01/03/2021

VĂN HÓA ĐÌNH LÀNG VIỆT

Giáo sư Nguyễn Đăng Thục.


Cơ cấu tổ chức căn bản của xã hội nông dân Việt Nam là cái Làng do chữ Lang là bộ lạc cổ xưa để lại. Lang vốn là một thị tộc, góp thị tộc lại thành Làng.

Làng là đơn vị xã hội công cộng nguyên thủy sót lại, cho nên nguyên tắc tổ chức căn cứ vào tinh thần dân chủ công cộng nguyên thuỷ.

Trong làng ấy, tất cả sinh hoạt tinh thần và vật chất công cộng đều tập trung chung quanh cái “nhà chung” gọi là Đình làng, hay là cái Đình. Cái Đình trong tâm hồn nông dân có một hình ảnh thân mật, một ý nghĩa linh động như thế nào, thì chỉ xem như nó phản chiếu qua những câu ca dao sau đây đủ biết:

Đêm qua tát nứơc đầu Đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà…

Lại như:

Trúc xinh trúc mọc đầu Đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Đã thấy hình ảnh cái Đình đã in sâu trong tâm khảm người nông dân Việt, luôn luôn được nhắc nhở đến. Các nhà văn hóa Pháp trước đây đã sớm nhận thấy, như P.Giran viết:

Cái Đình là nơi thờ thần bảo hộ mỗi làng, chính là trung tâm đời sống công cộng của đoàn thể; chính ở đấy có những hội đồng kỳ mục, chính ở tại đấy họ giải quyết các vấn đề hành chính và tư pháp nội bộ; chính ở tại đấy có những cuộc tế lễ, tóm lại tất cả hành vi sinh hoạt xã hội Việt Nam đều diễn ra ở đây.

Thần bảo hộ hay Thành hoàng đại biểu linh động tổng số những kỷ niệm chung, những nguyện vọng chung. Ngài hiện thân cho tục lệ, luân lý và đồng thời sự thưởng phạt trừng giới; chính Ngài thưởng phạt khi nào dân làng có người phạm lệ hay tôn trong lệ làng. Sau cùng Ngài còn là hiện thân đại diện cho cái quyền tối cao bắt nguồn và lấy hiệu lực ở chính xã hội nhân quần. Hơn nữa Ngài còn là môi giới của tất cả phần tử của đoàn thể, Ngài kết thành khối, như là một thứ nhân cách tinh thần mà tất cả thuộc tính cốt yếu đều có thấy ở mỗi cá nhân” (P.Giran, Magie et religions Annamites, 1918 trang 334-335).

Và J.Y.Claeys cũng viết: “Chắc hẳn qua cái Đình người ta có thể nghiên cứu chắc chắn hơn cả về những tập tục nhiều khi rất phức tạp, thường là cảm động; luôn luôn mới lạ, biểu lộ đặc trưng đời sống tinh thần của xã thôn Việt Nam”. (J.Y.Claeys, Introduction à l’étude l’Annam et du Champa, Hanoi 1934)

Vậy Đình là linh hồn của Làng, hưng thịnh cũng vì hướng Đình, suy bại cũng vì hướng Đình. Muốn biết vận mệnh của một Làng, kẻ hay người dở, tính tình nhân sự của nó hãy còn hướng Đình. Đủ biết vai trò của Đình trọng đại đối với dân làng đến thế nào. Chung quanh Đình là Chùa thờ Phật, là Văn chỉ thờ chư hiền Nho giáo, xa xa là Điện là Miếu thờ chư vị lão giáo.

Duy Đình thờ Thành hoàng của làng là tín ngưỡng chung bắt buộc tất cả dân làng. Đủ tỏ Thần đạo là tôn giáo chính, bản lai của dân tộc. Vậy Đình trước hết là nơi thờ tự Thành hoàng, vị thần chung của toàn thể dân làng tín ngưỡng chung thờ, ngoài tín ngưỡng cá nhân riêng hoặc Phật giáo hoặc tín đồ Phật tử, hoặc Lão giáo hoặc tín đồ Vật linh, Chư vị, Thần tiên, hoặc Nho giáo của tín độ Văn học, Tư văn. Thần đạo mới là công giáo của một làng vậy. Thứ đến Đình còn là nơi hội họp việc làng, bầu cử ngôi thứ trong ban kỳ mục để cai quản tất cả công việc chung, từ việc sinh tử giá thú của cá nhân, cho đến việc phạt tạ, xử án vi cảnh. Bảo vệ thuần phong mỹ tục của đoàn thể, việc an ninh trật tự đến việc phân chia điền địa hoa màu. Tóm lại Đình là một công sở của làng như tòa đô sảnh của một đô thị ngày nay.

Đình còn là nơi hội hè, sau khi tế lễ, các đại biểu của làng từ đàn anh đến đàn em ăn uống, chia phần lộc thánh có ý nghĩa thiêng liêng vì “một miếng ở làng còn hơn một sàng xó bếp”.

Sau khi ăn uống rồi, thường có các cuộc biểu diễn văn nghệ bình dân, ca hát, đánh cờ, đánh bạc tất cả các trò tiêu khiển tập thể của nông dân. Ngày thường, sân Đình còn là nơi họp chợ làng, hành lang có khi dùng làm trường học làng, Đình trung còn là nơi nghỉ chân của vua quan triều đình đi tuần thú dừng chân v.v…

Nay hãy tuần tự xét cứu các phương diện văn hóa dân tộc của Đình làng như sau:

NGUYÊN LAI CỦA ĐÌNH LÀNG

Cũng như chữ Làng do danh từ Lang cổ xưa để lại, Đình là cái nhà thờ tổ chung cho các thị tộc cũng phải có từ thời cổ xưa, như chúng ta vẫn thấy hiện nay ở các nhóm đồng bào miền núi, gọi là Mường hay đồng bào Thượng, dòng dõi Việt Nam cổ thuộc thời chủng tộc Anh-đô-nê-diêng, Mã-lai-nê-diêng. Theo Nguyễn Văn Huyên nghiên cứu về kiểu nhà sàn cao cẳng ở Đông Nam Á châu (Introduction à l’étude des maisons sur pilotis dans l’Asie du S.E 1934), kết luận về kiến trúc Đình Yên sở cho là giống hệt với kiến trúc nhà cửa dân Minangkabas đảo Sumatra.

L.Bezacier trường Viễn Đông Bác Cổ viết về cái Đình rằng:

“Cái Đình với cái Chùa là một trong những kiến trúc nhiều ý nghĩa nhất ở Bắc Việt. Nguyên lai của nó chưa rõ lắm. Có khi muốn cho là ở Tàu. Sách Ying Tsao fa che nói rằng kiến trúc ấy có ở bên Tàu từ thời Hán. Đình là một nơi yên cư của dân. Chữ Đình nghĩa là dừng chân hay ở lại, phán xét hay xếp đặt.
Như thế chẳng chứng minh gì về nguyên lai Tàu cả, chúng ta có khuynh hướng tin rằng nguyên lai của nó là Anh-đô-nê-diêng.

Nên để ý rằng đấy là cái kiến trúc độc nhất của Việt Nam xây dựng trên cột. Chúng ta không thấy có sử kiện nào khác với nguyên tắc ấy. Ở Tàu, phương pháp kiến trúc ấy hình như người ta không biết. Và cái Đình của Tàu thì xây dựng ngay trên mặt đất. Trái lại tất cả kiến trúc Anh-đô-nê-diêng đều xây trên cột. Hơn nữa chúng ta thấy ở tất cả dân tộc Anh-đô-nê-diêng gồm cả dân Mọi, kiểu nhà chung trên cột là nơi để hành khách dừng chân yên nghỉ theo nghĩa đen của chữ Đình.

Chúng ta cũng lại thấy lối kiến trúc ấy trên mặt trống đồng Đông Sơn. Kiểu mẫu rõ ràng là Anh-đô-nê-diêng như ông Goloubew đã chứng minh, cho đến khi nào có thêm tài liệu khác. Hiện nay kiến trúc này như đã đem vào Tàu do tay các nhà chinh phục đời Hán, khi dân Hán đô hộ phương Nam nước Tàu với Bắc Việt ở những thế kỷ đầu kỷ nguyên.

Vả lại đấy không phải một ảnh hưởng Việt Nam hay Anh-đô-nê-diêng độc nhất mà chúng ta nhận thấy ở các kiến trúc Tàu.”

(L.Bezacier, Essais sur l’art Annamite, 1944)

Vậy kiểu mẫu kiến trúc Đình làng phải tìm nguyên lai ở văn hóa Đông Sơn trên đặc trưng kỹ thuật trống đồng hay Đồng Cổ. Và như các nhà khảo cổ đã chứng minh, văn h1oa Đông Sơn Trống đồng có trước khi văn hóa Trung Hoa của Hán tộc tràn xuống miền Nam nước Tàu, vượt dãy Ngũ lĩnh du nhập vào cõi đất Lĩnh Nam gồm Phiêu Ngung (Quảng Châu ngày nay) Giao Chỉ (Bắc Việt) Nhật Nam (Bắc Trung Việt).

Ông Nguyễn Văn Khoan có tả đặc chất một ngôi Đình như sau:

“Đình là đền thờ Thành hoàng làng. Đình được xây cất ở một nơi hơi xa cách với nhà ở. Nó thường gồm một bộ những gian nhà khá rộng có thể chứa được bàn thờ thần, đồ thờ, và chỗ để cho nhân dân đến hội họp trong những ngày lễ.

Nói chung, Đình trước hết gồm có một tòa nhà hình chữ Đinh T ngược, mà đường chính giữa dựng ngược là cung điện còn đường ngang là nhà tế. Gian ấy gọi là hậu cung hay đình trong. Trước mặt có một gian nhà khác. Gần dài như gian hậu cung độ 3, 5 hay 7 hàng cột tuỳ theo từng làng giàu hay nghèo. Chính gian này gọi là Tiền tế hay Đình ngoài mà các kỳ mục mặc áo thụng xanh làm lễ thần vào ngày lễ chính thức. Giữa hậu cung và Tiền tế có một cái sân ngăn cách.

Kế nhà Tiền tế, ở đàng trước có hai hàng nhà dọc xây ở bên trái và bên phải đối diện nhau, đấy là 2 bên hành lang. Chúng dài chừng 3 đến 7 hàng cột, có khi nhiều hơn. Chính ở tại hai bên hành lang ấy người ta sửa soạn việc tế lễ, nào là đồ sính tế trâu, bò, lợn, gà và xôi cúng, cùng là dọn cỗ bàn ăn ở Đình.

Sân Đình có thể có cửa ba cánh đồ sộ đóng lại giữa khoảng đầu hồi hai hành lang. Thường thì sân Đình bỏ ngỏ cửa ra vào chỉ có bốn cột xây, có khi nối với nhau bằng những bức tường.

Trong hậu cung có bàn thờ thần, hoặc là tượng hay thói thường là một cái Ngai hay Ỷ, phủ lụa đỏ hay vàng, ở trên đặt một chiếc mũ quan và đôi ủng. Linh hồn hay vía thần được biểu hiệu bằng sắc phong của nhà vua, mà người ta dựng trong hôm sắc sơn son thiếp vàng. Hậu cung luôn luôn đóng kín ngày thường ngăn cách với gian Tiến tế bằng những cánh cửa đặc hay lủng, chỉ được mở vào ngày lễ. Vì thế mới gọi hậu cung là cung cấm, chỉ có người kỳ mục làm chức cai đám hay tế đám với ngừơi thủ từ có quyền ra vào mà thôi.
Ở khoảng hàng cột chính giữa gian tiền tế và ngay trước mặt hậu cung có dựng cái hương án bằng gỗ trạm và sơn, ở trên mặt có bầy đồ thờ: những đỉnh trầm, cây nến, đèn treo, ống bình nhang, bình cắm hoa, cờ quạt, lộ bộ và bát bửu. (Bát bửu: đàn sáo, lẵng hoa, thư kiếm, bầu rượu, túi thơ, thơ, bút, khánh, quạt).

Ở các gian giữa các hàng cột khác, đất được kê cao lên thành một cái bục sàn bằng gỗ hay nền xây. Trên nền ấy có trải chiếu, các vị bô lão đứng với kỳ mục vào những ngày lễ và hội đồng.

Ở gian Tiền tế cũng thế: gian hàng cột giữa dành cho việc thờ cúng nghi lễ. Trên các bục là các ngừơi không thuộc hạng bô lão và kỳ mục đứng dự lễ.

Trong các Đình thờ nam thần thường thấy có một con ngựa gỗ sơn đỏ hay trắng kích thước bằng ngựa thật, đặt trên cái thùng gỗ có bánh xe. Nó được đặt ở một trong các gian trên, hay ở một gian riêng biệt của nó. Khi nào Đình thờ nữ thần thì con ngựa kia được thay thế bằng cái võng gai điều mắc vào đòn trạm trồng ở hai đầu. Cái đòn ấy đặt trên cái giá ba gian chéo, lợp mái tre đan theo hình mai rùa.

Ngày lễ lớn, ngựa được đóng yên cương rực rỡ, cáng được kết lụa và phủ màn the màu.

Ở trong ấy ngụ có linh hồn thần linh. Người ta rước ra khỏi Đình trong cuộc rước long trọng đi theo xe thần, ngựa được giắt đi bằng dây lụa, võng cáng được các cô con gái đồng trinh khiêng.

Xe của thần tức là kiệu cũng thuộc vào bộ đồ lễ là một cái ngai hay long đình làm bằng gỗ trạm và sơn son thiếp vàng. Có từ 8, 12 đến 16 người đàn ông khiêng trên cái khung chữ nhật bằng gỗ trạm rồng, sơn son thiếp vàng do các đòn hợp thành. Đấy là yếu tố chính trong cuộc rước.

(Nguyễn Văn Khoan, Essai sur le Đình, BEFEO, t.30 p.107-139)










ĐÌNH VỚI TÍN NGƯỠNG NÔNG DÂN VIỆT NAM.

“Thần Đạo”

Đình là trung tâm tín ngữơng của làng, điều ấy đã hiển nhiên. Nhưng tín ngưỡng ấy là tín ngưỡng gì, như thế nào, từ đâu xuất hiện, đấy là những vấn đề quan hệ mật thiết đến văn hóa của một nhóm người sống thành đoàn thể.

Nguyễn Văn Huyên, sau khi đã nghiên cứu công phu về các hội hè ở Đình làng như (Les fêtes de Phù Đổng – Hanoi 1948, Chants et danses d’Ailao aux fêtes de Phù Đổng (Bắc Ninh) trong BEFEO, t.39; Contribution à l’étude d’un génie tutilaire annamite Li Phuc Man trong BEFEO t.38) có kết luận về cái loại tôn giáo Đình làng đối với nông dân Việt như sau:

“Tất cả làng tham gia vào đấy (các hội tế lễ ở Đình Làng) trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ. Tín ngưỡng ấy được truyền tụng chắc hẳn không có chi thay đổi trải hàng mấy thế kỷ. Tất cả năng lực hoạt động của đoàn thể công xã đều tập trung vào đấy và tan biến vào đấy. Những năng lực ấy đã đem cho sự sùng bái kia một khuôn khổ tổ chức vững chắc hơn cả khuôn tổ chức của một tôn giáo thông thường”. (Nguyễn Văn Huyên, La civilisation annamite, Hanoi 1944)

Sau khi thiết lập phả đồ lịch sử các Đình thờ Thành hoàng làng kể từ thời tiền sử Việt Nam, ông Nguyễn Văn Huyên đã rút ra một kết luận về duy cách xa xăm của tôn giáo xã thôn. Ông viết: “Người ta có thể giả thuyết rằng những miền thờ các vị thần ấy đều là những đất chiếm cứ đầu tiên bởi ngừơi Việt đi từ phương Bắc xuống hay từ bờ biển lên để tìm đất phù sa màu mỡ. Cái giả thuyết ấy được chứng nhận bằng những di tích lịch sử cổ xưa người ta có thể khám phá ở các địa hạt như Phú Thọ, Vĩnh Yên trước hết. Ninh Bình, Bắc Ninh về sau với đền thờ các vua chúa quốc tộc đầu tiên như Hùng Vương (Phú Thọ), lăng Thái Phú Sĩ Vương (Bắc Ninh), nhà mồ Nghi Vệ (Bắc Ninh), chùa Khám hay Ngọc khám (Bắc Ninh), Bút Tháp (Bắc Ninh), Khương Tự (Bắc Ninh), thành Cổ Loa (Vĩnh Yên), động Hoa Lư (Ninh Bình), đấy là sào huyệt đầu tiên của người Việt.”

(Nguyễn Văn Huyên, Etude d’un génie tutilais Annamite p.15-16 BEFEO 1939)

Như thế đủ tỏ cái tục sùng bái Thành hoàng hay là Thần đạo vốn là một tín ngưỡng cố hữu của dân tộc vậy.

Nay hãy theo ông Nguyễn Văn Khoan trong khảo luận “Essai sur le Đình et le culte du génie tutilaire des villages au Tonkin. BEFEO t.30 p.107-139” để định vị trí cho những tục sùng bái ở Đình trong toàn bộ hệ thống tín ngưỡng của người Việt, hết sức phức tạp.

Người Việt sùng bái Trời Đất, Thần linh trong ấy, Phật, vong hồn, anh hùng và danh nhân. Ông khoan phân ra làm ba nhóm các loại sùng bái:

Nhóm thứ nhất gồm:

- Sùng bái chính thức: thờ Trời Đất, Thần Nông, Khổng Tử

- Sùng bái nông thôn: thờ Thành hoàng làng, thổ thần, Phật.

- Sùng bái gia đình: thờ Tổ tiên, ông Táo quân.

Những sự thờ cúng ấy là phổ thông thường xuyên, có những ngày lễ nhất định. Chủ lễ do nhà nước hay đoàn thể chỉ định: Quan lại và kỳ mục trong làng tế Trời Đất, Thần nông, Thành hoàng. Sư vãi lễ Phật, trưởng tộc hay gia trưởng lễ tổ tiên. Đền được xây cất và giữ gìn với tiền của chính phủ khi nào thuộc về sùng bái quốc gia như Văn miếu, xã tắc, tịch điền. Nếu là sùng bái nông thôn thì quỹ làng phải đài thọ.

Các ngày lễ đã chỉ định ở trong “Khâm định đại nam hội diễn sử lệ” đối với sùng bái chính thức, và đối với sùng bái nông thôn đã có lệ làng quyết định. Sùng bái tổ tiên thì do sách “Gia lệ” của Chu Hy quy định, trong đã có một chương dành cho sùng bái táo quân.

Thí dụ ngày lễ Khổng Tử mỗi năm 2 lần, ngày đinh đầu xuân và thu, còn ngày lễ thần làng là ngày huý kỵ trong tiểu sử của Thần, đản nhật hay tử nhật, hay một ngày nào khác tuỳ theo lệ làng.

Lễ nghi rất tỉ mỉ, và nếu ai làm sai tục lệ thì sẽ bị thánh phạt hay làng phạt.

Nhóm thứ hai gồm:

Những sùng bái bình dân: sùng bái vong hồn, thần linh chư vị nghĩa là tất cả thần linh nhiều vô kể theo hầu Liễu Hạnh thánh Mẫu hay các tướng tá của Trần Hưng Đạo thánh Phụ, tóm lại tất cả thần linh có ảnh hưởng vào đời sống của người.

Có ba loại sùng bái bình dân chính được quần chúng tin mộ là sùng bái chư vị, tướng tá của Thánh Trần và thần các quan của pháp sư.

Có nhiều loại kiến trúc dùng vào việc thờ cúng trên đây ở Bắc Việt. Người ta gặp thấy khắp nơi, trong làng, giữa đồng ruộng, bên đường, với diện tích quy mô lớn nhỏ khác nhau kể từ dinh thự rộng lớn có vườn tược cổ kính cho đến những ổ con con trên cành cây hay những nền gạch bệ xây góc đường. Mỗi thứ kiến trúc ấy mang một tên khác nhau tuỳ theo với vị thần được thờ cúng như:

Đình làng là nhà làng ở trong có bàn thờ một hay nhiều vị Thành hoàng hay thần bảo trợ làng. Đền là một cung điện của cả nước hay của một địa phương, một xứ, quy mô lớn rộng dựng lên để kỷ niệm một ông vua, vị thần hay một danh nhân lịch sử có công ơn với dân với nước. Đền thờ phụ nữ thì gọi là Phủ, như Phủ Giày thờ Liễu Hạnh ở Nam Định chẳng hạn.

Chùa là một cung điện thờ Phật có nhiều tòa nhà gạch với tường, tháp, nhà thất cho sư tiểu. Chùa nhỏ ở nơi hẻo lánh chân núi hay cửa rừng thường gọi là Am.

Ngừơi ta hay xây Am ở bên cạnh nghĩa địa để thờ vong hồn, gọi là chùa Âm hồn hay Am chúng sinh.

Miếu là một cái cung nhỏ, có khi chỉ có mấy cái bệ trên một nền gạch ở giữa đồng, dứơi gốc cây để thờ thần canh nông thổ thần hay nhân vật bất đắc kỳ tử.

Điện là một cái đền nhỏ thờ quan binh hầu đức Thánh Trần Hưng Đạo, hay thờ các quan âm binh của pháp sư.

Tĩnh để thờ chưa vị thì thường cũng như cái điện nhỏ của tư nhân.

Cây hương hay cây Nhang là một cái nóc con hay bệ xây dứơi mái nhà, hoặc ở trước sân nhà, hay trong vườn để thờ thần sao của chủ nhà. Văn miếu là một ngôi đền thờ Khổng Tử với chư hiền đệ tử của Ngài, xây dựng ở các tỉnh lỵ. Đấy là đền Văn học. Ở phủ huyện thì gọi là Văn chỉ. Ở tổng, xã thì gọi là Từ chỉ.

Ngoài ra ở thời vua chúa, còn có nền Nam giáo, nền xã tắc, nền Tịch điền. Vọng hay Hành cung nữa, để cho vua quan làm lễ Thiên Địa, Ruộng đất hay bái vọng vào triều đình.

HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM

Phương ngôn nói “đình đám người mẹ con ta” đủ tỏ sự chú ý của nhân dân trong làng vào việc đình đám hội hè của mỗi làng cùng nhau chia sẻ nỗi vui buồn sướng khổ của đoàn thể làng chung quanh cái Đình.

Các hội hè tế lễ ở Đình tỏ lòng tín ngưỡng đối với Thành hoàng của làng được định lệ như sau:

Vào ngày 1 (sóc) và 15 (vọng) mỗi tháng. Ngoài ra còn có xuân tế vào ngày đinh đầu tháng 2, và thu tế vào ngày đình đầu tháng 8. Lễ hạ điền khi cấy lúa, thượng điền khi cấy xong, lễ thượng tân dâng lúa mới vào tháng 9, lễ thượng nguyên vào 15 tháng giêng hàng năm, cũng gọi là lễ kỳ yên, lễ trung nguyên vào 15 tháng 7 là lễ xá tội vong linh của nhà chùa mà dân làng đã phụ họa vào cả cho Đình, lễ động thổ hay khai ấn vào 7 tháng giêng bắt đầu các công việc làm ăn. Vào dịp tết 3 tháng 3 hay hàn thực (ăn nguội), tết 5 tháng 5, tết 15 tháng 8 hay trung thu, lễ lạp tiết vào 2 tháng 12 là lễ hết năm…

Vào những ngày lễ ấy đều có cúng thần ở Đình. Ngoài ra còn những lễ bất thường như sinh tử giá thú khao vọng của cá nhân trong làng.

Trên Đình có thứ tự giữ việc đèn nhang quanh năm, cũng gọi là cai đám. Ngày lễ trọng đại nhất trong năm là vào đám hay vào hội, thường vào mùa xuân hay mùa thu, nhân dịp kỷ niệm vị Thành hoàng.

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc
Tháng ba hội hè

Hội hè là nói về hội hè đình đám của dân làng. Trong năm vào hội ấy, 5 hay 10 ngày trước khi mở hội, người ta phải trai giới, tẩy uế.

Suốt trong ngày hội, hàng ngày có tế lễ trên Đình như tế Thần và rước sách linh đình, cỗ bàn cờ quạt, hát xướng cả trò giải trí công cộng được phô diễn trình bày, nào hát bội, hát chèo, đánh vợt, chọi gà, đánh cờ, thi đua đủ thứ…

Làng ta mở hội vui mừng
Chuông kêu, trống đóng vang lừng đôi bên
Lòng ngai thánh ngự ở trên
Tả văn, hữu vũ bốn bên rồng chầu
Sinh ra nam tử công hầu
Sinh ra con gái vào chầu thánh quân.

(Ca dao)

TẾ LỄ, HÌNH THỨC THỜ PHỤNG

Nghi lễ thờ phụng trong thần đạo ở đình làng có hai loại: lễ thường và đại lễ hay tế, khác nhau về số lạy và tuần rượu.

Trong lễ thường thì đồ cúng đặt trên bàn thờ, người thủ từ hay cai đám đốt nhang, lạy bốn lạy để nghênh thần, rồi quỳ xuống, chắp tay vòng cánh tay đưa lên ngang trán theo kiểu khấn. Trong khi ấy, một ngừơi phụ tá rót rượu lần thứ nhất vào 3 cái ly trên bàn thờ, người phụ tá thứ hai đọc lời khấn, khấn xong lại rót rượu lần thứ hai. Chủ sự đứng lên, lễ hai lễ, người ta lại rót rượu lần thứ ba. Chủ sự lễ bốn lễ gọi là lễ tạ, người ta hóa tờ văn khấn, và lễ tất. Hai người phụ tế đến lễ bốn trước bàn thờ. Trong khi lễn, âm nhạc chỉ thu lại có hồi chiêng hồi trống thôi.

Đại lễ hay tế đình đòi sự công tác của nhiều kỳ mục:1 chủ tế, 1 bồi tế, 1 đông xướng, 1 tây xướng, nhiều chấp sự từ 2 người trở lên. Tất cả đều phải mặc áo thụng xanh, đội mũ tế, đi hài, quan thì đội mũ cánh chuồn, đi hia, mặc áo trào, tay cầm hốt, có 3 hàng chiếu trải trước bàn thờ, cái nọ sau cái kia.

Chiếu thứ nhất liền với bàn thờ, người ta dâng rượu và khấn; chiếu thứ hai để ẩm phúc; chiếu thứ ba là chính chỗ đứng của chủ tế mỗi khi hành lễ ở hai chiếu trên xong. Bồi tế luôn luôn theo sau chủ tế, và chấp sự thì đứng thành hai hàng bên phải và bên trái. Xướng tế cũng đứng hai bên chủ tế ở đàng trước mặt. Tất cả cử động của chủ tế, bồi tế, chấp sự trong khi tế đều do đông xướng hô to lên và tây xướng nhắc lại.

Trước hết đông xướng hô:

1) Khởi chinh cổ tức là nổi chiêng trống lên! Tức thì có 3 hồi chiêng trống bắt đầu chậm rãi để rồi đổ hồi.

2) Cử nhạc: phường bát âm cử hành.
Sau đấy bắt đầu vào các trình tự hành lễ, vẫn theo lời xướng như sau:

a. Cử sát tế vật: xem lại đồ tế, hai người chấp sự cầm nến theo chân chủ tế giúp làm việc ấy.

b. Ế mao huyết: chôn lông và máu sinh tế.

c. Chấp sự giả các tư kỳ sự: các chấp sự viên sửa soạn, ai nấy đứng vào chỗ.

d. Tế quan dữ chấp sự quan các nghệ quán tẩy sở chấp sự viên và chủ tế đến chỗ rửa tay.

đ. Quán tẩy: rửa tay. Họ rửa tay vào cái chậu nước bưng đến.

e. Thuế câu: lau tay vào cái khăn tay đỏ.

g. Bồi tế quan tựu vị: các bồi tế trở về chỗ chiếu hàng thứ ba, xếp hàng trông vào bàn thờ.

h. Tế quan tựu vĩ: chủ tế về chỗ đứng ở giữa chiếu thứ ba trứơc hàng bồi tế.

i. Thượng hưởng: Dâng nhang, một chấp sự viên đem nhang trầm, một người đem đỉnh trầm cho chủ tế đốt lên, giơ lên trước mặt rồi trao cho chấp sự viên đem đặt trên bàn thờ.

k. Nghênh thần cúc cung bái: lạy để tiếp nhận thần, chủ tế và bồi tế lễ bốn lễ, theo lời xướng.

l. Hương: đứng lên
m. Bình thân: thẳng người chỉnh tề.

n. Hành sơ hiến lễ: dâng lễ rượu lần thứ nhất.

p. Nghệ tửu tôn sở: bò đến chỗ để rượu, chủ tế đến bàn rượu.

q. Tư tôn giá cử mịch: người hầu rượu này cất khăn phủ bàn rượu đi.

r. Trước tửu: chủ tế rót rượu vào chén.

s. Nghệ đại vương thần vị tiền: chủ tế đến chiếu thứ nhất, hai chấp sự viên cầm bầu rượu và đài chén cùng đến đấy để dâng rượu tế thần.

t. Quị: chủ tế quỳ xuống giữa chiếu thứ nhất, chấp sự quỳ hai bên chầu vào chủ tế.

u. Tiến tước: chấp sự bưng chén đến cho chủ tế, chủ tế cầm lấy dâng lên ngang mây, rồi trả lại cho chấp sự.

v. Hiến tước: chấp sự bưng bầu rượu và khay chén rượu lên bàn thờ, người thủ từ đỡ lấy đặt vào bàn thờ.

x. Phủ phục: chủ tế lễ rạp xuống.

y. Hương: chủ tế đứng lên.

1. Bình thân: chủ tế đứng thẳng tề chỉnh.

2. Phục vị: chủ tế trở lại chỗ cũ chiếu thứ ba

3. Độc chúc: đọc văn tế, do một ngừơi bưng bài văn tế để trên cái giá đến trước mặt chủ tế.

4. Nghệ độc chúc vị: chủ tế trở lại chiếu thứ nhất. Người lý tưởng hay tư văn chuyên đọc văn tế đến bên trái chủ tế.

5. Đại quỵ: tất cả chủ tế, bồi tế, độc giả đều quỳ.

6. Chuyển chúc: người bưng giá văn đặt xuống bên trái chủ tế và bắt đầu đọc văn tế.

7. Phủ phục: chủ tế và bồi tế cùng lạy hai lễ theo lời xướng ngôn.

8. Hương: đứng lên.

9. Bình thân: đứng ngay ngắn.

10. Phục vị: chủ tế trở về chỗ cũ chiếu thứ ba, thế là xong tuần rượu thứ nhất.

11. Hành á hiến lễ: lại cử hành tuần rượu thứ hai bắt đầu từ “Nghệ tửu tôn sơ” đến “Phục vị”.

12. Hành chung hiến lễ: lại cử hành tuần thứ ba cũng như trên.

Sau ba tuần tiến rượu, đến phút trịnh trọng nhất của buổi lễ là đại biểu của làng (cai đám) tiếp nhận trực tiếp ân đức của thần bằng cách ăn một miếng đồ cúng trên bàn thờ, ấy là lúc tham thông giữ y với Thành hoàng làng.

13. Ẩm phúc: uống phúc, một chén rượu và ăn miếng trầu cúng trên bàn thờ.

14. Nghê ẩm phúc vị: chủ tế đến giữa chiếu thứ hai để uống phúc thần ban.

15. Quỵ: chủ tề quỳ xuống

16. Ẩm phúc: chủ tế uống chén rượu cúng.

17. Thụ tộ: nhận miếng thịt phần. Thịt phần có khi thay bằng miếng trầu.

18. Phủ phục: lễ hai lễ để tạ thần.

19. Hương: đứng lên.

20. Bình thân: đứng thẳng.

21. Phục vị: trở lại chỗ cũ, hàng chiếu thứ ba.

22. Lễ từ cúc cung bái: chủ tế và bồi tế lễ bốn lễ để tạ thần, theo lời xướng.

23. Hương: đứng lên.

1. Bình thân: đứng ngay ngắn.

2. Phần chúc: đốt tờ văn tế.

3. Lễ tất: tế xong.

Dân làng lần lượt vào lễ bốn lễ.

Trong suốt buổi tế, âm nhạc nổi lên, gồm có chiêng trống, kèn, trống con, và phường bát âm: sênh tiêu, đàn nguyệt, đàn tằm, đàn nhị, sáo trống bốc một mặt, tiu và cảnh).

Trên đây là hình thức tín ngưỡng Thần đạo trong ấy chúng ta đã nhận thấy cái điểm chính này là tinh thần tham thông giữa Thành hoàng với đại biểu của đoàn thể, tham thông trực tiếp cụ thể bằng sự ẩm phúc cụ thể trong buổi tế, còn về sau thì các phần tử làng chia nhau phần cúng thần. Cho nên mới có phương ngôn:

Một miếng ở làng bằng một sàng xó bếp.

Vì “một” miếng ở làng là phần lộc thánh, không phải miếng ăn vật chất mà là cái phần thánh linh có tính chất tâm linh siêu nhiên nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Do đấy mà thần Thành hoàng được lấy làm tiêu chuẩn tối cao của đoàn thể để quyết định giá trị, ngôi thứ trong làng vậy.

Ngôi quý trọng nhất dĩ nhiên, căn cứ theo hàng tế tự gần hay xa thần Thành hoàng, ấy là ngôi chủ tế hay Tế đám. Ông đứng đầu hàng 12 quan viên, có quyền quyết định ưu tiên về tất cả việc làng trừ việc vi cảnh, công dịch, và giao dịch với chính quyền trung ương.

Ông được hỏi về chi thu của làng và là đại biểu của làng với thần Thành hoàng.

Dân đinh trong một làng có đẳng cấp:

Trước hết là các cụ hay bô lão trong làng, gồm những vị đến tuổi nào được miễn dịch, dự vào tế tự và chiếu hương ẩm không phải lý gì đến việc làng vì đã làm xong phận sự.

Sau các cụ thì đến 12 quan viên đảm đương tất cả công việc tế tự Thành hoàng làng. Người đứng đầu trong 12 quan viên ấy tự nhiên được cử ra làm Tế đám hay Chủ tế, giữ sổ chi thu và cùng với tất cả quyền lợi của quan viên giống như quyền lợi của các cụ bô lão.

Quan viên hợp thành chiếu thứ nhất trong Đình cùng với các cụ. Chiếu thứ hai là chiếu của sáu Lềnh mà nhiệm vụ là mua sắm đồ tế lễ.

Chiếu thứ 3 và thứ 4, mỗi chiếu 6 ngừơi mà nhiệm vụ là trông nom bày biện đồ tế tự trong ngày vào đám và tế lễ.

Chiếu thứ 5 gồm 6 người nhiệm vụ hầu cỗ bàn.

Sự phân ngôi thứ trong Đình làng như thế là căn cứ vào tuổi tác trong hương ẩm bạ.

Ngoài các ngôi thứ trên còn có cấp tư văn là một hội bán công trong làng, gồm các vị có chức tước khoa bảng với triều đình. Họ có dự vào tế lễ của Đình làng nhân dịp xuân tế hay thu tế. Tư văn lập thành cái hội hầu như biệt lập ở trong làng đối với các ngôi thứ trong Đình làng căn cứ vào tế lễ trên kia.

Nay hãy xét về nội dung tôn giáo Thần Đạo cổ truyền của dân tộc nông nghiệp Á Đông.

“Thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc chi” (Dịch), “Trời sinh ra vật thần, bậc thánh lấy làm phép tắc”. Vậy thần hay thần linh trong trí óc dân Việt có ý nghĩa thế nào?

Chẳng thiêng ai gọi là Thần (phương ngôn). 

Thần là ngụ ý một quyền năng siêu phàm, thiêng liêng hay linh thiêng, cho nên thường hay nói Thần linh, danh từ Hoa Việt. Sở dĩ là Thần vì có cái đức Linh vậy. Chữ Linh đứng một mình hay là đi đôi với một chữ nữa như Anh, hoặc Linh ta thường gặp thấy ở các miếu, đền thờ Thiên Nhân trong đám dân Việt Nam. “Nó chõ vào cái đà thúc đẩy của nhựa cây mùa xuân, cái mana (khí năng lực nảy nở của thảo mộc cỏ cây, cái sức màu mỡ của đất cũng như cái sức nảy nở của cây cỏ”

(Elles (Anh Linh) désignent la pensée de la sève au printemps le mana, la force génératrice de la végétation, la fertilité autant que la fécondité – Rolfstein BEFEO 1942, t.XLII).

Vậy thần linh có nghĩa là những năng lực thiên nhiên, đặc biệt nhất là cái sinh lực được nhân cách hóa của nhân dân nông nghiệp để thờ phụng. Đạo Thần như thế đặt trọng tâm vào ý nghĩa Linh là Nguồn sống, sinh thành khắp vũ trụ theo như tin tưởng cổ truyền của xã hội nông nghiệp Á Đông.

Thiên địa chi đại đức viết sinh”. 

Cái đức vô hạn của Trời Đất là sinh thành (Dịch). Đấy cũng là trọng tâm của giáo lý Áo Nghĩa Thư (Upanisads) Life is immense: Prano virat:

“Nguồn sống thì vô biên”. Bởi vì nguồn sống vĩnh cửu, miên trường tồn tục là lý tưởng tối cao của nhân dân Á châu xưa nay, sớm trực giác thấy rằng:

“Everything has sprung from immortal life and is vibrating with life” (Sadhana, Tagore). “Tất cả đã từ trong nguồn sống vĩnh cửu phát xuất và đều rung động với nguồn sống”.

Cho nên thi hào R.Tagore mới tiếp tục dẫn chứng Áo Nghĩa Thư (Upanisads) để giải thích tín ngưỡng truyền thống Á châu.

“Chúng ta được dạy để nhìn nhận bất cứ sự vật gì trong thế giới như là được Thượng Đế bao bọc che chở.

Ta quỳ vái và quỳ vái Thượng Đế ngự tại ngọn lửa và dòng nước, thấm nhuần toàn thế giới, ngự tại mùa màng hàng năm cũng như tại những cây cổ thụ”

(We are enjoined to see whatever there is in the world is being enveloped by God.

I bow to God over and over again who is in fire and water, who permeates the whole world, who is in the crops as well as in the perennial trees) (Sadhana, R.Tagore).

Cái tín ngưỡng truyền thống ấy, chính linh mục L.Cadière cùng các nhà nhân chủng học trường Viễn Đông Bác Cổ đã nhận thấy ở bình dân Việt Nam vậy.

Linh mục L.Cadière viết trong Tín ngưỡng và tập tục tôn giáo của dân Việt (Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, t.III tr.68-70, BEFEO)

“Danh từ tôn giáo ngụ có nhiều trình độ, nhiều sắc thái.

Nếu người ta hiểu tôn giáo là tín ngưỡng vào một Đấng Tuyệt đối, lớn vô cùng, hoàn toàn vô cùng; vào sự phối hợp bằng tinh thần với Đấng vô sở bất tại, ở đâu cũng có; vào sự phối hợp bằng lòng bồng bột với Đấng chí thiện ngự trị và bảo vệ tất cả; sau hết là vào sự biết ơn về những đức toàn vẹn vô hạn của Ngài bằng một nghi thức phụng thờ xứng đáng, hiểu tôn giáo như thế thì người Việt không có tín ngưỡng. Quan niệm về một Đấng tuyệt đối không được họ để ý. Họ sống không có Thượng Đế. Nhưng nếu người ta hiểu tôn giáo là tín ngưỡng, tín ngưỡng thực tế ảnh hưởng hành vi nhân sinh, vào một thế giới siêu nhiên, thì phải nhận rằng dân Việt có cái đức tính ấy ở trình độ rất cao.

“Người dân Việt, có thể nói rằng sống trong không khí siêu nhiên. Họ thấy khắp nơi ảnh hưởng của những quyền năng thần bí hành động vào cuộc đời họ cách xấu hay tốt. Bất cứ một người Việt nào thuộc về bất cứ giai cấp nào trong xã hội đều không thoát khỏi sự ám ảnh của siêu nhiên. Người gánh hàng rong chạy trên đường; người thợ cầy dưới ruộng, ông quan ngồi bàn giấy, bà mẹ trong gia đình, người tiều phu trên sườn núi, người ngư phủ chăng lưới, hết thảy đều bận tâm về ảnh hưởng của Thần linh vào hành động đang làm của họ, tất cả đối với họ đều là điềm báo rằng bên cạnh họ, trên đầu họ còn có những hành động khác đi đôi với họ, thế lực hơn họ và chính nhờ vào những thế lực vô hình hợp tác ấy mà những cố gắng của họ thành công hay thất bại.

Con nhện sa, tiếng chuột rúc, con quạ bay, con gà gáy, người ăn xin hiện ra trước mặt, ra ngõ gặp người, con chim kêu, chiếc đũa rơi xuống đất khi ngồi vào ăn, ngọn lửa trong bếp than hay hát, hàng ngàn sự việc vô ý nghĩa biểu lộ cho mắt họ tính cách điềm lành hay dữ.

Tất cả sự việc lành hay dữ, nhất dữ đều quy vào cho Thần linh.

“Người ta sẽ chê trách rằng đấy là sự sợ hãi đã gây ra những tín ngưỡng ấy. Mặc dù nguyên nhân hoặc là một tính tình này hay tính tình khác, sự thật thì người Việt vẫn tin hành động và cử chỉ trong bầu không khí siêu nhiên. Siêu nhiên ám ảnh họ, họ không thoát khỏi ban ngày, ban đêm giấc mộng cũng không thể giải thoát cho họ vì mộng cũng là những biểu hiện của Thần linh.

“ Thần linh vô sở tại; một tảng đá rơi, cây cổ thụ đổ, rừng âm u, vực sâu trong con sông, ngọn núi cao, một việc nước giản dị giữa cánh đồng, mỗi một miếng đất, thửa ruộng một xó tối đều là cư sở của Thần linh. Thần linh ở khắp nơi nhập vào khắp cả, tất cả đều thuộc về Thần linh.

“Cái tín ngưỡng vào thế giới Thần linh ấy, bao bọc lấy đời sống của người Việt, thúc giục họ phải cúng lễ. Trước khi hành động phải cầu xin sức phù hộ của Thần, gạt những động cơ có thể làm cho Ngài bất bình; nếu trong khi đang hành động Thần linh tỏ ý bất bình, thì mau sớm phải lễ tạ.

“Sùng bái tổ tiên cao quý hơn, nhưng tại căn bản, cả hai tín ngưỡng mật thiết quan hệ với nhau. Tổ tiên mất đi rồi, không còn nhìn thấy người nữa, nhưng các ngài không từng rời khỏi gia đình. Các ngài lưu ý đến con cháu các ngài, ảnh hưởng vào hạnh phúc hay bất hạnh của chúng tuỳ theo trương hợp chúng có làm tròn hay không làm tròn những bổn phận của đạo hiếu. Hơn nữa các ngài ngự ở tại trong gia đình và hiên tại trên bài vị Tổ tiên. Vị nào không sờ đấy, đã được rước sang nhà thơ họ, đều được mời về ngày giỗ ngày tết để cùng san sẻ vui buồn với toàn thể gia đình. Người ta luôn luôn nghĩ đến mời các ngài tham dự các việc lớn trong đời sống chung cưới hỏi, sinh nở của một phần tử gia đình.

Tư tưởng tổ tiên chi phối toàn thể đời sống gia đình cũng như tư tưởng thần linh chi phối đời sống hằng ngày của người dân Việt. Chủ gia đình là một giáo chủ tôn giáo ấy và y truyền lại giáo chức ấy cho người con trưởng trong gia đình. Gia đình nào mà dòng giáo chức ấy tắt là một điều bất thường vậy.

Đời sống xã hội, đối với người dân Việt chỉ là đời sống gia đình mở rông thì cũng thấm nhuần tín ngưỡng. Thành hoàng hay Thần bảo hộ mỗi cộng đồng, có sắc phong của triều đình hay không, là những quyền nămg làm ra mưa và được mùa; dẹp hỏa tai hạn hán, dịch tễ.

Bởi thế cho nên nhân danh các ngài mà nắm mạ đầu tiên cấy xuốn cũng như giạ lúa đầu tiên gặt lên đầu tiên gặt lên đều được đoàn thể biết ơn dâng lên cho Thành hoàng. Và vào những ngày nhất định hàng năm, dân làng tế lễ linh đình. Các kỳ mục hay chức sắc trong làng đều là cha mẹ trong làng, được chọn ra làm chủ tế cho các cuộc tế lễ ở Đình, trên đấy có những giáo sĩ khác chủ tế cho cuộc tế phổ quát hơn, như các quan làm chủ tế cho hàng tỉnh, vua làm chủ tế cho toàn quốc.

Xem thế biết rằng không có gì trong đời sống của nhân dân Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo. Tôn giáo đón nhận con người Việt từ lúc mới sinh ra, dắt dẫn y cho đến khi xuống nhà mồ, và sau khi chết đi còn giữ y trong vòng ảnh hưởng. 

Khi người ta nhận thấy gốc rễ thâm sâu của những thể siêu nhiên ở trong tâm hồn Việt Nam, người ta không thể đừng không nhận cho rằng dân tộc này tín ngưỡng rất thâm trầm.

“Và nếu người ta ngược lại về mấy thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa, thì những tín ngưỡng vẫn như thế, những tập tục vẫn giống nhau, ít nhất về những điểm cốt yếu. Khổng Tử viết:

“Quỷ thân chi vị đức, kỳ thịnh kỹ hồ! Thị chi nhị phất kiến thính chi nhi phất văn, thể vật nhi bất khả di, sử thiên hạ chi nhân, trai minh thịnh phục dĩ thừa tế tự.

Dương dương hồ như tại kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu. Thi viết: Thần chi cách ti bất khả độ ti, thần khả dịch ti. Phù vi chi hiển thành chi bất khả yểm như thử phù” (Trung Dung).

“Cái đức linh của Quỷ Thần thịnh vượng lắm thay! Nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không thông, thể hết mọi vật mà không sót, khiến trong thiên hạ phải trai giới tinh khiết, ăn mặc nghiêm trang để tế lễ, rực rỡ như ở trên đầu, như ở bên trái bên phải khắp nơi. Kinh Thi viết: Việc quỷ thần đến không thể lường, huống hồ lại có thể lờn được sao?” Ôi tế văn hiển hiện, thành thật không che dấu như thế đấy!”

Vậy Thần đạo là cái tín ngưỡng đức linh, nguồn sống cửu tràn ngập vũ trụ, tức là thế giới siêu nhiên thấm nhuần bao phủ đời sống của nhân loại Á châu. Cái tín ngưỡng ấy thuộc về tín ngưỡng tâm linh đòi có sự sống toàn diện hơn là hiểu biết, bằng lý trí, phát triển trực giác sáng tạo hơn là ý niệm minh bạc có hệ thống. Radhakrishnan viết trong “East and West in Religion”:

“Ở Đông phương tôn giáo là đời sống của tâm linh hơn cả. Nó là tri giác về sự đồng nhất của người ta với tinh thần, chân lý, tình yêu và mỹ cảm trong vũ trụ.

Quan điểm ấy không quan trọng hóa vai trò của những mệnh đề tri thức. Nó thừa nhận chúng như là những cố gắng rụt rè để đơn giản hóa thực tại. Nó tin tưởng Thần linh thì bất tận và khả năng biểu hiện của Ngài thì vô hạn số. Có một cái gì siêu ngôn ngữ mà không một danh từ nào đạt tới được tuy rằng nó linh động tất cả danh từ và đem cho chúng thể chất và ý nghĩa. Hàng thế kỷ trước Do Thái và thánh ca David chúng ta nghe thấy lời cầu khấn của một thi sĩ Ai Cập vô danh lên Thượng Đế không phải là bạn hay cứu thế, không phải phỏng theo hình ảnh nhân loại hay tượng trưng vào khám thờ bằng đá. Không nhìn thấy được Ngài; Ngài không có thủ từ hay đồ lễ. Người ta không thờ Ngài trong đền; Ngài không biết có định sở nào hết. Không có ngai thờ Ngài được tô vẽ hình ảnh. Không một dinh thự kiến trúc nào có thể giữ được Ngài. Vô danh là tên Ngài trên trời, và hình Ngài không biểu hiện, bởi vì tất cả hình ảnh Ngài đều sai lầm, nhà của Ngài là vũ trụ, chứ không phải một dinh sở nào của con người làm ra.

“Hình thức tín ngưỡng xa vời sự thật cũng như với ý nghĩa. Ý nghĩa không cho phép đo lường bằng mực thước bề ngoài. Muốn thẩm định ý nghĩa của một ý niệm hay tượng trưng tôn giáo, chúng ta phải khám phá giá trị nó diễn tả và thành tựu. Tinh thần không bị bó buộc vào một hình thức nào cả, dù hình thức ấy có thích hợp mấy đi nữa. 

Các tôn giáo Đông phương đều phi tín điều (non-dogmatic) và tín đồ của chúng theo lẽ thường đều có gì có thể gọi là tư cách tâm linh. Họ không bài bác điều thiện chỉ vì không phải chí thiện. Họ kính trọng cá nhân vì nó như thế chứ không cố tìm cách tu sửa nó trái cả với ý muốn của nó nữa.

Trên trời không những có nhiều lâu đài mà cũng có nhiều đường lối để đi đến nữa. Ấn Độ giáo và Phật giáo công nhận rằng mỗi hình thức tín ngưỡng đều có hàm ngụ một trình độ chân lý nào, với hậu quả đáng ngờ rằng tất cả các loại sùng bái và mê tín ngoại lai đều có thể thấy được trong khu vực của hai tôn giáo trên kia.

“Một kết quả tự nhiên của sự khác nhau về khuynh hướng là ở Đông phương, tôn giáo là một vấn đề tu tĩnh tin thần hơn là học vấn phiền tỏa. Chúng ta học vấn chân lý không bằng phê phán và biện luận mà là bằng cách sống thâm trầm và biến đổi bình diện ý thức.

Thượng Đế không phải hình thức tối cao để hiểu biết mà là bản thể tối cao để thực hiện”.

Có lẽ chính vì “God is not the highest form to be known but the highest being to be realised” như Radhakrishnan đã phân biệt hai tinh thần tôn giáo Tây phương và Đông phương, một đằng thiên về trí thức (intellectualism) một đằng thiên về tâm linh (spiritualism), mà đối với dân Việt Nam, như lời LM. Cadière đã nói: dân Việt “sống không có Thượng Đế, sống trong siêu nhiên!”

Như thế chẳng phải tinh thần thực hiện của tôn giáo đấy ư? Thực hiện cái gì, nếu chẳng phải cái tri giác về đồng nhất thể của người với tinh thần Chân Thiện Mỹ ở vũ trụ đấy ư?.

Như thế là thiếu về “ý niệm Thượng Đế”, là thiếu về lý trí hiểu biết, nhưng “sống trong siêu nhiên” là sống cảm thông bằng tình cảm và ý chí để mở rộng triển khai tâm hồn hướng về cao cả đại đồng. Bởi vậy mà đời sống tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam là cả một lịch trình thực hiện cái đức Linh, là Nguồn sống tràn ngập vô biên qua tất cả các trình độ biểu hiện, kể từ ngọn cỏ, lá cây, hòn đá, dòng nước cho đến hang động đầu tiên, Tổ tiên thần thánh, từ Thổ thần, Thành hoàng ở địa phương cho đến Quốc giáo Thiên Địa.

Nay hãy tuần tự theo dõi lịch trình tín ngưỡng thực hiện ấy như sau:

Tục sùng bái cây

Ở Bắc Việt có tục sùng bái cây. Dưới gốc cây người ta hay đặt những bình vôi mẻ sứt là thứ đồ gia dụng của gia đình Việt Nam có tục cổ truyền ăn trầu.

Tục ăn trầu, là một truyền thống của dân tộc theo truyện cổ tích Trầu Cau hay Tân Lang phải có đá tô thành vôi, trái cau với lá trầu không, hợp thành bộ ba là “miếng trầu làm đầu câu chuyện”. Bình vôi chứa đựng vôi tôi lá thứ đồ dùng được trọng đãi cho nên khi nào bể vỡ, người ta không vứt đi mà phải tàng trữ lại ở gốc cây. Vứt đi là một điều tối kỵ.

Ở đây không phải là một tục lễ giáo mà người ta đặt bình vôi dưới gốc cây. Đây là một tín ngưỡng có tính cách ma thuật như sự hợp hóa mầu nhiệm của đá với cây. Bình vôi chưa đựng sức ma thuật, một quyền năng huyền bí mật thiết quan hệ đến mệnh vận trong nhà. Nếu vôi bám thành bờ trên miệng bình thì trong nhà làm ăn thịnh vượng. Bình vôi bể vỡ là một điềm gở báo trước việc dữ sắp xảy đến. Bởi thế nên mỗi khi có bình chẳng may bể vỡ ngừơi ta kiêng không dám vứt đi vào chỗ tạp uế mả phải đem chồng chất dưới gốc cây vì gốc cây là nơi đặc biệt hình như có duyên nghiệp với chất đá vôi, và cũng là nơi tụ sinh khí rất hợp cho sự lưu trữ những đồ dùng cũ; nhằm làm bình vôi ở gốc cây lại càng tụ được nhiều sinh khí hay thần linh (prana = mana). Vì thế mới phát xuất ra tục thờ Cây vậy. Hoặc tục thờ Cây có từ trước vì lý do huyền bí mầu nhiệm của sức nẩy nở sinh sôi ở thảo mộc.

“Người trồng cây lúa hành động với cách thức tương tự với cách thức ma thuật (magique) hay tôn giáo (religieux) nhưng hành động của họ không có hiệu quả ngay. Gặp thời tiết nhất định trong một năm, tuỳ theo vị trí các ngôi sao quyết định, nó bắt đầu làm đất, một công việc lạ kỳ không trông thấy kết quả tức thì. Trong đống đất đã vun xới ấy, nó vùi những củ hay hạt giống ăn được mà nó cần dùng để nuôi thân. Sau đấy, một khi làm xong công tác tập truyền ấy rồi, nó chờ đợi. Nó giữ gìn các mảnh đất đã cấy hay đã gieo hạt bằng một hàng rào để ngăn cản các muông thú không được quấy nhiễu đến sự ấp ủ nẩy nở của các mầm hạt kia. Nó tự bảo vệ một cách tiêu cực. Một vài tháng sau nó thu hoạch gấp bội phần kết quả của những vật nó đã vùi xuống đất”. (René de Hetrelon, Essai sur l’origine des différences de mentalité entre l’Occident et l’Extrême-Orient).

Bởi thế mà người nông dân Việt Nam mới chọn gốc cây, nhất là cây cổ thụ làm nơi tụ khí linh thiêng, nhân đấy gửi gắm những bình vôi gia dụng lâu đời. Vôi là chất đá, lâu đời đá kết thành tinh, tụ lại gốc cây là giống thảo mộc cùng với đá trầu có tiền duyên thì càng làm tăng quyền năng linh thiêng ma thuật. Một gốc cây nào có nhiều bình vôi cũ sẽ biến thành nơi thờ cúng. Từ đây ma thuật biến sang tôn giáo rồi vậy.

Có hai dòng tín ngưỡng sùng bái, một thuộc về Nữ thần, một thuộc về Nam thần. Bản tính Đất Cây đồng nhất phần lớn thần linh ngự trong Cây Đất hay Đá, cho nên có thể bảo rằng Đá, Đất thuộc về Nam thần, Cây Cỏ thuộc về Nữ thần.

Nam thần = Địa linh nhân kiệt.

Thường thấy giữa đồng ruộng Bắc Việt một cái gò, cái đống đất có cây cổ thụ che phủ một cái bệ xây làm nền. Nông dân chung quanh đem hương hoa, rượu, xôi, gà đến cúng tế, vì đấy là một đền hay nền thờ Thổ Thần. Ngừơi ta kiêng xâm phạm vào khu vực này, cây không được chặt, đất không được cuốc. Nhiều khi nền thờ xây cũng không có, cây với gò bằng với mặt bờ ruộng.

Nền thờ Tổ tiên có 3 hình thức:

- một cái gò có cây cổ thụ che phủ

- một cái gò ở trên có xây cái bệ dưới cây cổ thụ

- một gốc cây với một bệ xây.

Hình thức thứ hai đủ bộ hơn cả, người ta đem đến gốc cây bầy hiện trên bệ thờ các đồ lễ. Gia chủ quỳ vái khấn khứa, vào ngày 1 hay 15 mỗi tháng. Cũng có khi vào ngày, thường là đặc biệt. Ở đây chỉ thấy có đàn ông đến lễ chứ không thấy đàn bà vì đàn bà không biết khấn Thổ Thần. Bởi thế mà có thể nói rằng đàn ông lễ Thổ Thần thuộc về Nam tính, gò đất là chính, cây chỉ là phụ.

Những Thổ Thần hành động trong một phạm vi nhất định. Nông dân tin các ngài trông nom che chở phù hộ cho ruộng đất của một làng, một xóm, cho nên ở một làng người ta thấy có nhiều bệ thờ Thổ Thần, hay Thần Đống.

Những đồ lễ cúng Thổ thần không phải chỉ có Thổ thần hưởng mà thôi. Ngoài đồ lễ Thổ thần còn có đồ lễ cúng cho vong linh chúng sinh nữa. Đấy là những cô hồn không thừa tự, chết đường chết chợ, xa cửa xa nhà, vô thừa nhận, không nơi nương tựa cho nên quây quần chung quanh Thổ thần làm môn hả. Những cô hồn ấy rất nguy hiểm có thể quấy rối địa phương bằng dịch tễ. Bởi thế nhân dân phải cúng lễ cầu yên hàng năm vào mùa hè. Lễ này thường làm tại nơi thờ Thổ thần. Các thần bảo hộ cho làng gọi là Thành hoàng cũng thuộc về một hạng Thần linh. Thành hoàng cũng như Thổ thần chủ tế của làng; được thờ ở trong Đình làng, nơi họp bàn việc làng của các đàn anh trong làng. Như thế chứng tỏ đàn ông mới cúng Thần. Gần Đình thường thấy những cây cổ thụ không ai được xâm phạm. Cái Đình ở đây thay cho cái bệ ở giữa đồng cho nên người ta cúng tế ở trong Đình chứ không ở tại gốc cây.

Đến đây tục thờ Cây hay thần linh trên cây đã tiến hóa. Trọng tâm đã từ cây truyền vào Đền, Đình. Tuy thế mà Cây cối vẫn giữ tính cách linh thiêng vì là thuộc về thần, nhưng bàn thờ thần Thành hoàng là bài vị, sắc phong thần của nhà vua để ở trong cung Đình hay torng Khám trên kiệu khi rước sách. Sự tương tự giữa Thổ thần và Thành hoàng là ở chỗ Thành hoàng cũng cai quản chúng sinh của một địa hạt mình bảo hộ. Hai lần một năm nhân dân cũng làm lễ kỳ yên chúng sinh ở cửa Đình và chúng sinh không có quyền vào trong Đình của Thành hoàng.

Cả hai, Thổ thần và Thành hoàng đều là thần linh. Nghi lễ thuộc về địa phương. Rõi theo sự tiến triển về cấp trật Thần đạo thì người đi đầu từ chúng sinh, Thổ thần, Thành hoàng đến Đức Thánh. Uy quyền đức Thánh lan ra khắp một xứ, ở đâu cũng có tín đồ, và nghi lễ được quy định theo quốc giáo. Đức Thánh thuần tuý Việt Nam của nhân dân sùng bái thì có đức Thánh Trần Hưng Đạo Vương, đức Thánh Ông hay Lê Văn Duyệt là phổ thông hơn cả, bên cạnh đức Thánh Khổng hay Khổng Phu tử ở Trung Hoa đem vào được thờ ở Văn miếu thuộc tín đồ Nho sĩ.

Thế lực đức Thánh như đức Thánh Trần lan khắp cả nước từ Lạng Sơn, Thanh Hóa. Sự tích Thánh Trần thuộc về lịch sử cũng như sự tích Đức Ông vậy. Riêng Thánh Trần là vị anh hùng vĩ đại của dân tộc, sau khi giải cứu quốc gia khỏi cuộc xâm lăng Mông Cổ, Ngài rút về yên nghỉ và quy tiên ở Phả Lại. Cho nên ở đấy có đền thờ Ngài gọi là đền Kiếp bạc hàng năm xưa kia quốc dân tấp nập đến hành hương vào ngày 15 tháng 8, là ngày kỵ có mở hội 5 ngày. Phương ngôn nói:

Tháng 8 giỗ cha tháng 3 giỗ mẹ.

Giỗ cha tức là quốc phụ Trần Hưng Đạo Vương hay là Thiên phụ so với Địa mẫu là thánh mẫu Liễu Hạnh giỗ vào tháng ba.

Từ đằng xa, đền hiện ra đàng sau đám cây cổ thụ nguy nga mà nhân dân cho là linh thiêng, có quyền năng thần bí siêu nhiên. Theo sách Cương Mục thì vào thời Lê, vua Thái Tông có sắc lệnh cấm không được chặt những cây ấy và dân tin rằng chỉ hái một cái lá cũng đủ ốm đau. Đức tính linh thiêng của những cây ấy là do thuộc quyền sở hữu của Thánh Trần, nên phần quyền năng thiêng liêng của Ngài đã ngụ ở tại đấy.

Ngoài ra một điểm đặc biệt là nhân dân đến hành hương ở đền Kiếp bạc gồm có một số lớn phụ nữ nữa, thành ra nghi lễ Nam Thần một khi trở nên quốc giáo đã mất tính cách nguyên thuỷ, không còn nghi lễ thuộc riêng cho đàn ông.

Người ta tin rằng quyền năng hay đức tính của Thánh Trần ngự trị tất cả chúng sinh ma quỷ bởi thế mà người ta đến cầu xin đức Thánh trừ tà trị bịnh. Hàng năm đức Thánh đã chứng tỏ trị được các bệnh hiểm nghèo và giải trừ tà ma ôn dịch. Ngài chữa bằng phép thần kỳ trong những ngày hội. Đức Thánh giáng hiện xuống để sai khiến một số thầy pháp, thầy bùa, cô đồng bà cốt. Các người Thánh ấy mất hẳn cá tính ngày thường, cử động như có thần lực sai khiến thật, nào thắt cổ, nào cắt lưỡi. Thánh Trần cũng giáng ngự xuống các bà đồng khiến cho mất cả ý thức phụ nữ để cử động như đàn ông vậy. Họ ăn mặc khăn trầu áo ngự mầu ngũ sắc loè loẹt. Sau buổi lễ hành hương họ về làng họ để bắt tà ma cùng chữa bệnh.

Một ký giả ngoại quốc được mục kích đám rước Thánh Trần ở Hà Nội ngày 31-5-1908 kể lại rằng có nhiều ông đồng xuyên thiết lạch thủng qua má và rạch lưỡi bằng dao, máu chảy đầm đìa. Máu ấy được hứng vào các tờ giấy bản để phân phat cho tín đồ dùng làm bùa trừ tà chữa bệnh. Ý nghĩa những hành vi ấy thật rõ rệt: đức Thánh Trần có quyền linh thiêng đã truyền một thần quyền năng ấy vào ông đồng, bà đồng và máu kia thấm vào giấy bùa cũng có đặc tính ma thuật như chính máu của Ngài vậy. đấy là đại khái lịch trình tiến hóa của thần linh thuộc Nam tính có liên hệ mật thiết với cây cối cổ thụ linh thiêng, kể từ Thổ thần địa phương đến Thành hoàng và đức Thánh ở quốc gia, ba cấp thần linh chi phối lễ nghi của toàn quốc.

Nữ thần

Phàm cây linh thiêng thuộc về Nữ thần thì người ta nhận thấy ngay ở những đồ mã treo trên cành: nào hài, nón lá, đồ dùng của phụ nữ. Những đồ lễ ở gốc Cây của Nữ thần là do phụ nữ đem cúng vào ngày sóc (1) và vọng (2) hằng tháng. Cũng có trường hợp đặc biệt đàn ông đến cúng lễ ở cây Nữ thần nhưng là trường hợp ít nhất, còn phổ thông thì chỉ phụ nữ mới đến cúng lễ Cây Nữ thần.

Khi nào Cây linh được thờ chưa lâu thì ở dứơi gốc không có xây cất chi cả. Người ta cúng bái ngay tại bên đường. Rồi chợt một ngày kia, người đến lễ bái đông đảo, lối xóm xây cất ở gốc Cây một cái lều tranh hay một bệ thờ cao chừng 1m50 kiểu mẫu phổ thông của nhiều Đền, Miếu sau này. Miếu có kiểu diện tích chừng 4 hay 5 thước vuông, trong đó không phải chỉ có 1 bệ thờ mà còn cả những bài vị thần linh nữa. Bài vị này còn để đem đi rước, vì tất cả thần linh đều tập trung ở đấy. Và cũng như miếu Thổ thần, miếu Bà cô, sẽ dần dần thay thế cho Cây trở nên danh tiếng linh thiêng vì n hiều kỳ tính uy linh hiệu nghiệm, các nơi người ta kéo đến hành hương và bấy giờ Miếu đã trở nên Đền, như đền Sòng ở Thanh Hóa, chẳng hạn. Giữa Miếu và Đền không có chi khác về nghi lễ cũng như đối với Cây. Vẫn là nơi của đa số phụ nữ đến lễ bái Nữ thần.

Trong hàng các đền ngoài Bắc Việt có tiếng linh thiêng là đền Sòng, đền Phủ Giầy, huyện Vụ bản tỉnh Nam Định thờ thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa. Hàng năm vào 3 tháng 3 nhân dân đến hành hương tấp nập.

Có nhiều cung điện được xây cất chung quanh ngôi đền chính, trước mặt có hai gốc Cây cổ thụ tại cửa vào đền. Ở đây đa số tín đồ là phụ nữ, nhưng vì Nữ thần đến bậc quốc tế, có sắc vua phong cho nên cũng có cả tín đồ đàn ông đến lễ bái cầu khấn. Cũng như ở Kiếp bạc, các ông đồng bà đồng có hai nhân cách, như... (người đọc đến đây hẳn kiên trì và thu được nhiều điều bổ ích - Tạm thế đã nhỉ)

27/02/2021

Mẹo vặt

 https://fb.watch/3VUpfQqQvk/

https://fb.watch/3VUpfQqQvk/

THÁNG GIÊNG TRÊN ÁO MẸ

 Kiên Duyên.

Sau nhà vài búp lá dong

Tháng giêng níu xuống lưng còng Mẹ tôi

Mưa phùn xanh lá nhọ nồi

Hoa đào buông cánh tường vôi nhạt màu

Bao giờ lại đến xuân sau

Con về cho mặn cánh trầu Mẹ têm

Bánh chưng sẽ buộc lạt mềm

Để run tay Mẹ bóc đêm giao thừa

Câu kiều bên Mẹ ngày xưa

Con như đứa trẻ mới vừa lên ba

Liêu xiêu mấy bụi tre già

Xin trời đừng để mắt nhòa Mẹ tôi

Xuân qua - xuân nữa để rồi

Dây trầu đã úa bình vôi còn đầy

Xin đừng để chuối chín cây

Tò vò kén tổ treo dày mái tranh

Tháng giêng con nhện giăng mành

Đồ rau đã nguội củ hành đã khô

Mực phai nét chữ ông đồ

Thạch sùng tắc lưỡi Cóc ho đêm dài..

Lên Chùa giải hạn giêng hai

Chiều mưa thoang thoảng ngân vài giọt chuông..

24/02/2021

Hà Nội, Nam Định không phải là nơi khai sinh ra món Phở huyền thoại ?

Trần Quang Minh 

      

Một gánh phở ở Hà Nội đầu thế kỷ 20 – Ảnh tư liệu

      Tiếp theo bài trướchttps://tuanhuusac.blogspot.com/2020/11/pho-bo-mon-qua-can-ban.html, tôi xin giới thiệu bài này để tỏ tường hơn về món Phở. 

Kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã có nhiều tranh cãi nguồn gốc ra đời của Phở. Tuy vẫn còn bất đồng về nơi xuất xứ thực sự hay thời điểm ra đời nhưng hầu hết cùng chung quan điểm là Phở được khai sinh trong thời Pháp thuộc, ở giai đoạn người Pháp bắt đầu đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở Việt Nam.

Theo lời kể của ông Võ Văn Côn – Nguyên là Chef Bếp Việt của Vua Bảo Đại, có một giai thoại khá thú vị về nguồn gốc của món Phở.

Mình (Tuấn Long) đồng ý với giả thuyết này.

Trong Tự điển tiếng Việt – Bồ đào Nha – La tinh của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 không có từ “Phở”. Trong Tự điển Huỳnh Tịnh Của (biên soạn năm 1895) và Tự điển Genibrel (biên soạn 1898) cũng không có từ Phở. Danh từ Phở được chính thức ấn hành lần đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (1930) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo và giảng nghĩa: “Món ăn nấu bằng bánh bột gạo thái nhỏ với nước dùng bằng thịt bò hầm”.

Nhà Văn Nguyễn Công Hoan từng viết: “Năm 1913… tôi trọ số 8 Hàng Hài… thỉnh thoảng, được ăn phở (hàng Phở gánh rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu, 5 xu)”. Phở rong bắt đầu thịnh hành nên bị chính quyền đánh thuế: “… Họ phải mua hai hào tem thuế mỗi ngày. Như vậy có thể xem Phở xuất hiện khoảng giữa những năm 1900 đến 1913”.

Người Việt ngày xưa 99% là nông dân, họ coi bò là loài gia súc thân thương và hữu ích (sức kéo) nên không ăn thịt bò! Thậm chí còn bị xử tội nếu không chứng minh được bò già hoặc ốm chết (tuanlong).

Vì thế nói quê hương phở bò ở Nam Định là không hợp lý.

Chuyện là:

       Năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam cả miền Bắc lẫn miền Nam đi lính cho Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Sài Gòn tên Huỳnh. 

       Đơn vị ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và ông được giữ chức bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam.          Sáng nào ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to: “Feu! Feu!” có nghĩa là “Nổi lửa lên!” (feu = ngọn lửa - tiếng Pháp) để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều, ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới, hy vọng anh em binh sĩ An Nam sẽ cảm thấy dễ nuốt hơn.

Sau khi được các “Sếp Tây ” cho phép, ông bèn lấy nước súp bò của Tây… cho hầm chung với quế, hồi, gừng. Riêng “ánh tài phảnh” mua của người Tàu bán ở Khu Chinois rồi ông Huỳnh nêm thêm nước mắm vào súp cùng với hành, ngò rí, hành tây… cho hợp khẩu vị Việt Nam. Tuyệt vời thay, ở xứ lạ quê người, buổi sáng trời lạnh như cắt da, mà lại được ăn một bát súp nóng hổi ngào ngạt đậm mùi quê hương thay vì ăn bánh mì Tây quá ư nhạt nhẽo!

Binh sĩ An Nam ủng hộ Chef Huỳnh hết mình. Nấu bao nhiêu cũng hết! Các sĩ quan Pháp thấy vậy đòi ăn thử, ai cũng tấm tắc khen ngon rồi thắc mắc: “Tên món này là món gì mà sáng nào Monsieur Huỳnh cũng ra lệnh Feu Feu vậy?”

Không chần chừ ông Huỳnh trả lời: Thưa Sếp, tên nó là Phở (Feu) đấy!

Phở ra đời năm ấy – năm 1910, được Tây lẫn Ta yêu thích và chết tên “Feu” từ đó. Khi muốn ăn, sĩ quan Tây chỉ cần nói “Feu Feu” là có tô phở bò hầm kiểu An Nam nóng hổi khói bốc nghi ngút theo gió thơm lừng cả doanh trại.

Nhiều binh lính An Nam nhà ở Hà Nội sau khi giải ngũ về đã lấy Phở gánh với tiếng rao: Feu….ớ… làm kế sinh nhai, thực khách là lính Tây và kiều dân Pháp. Dân Hà Nội cũng ăn thử và “mê tít” món “Feu” (Phở) từ đó!

Ở Đà Lạt năm 1930 có phở Gare xe lửa là tiệm Phở Bò đầu tiên do con ông Huỳnh làm chủ. Chữ Tô Xe lửa (Tô lớn) từ đây mà ra. Phở Gare Dalat sau 1960 dời vế Phú Nhuận (Sài Gòn) lấy tên là Phở Bắc Huỳnh.

Ở Sài Gòn trước năm 1940 có tiệm Phở Turc là tiệm Phở đầu tiên. Chủ tiệm cũng là dân đi lính Tây giải ngũ về, ông này nói tiếng Pháp giỏi nên có nhiều khách Tây đến ăn.

Tranh “Gánh phở rong ở Hà Nội” của Maurice Salge (1913)

Ngày nay, món Phở đã theo chân người Việt đến khắp nơi trên thế giới và trở thành món ăn “thương hiệu” của Việt Nam. Dù nguồn gốc của món ăn còn gây nhiều tranh cãi nhưng những giai thoại về Phở vẫn rất đáng để tham khảo.

Ngoài ra, cũng có thể xem Phở là một trong những ví dụ đặc trưng cho khái niệm Bricolage (lai ghép) mà các nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực dùng để chỉ món ăn thiên hướng lai ghép (kết hợp, biến tấu từ nhiều nguồn thức ăn ngoại lai) hơn là tự thân sáng tạo.

 

Đại khái về người Việt Nam

Trần Trọng Kim/ Việt Nam Sử Lược 

Người Việt-nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm-lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm-ngăm đen, người nào nhàn-hạ phong-lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng-trắng như màu ngà cũ.

Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn-lẳn con người, chứ không to-béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn-bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng-điệu đi-đứng thì nhẹ-nhàng và xem ra bộ vững-vàng chắc-chắn.

Áo-quần thì dài rộng, đàn-ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn-bà ở Bắc-Việt và phía bắc Trung-Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành-thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung-Việt và Nam-Việt thì đàn-bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí-tuệ và tính-tình, thì người Việt-nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại-khái thì trí-tuệ minh-mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tình vặt, cũng có khi quỉ-quyệt, và hay bài-bác nhạo-chế. Thường thì nhút-nhát, hay khiếp-sợ và muốn sự hòa-bình, nhưng mà đã đi trận-mạc thì cũng có can-đảm, biết giữ kỹ-luật.

Tâm-địa thì nông-nổi, hay làm liều, không kiên-nhẫn, hay khoe-khoang và ưa trương-hoàng bề ngoài, hiếu danh-vọng, thích chơi bời, mê cờ-bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ-bái, nhưng mà vẫn không nhiệt-tin tông-giáo nào cả. Kiêu-ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Đàn-bà thì hay làm-lụng và đảm-đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia-đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt-nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong-tục, nói một thứ tiếng. Cùng giữ một kỷ-niệm, thật là cái tính đồng-nhất của một dân-tộc từ đầu nước đến cuối nước.

Người nòi-giống Việt-nam ta mỗi ngày một nẩy-nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường-thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm-ấp, dứt Chiêm-thành, chiếm đất Chân-lạp, mở ra bờ-cõi bây giờ.

Từ khi người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai-trị mấy lần, chịu khổ-sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự-chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc-biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí-lực của người mình không đến nỗi kém-hèn cho lắm.

Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẻ-vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy-vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường-thịnh.

Tranh "Thiếu nữ miền Bắc". của họa sĩ người Pháp Jean Despujols (1886-1965)

--


 


23/02/2021

TẾT UỐNG CÙNG ĐỒNG ĐỘI

 Hoàng Xuân Họa



Ðêm chuyển giao thế kỷ

ly, tràn ly rượu đầy

khật khưỡng đất trời say

ta vẫn tỉnh, ô hay!

nhớ chiến trường năm xưa

tiểu đội mười hai đứa

có một chiếc bánh chưng

xắn chia mười hai phần

chẳng đứa nào dám ăn

sợ ăn là hết tết.

Nay mỗi độ xuân về

nhà tớ gói khối bánh

thừa chia tiểu đội mình

mỗi thằng hai ba chiếc

Còi ơi mày nằm đâu

mát xanh trên đồi cọ

Rì ơi mày nằm đâu?

thơm hương hồi xứ Lạng

tết nâng ly rượu đầy

nao nao nhớ bọn bay

đắng, cay xè khuông họng

vung chén rượu vào mây.

Ðêm giao thừa 2000

 


Bẽn Lẽn

 Hà Mặc Tử


Trăng nằm sóng soải trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi

Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe

Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em