm phân NPK 30-10-10, tưới 2 lần/tuần trong
suốt mùa tăng trưởng.
Giá thể cho Cymbidium (Địa lan):
Gồm 1/2 dớn + 1/2 vỏ thông hay
1/3 dớn + 2/3 vỏ thông. Ánh sáng 50%. Tiêu chuẩn một giá thể tốt cho Cymbidium
là: giữ ẩm tốt, thoáng khí, chậm phân hủy, chứa nhiều dinh dưỡng, rẻ tiền, dễ
kiếm và trữ lượng cao trong tự nhiên, pH giá thể từ 6,5 – 7,0.
Các loại vật liệu có thể dùng
làm giá thể: dớn, dớn sợi, vỏ thông, mùn cưa, xơ dừa, than vụn, gạch, đá vụn,
lá cây mục… Cho đến nay, dớn vẫn là loại tốt nhất cho Cymbidium vì giữ ẩm cao,
thông thoáng, giàu dinh dưỡng (nhất là K và N), chậm phân hủy. Nhưng hiện nay
trữ lượng dớn ngày càng ít đi, giá khá đắt và việc khai thác dớn làm hư hại
nhiều cho các khu rừng già. Để nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn, dớn sẽ không
đáp ứng đủ.
Vỏ thông và mùn cưa là một
loại giá thể có thể đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế nhưng lại
nghèo dinh dưỡng. Vỏ thông và mùn cưa tươi không dùng được vì hàm lượng dầu còn
cao, có thể làm hư bộ rễ.
Trước khi sử dụng cần phải ủ
cho hoại mục. Khi ủ, trộn 1 m3 vỏ thông xay nhuyễn với 10 kg apatit,
10 kg vàoi, 1 kg các loại phân vào cơ khác (KCl, K2SO4) thời gian ủ trên 6
tháng. Trong khi ủ cần tưới ẩm thường xuyên. Có thể dùng vỏ thông thuần túy hay
trộn với các loại khác như dớn, than vụn, gạch vụn để làm giá thể.
Nếu các bạn thấy có giá thể
trồng lan nào thông dụng và dễ tìm khác vui lòng đăng comment lên cho mọi người
biết với nhé!
Xin cảm ơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét